NGÔN
VÀ HÀNH
(Tài liệu
linh tinh)
Tuổi
thơ của Bankei
Khi bắt đầu
đi học, Sư phải học các cổ thư của Khổng giáo ở chùa
Dairakuji. Sư không thích học nên luôn luôn về nhà sớm. Bị
anh la rầy nhiều lần nhưng chú bé vẫn không bỏ thói trốn
học. Trên đường về nhà, chú bé phải qua sông Tibo. Người
anh ra lệnh cho người chèo đò: "Nếu nó về sớm, đừng đưa
nó qua sông bất cứ vì lý do gì." Một ngày kia chú bé lại
bỏ học về sớm. Người chèo đò làm theo lệnh ông anh. Chú
bé tuyên bố "ở dưới đáy sông chắc chắn là có đất cứng!"
xong nhào xuống đáy, rồi nổi lên thở hào hển lội được
qua bên kia bờ.
Một ngày
kia sư tự bảo: "Ta không thích học cổ thư đạo Khổng, mà
trở về nhà thì lại bị anh la rầy. Ta nên chết quách - sao
ta còn bám víu đời sống này ?" Nói xong ngài nuốt một thứ
nhện độc mà người ta bảo là có thể làm chết người.
Ngài nuốt vào một búng đầy miệng những con nhện độc
ấy và vào trốn trong nghĩa địa, thản nhiên đợi cái chết.
Tuy nhiên, sáng hôm sau ngài vẫn thấy mình còn sống.
Vào ngày
mồng năm tháng năm, làng có tục lệ cho tất cả những bé
trai trong làng chia thành hai đội dàn dọc theo hai bên sông
để ném sỏi vào nhau xem bên nào thắng. Mỗi khi sư ở bên
nào thì những đối thủ ở bên bờ kia phải chạy trốn.
Sư không bao giờ rút lui khi chưa thắng trận.
Tượng
Phật của vị trụ trì
Giảng đường
chùa Long Môn tọa lạc bên phải cổng chùa. Vào thời đại
Kanei, vị trụ trì ở chùa Saihòji gần đấy có một tượng
Phật nhỏ do Kukai điêu khắc (một thiền sư nổi tiếng về
hội họa và viết chữ. ND), pho tượng chỉ có 4 tấc Anh nhưng
rất đẹp và có hồn. Bấy giờ sư chừng 14 tuổi, ao ước
có được pho tượng mà vị trú trì Juki rất quý, nhất định
không chịu rời.
Một ngày
kia chú bé nghĩ "nếu ta cầu nguyện, chắn chắn pho tượng
sẽ đến nơi ta. Nếu sự cầu nguyện của ta không có hiệu
nghiệm thì thế là đạo Phật không đáng tin, dù ta có chứng
đạo cũng không ích gì." Chú bé để ra 30 ngày để cầu nguyện
hết sức thành khẩn. Nhưng đến ngày thứ 29 vẫn chưa có
kết quả. Chiều hôm ấy tình cờ một người bạn đến thăm.
Trong câu chuyện chú bé giải thích lý do sự cầu nguyện của
mình, và bảo bạn rằng không thể tin vào đạo Phật. Vừa
nói xong thì thình lình vị trú trì đến gõ cửa. Chú bé rất
ngạc nhiên khi trông thấy ông. Sau khi chào hỏi, chú nói: "Vì
sao thầy lại đến thăm con vào cái giờ khuya khoắt này?"
Vị trú trì nói: "Tôi giao cho cậu pho tượng quý này. Tự
nhiên trong tâm tôi cảm thấy rất nôn nóng, nên quyết định
đến đây ngay, không chờ đợi được!" Nói xong, ông rút
từ trong áo ra pho tượng để tặng chú bé. Ngay trong tâm chú
lúc ấy phát sinh một quyết định phi thường là mình phải
trở thành tu sĩ.
Tại
trạm đổi ngựa
Trong thời
kỳ hành cước (tục lệ ngày xưa, các thiền sư đi khắp
nơi để hỏi đạo các thiền sư khác - ND.) khi Sư đi qua trạm
ngựa Mino chân đã mỏi, ngài thuê một con ngựa để cỡi,
nhưng ngay khi đó có một xe hàng quý giá đi đến và người
lái ngựa nổi lòng tham, bèn lôi sư xuống khỏi yên để chở
số hàng quý giá mang đi. Sư ngồi kiết già dưới trạm ngựa,
trông hơi rầu rĩ. Muốn an ủi sư, người phu trạm tiến lại
hỏi "Thầy có giận không?" Sư trả lời "Vì việc lớn mong
cầu giác ngộ mà tôi đã từ bỏ quê nhà, chống lại ước
muốn của cha mẹ; thế mà nay tôi lại bất mãn vì chuyện
nhỏ nhặt này! Tôi rất hối hận." Nói xong ngài đứng dậy
bỏ đi. Và ngài thường bảo: "Từ lúc ấy trở đi tôi đã
tuyệt gốc giận dữ."
Về sau khi
sư ra giảng dạy, mỗi khi ngài đi qua trạm ấy, tất cả những
người địa phương kéo đến thi lễ. Có một người tên
Seishitchi dựng một gian chòi để dành cho sư. Mỗi khi sư đến,
ông đem đồ cúng dường để chào đón. Ngày nay vẫn còn
dấu tích.
Bankei
suýt chết
Một lần
khi hành cước, Sư qua sông ở thành phố Yamada ở Òmi. Không
có hành khách nào khác trên thuyền. Người lái bèn ghé vào
bờ và khởi sự chất lên thuyền những chồng củi. Thấy
cử động của y có vẻ lén lút như một tên trộm, sư nói:
"Có phải ông trộm củi đó không." Người lái thuyền lẩm
bẩm: "Im đi !" Sư nói: "Nếu anh ăn trộm củi ấy thì hãy
giết tôi trước. Tôi không thể để cho anh thành một kẻ
trộm." Vừa nói ngài vừa ngăn người chèo đò và saün sàng
chết nếu cần.
Mặc dù ngu
dốt, người ấy cũng nhượng bộ lý trí và đẩy thuyền
ra vì không thực hiện được ý định lấy trộm.
Giữa
đám người ăn xin
Từ Kaga (ngày
nay là quận Yshikawa) trở về, Sư đi qua Edo. Dừng lại ở
Komagata (một khu vườn nổi tiếng thuộc phái Thiên thai ở
Tokyo. Pho tượng chính ở đây là một Quan Âm có đầu ngựa.
Câu chuyện này xảy ra lúc Bankei được 35 tuổi. Hồi ấy
kẻ ăn xin và những người sống ngoài lề xã hội họp thành
đoàn thể ở hai quận Asakusa và Shinagawa trong đô thị. Mỗi
quận có một ngưòi cầm đầu đám này. Người này sẽ báo
cáo cho người đầu đảng tất cả hành khất trong thành phố.
ND), ngài hòa mình với những đám ăn mày, đào luyện giới
và định để nuôi dưỡng trí giác ngộ. Bấy giờ trong lúc
sĩ quan trông coi chuồng ngựa của lãnh chúa đang dẫn một
con ngựa, nó bỗng bứt dây bỏ chạy. Con ngựa chạy khắp
các đường phố, nhiều đám người chạy theo bắt lại nhưng
không thành công. Khi thấy thế Sư nhận xét: "Lý do không giữ
được con ngựa chỉ là vì người và ngựa rời nhau."
Viên sĩ quan
về kể lại những lời ấy cho lãnh chúa nghe. Ông này nói:
"Tôi nghe Yotaku (tức Bankei) đã đến vùng này. Còn ai khác
ngoài ông ta có thể thốt ra những lời như thế." Vị lãnh
chúa liền cho người đi thăm dò, và khi biết quả thật là
Sư, ông liền thỉnh về, và dựng cho ngài một nơi ẩn cư
tại đấy.
Những
đồng tiền bị mất
Một thời,
thiền sư Bankei sống hết sức chật vật ở Mino. Những dân
làng xung quanh cảm động vì hoàn cảnh thiếu thốn của ngài
đã đến giúp đỡ và tìm chỗ ở cho ngài. Khi khám phá túi
tiền của ông bị mất 10 ryò (đơn vị tiền tệ đương thời)
ông lý trưởng nghi ngay là Bankei lấy trộm. Từ đấy sự
giúp đỡ Sư dần dần giảm sút.
Một năm
trôi qua, khi đến thăm nhà người con rể, ông lý trưởng
mới biết một người đàn bà trong cơn tuyệt vọng đã lấy
trộm số tiền nói trên. Ông liền cho gọi Bankei, giải thích
những gì đã xảy ra, tỏ ý hối hận và xin lỗi. Bankei trầm
tĩnh nói: "Tốt lắm, tốt lắm. Nhưng việc này không dính
đến tôi, dù ông nghi tôi hay tôi bị nghi ngờ - ngay từ đầu
đã không nghĩa lý gì. Toàn thể sự việc chỉ là do những
ý tưởng khởi lên."
Nhà
nho
Khi Sư viếng
chùa Saniyùji ở Bijen, tất cả những nhà nho ở đấy chống
Phật giáo nên ghét danh tiếng Sư, tìm cách hạ nhục. Họ
đến tranh luận với ngài suốt gần 3 tháng.
Vào buổi
thảo luận cuối cùng, Nakagawa người thủ lãnh trong đám nhà
nho nói những người theo Phật Thích Ca là kẻ ăn bám.
Sư hỏi:
Còn những người theo đạo Khổng thì thế nào?
Nakagawa trả
lời: Giữ gìn trật tự trong vương quốc và bảo vệ quần
chúng. (Trị quốc, bình thiên hạ.)
Sư bảo:
Tôi nghe người nào muốn làm sáng cái đức sáng thì trước
hết phải xếp đặt việc nhà (tề gia). Người nào muốn
tề gia trước hết phải tu thân. Người nào muốn tu thân
thì trước hết phải sửa tâm cho ngay thẳng (chánh tâm). Người
nào muốn chánh tâm thì phải có ý định thành thực (thành
ý). Thế mà về phần ông, ông muốn làm cho "thành thật" cái
ý định gì, và với cái tâm nào ông làm việc đó?
Người kia
không trả lời được. Sư cười lớn bảo: Nếu ông chưa
hiểu được văn tự của bậc hiền nước Lỗ ở phương
đông, thì làm sao ông có thể hiểu được ý nghĩa của Bồ
Đề Đạt ma từ phương tây đến?
Nakagawa hoàn
toàn bối rối, rút lui.
Từ đấy
các nhà nho đem đệ tử đến học đạo với sư, lại còn
theo sư tọa thiền.
Một trong
những người này trình sư một bài kệ:
Con diều
bay trên trời
Con cá lội
dưới biển (1)
Thiền của
tổ sư!
Sư nói: Thiền
của ông thì sao ?
Nhà nho không
thể trả lời.
(1) Câu mở
đầu sách Trung dung của Khổng tử, ý chỉ mọi loài thích
thú biểu hiện bản chất tự nhiên của chúng. ND
Vợ
người nhà giàu
Vì những
lý do nào đó, lúc nhỏ sư chấm dứt liên hệ vớí người
anh Tadayasu. Tadayasu rất thân với ông nội tôi Sukeyasu, xem
như ruột thịt. Sukeyasu xây một cái chòi trên núi, phía trên
nhà chúng tôi, và mời ông đến ở. Tại đây sư đã có được
một nơi để tu thiền. Sư đích thân viết tên am thất đặt
ở lối vào. Hồi đó Sư là một người khách thường lui
tới gia đình chúng tôi như người nhà. Sau khi ông xuất gia
làm tăng, gia đình tôi cũng thường làm tiệc chay mời Sư
đến.
Người vợ
của một nhà giàu ở Ikaba thuộc tỉnh Shiso (nay là Yamasaki-
ND) có thói tham lam tàn tệ và luôn luôn lợi dụng người
khác. Tướng bà ta như một con quỷ dạ xoa; gia đình bà đều
khiển trách bà về thói tham lam nhưng không làm bà lung lay.
Cả nhà đều giục bà ta đi nghe Sư giảng, cuối cùng bà chịu
đi Amosi.
Ngày hôm
ấy Sư nhận lời mời dự tiệc chay tại gia đình chúng tôi,
và khi xong tiệc ngài đã giảng một bài pháp cho tất cả
mọi người. Người đàn bà này đến lắng nghe một cách
cung kính. Gương mặt bà dần trở nên hiền dịu, thành một
con người khác hẳn. Trước khi bài giảng kết thúc, bà ấy
đã biến cải hoàn toàn. Mắt bà đẫm lệ, bà bày tỏ niềm
hối hận và bao nhiêu tội lỗi của bà trong quá khứ đều
tan ra như sương. Lập tức bà xin ghi danh vào chùa làm ni cô,
và bà đã tu suốt những ngày còn lại của bà. Bà dựng một
nơi ẩn cư đơn giản, cúng dường cho tăng ni, và luôn hoạt
động cho đến ngày nay.
Ông bà tôi,
vú nuôi tôi, đã chứng kiến tận mắt những điều này và
thường lập lại với tôi không bao giờ chán. Họ bảo: "Phòng
giảng của sư thì hẹp nhưng không khác gì cảnh thuyết pháp
tại đỉnh núi Linh thứu ngày xưa."
Chó
sói
Vào một
buổi chiều khi Sư đi từ Shisò đến Abòsi, có một con chó
sói đứng ngay giữa đường ngoác hàm ra chờ sư đến. Nhìn
vào trong miệng con chó sói, sư thấy có một cái xương lớn
chặn ngang cổ họng. Sư thò tay vào rút ra giúp nó. Hết sức
mừng rỡ con chó sói ngoan ngoãn cụp tai vẫy đuôi và bỏ
đi. Từ đấy về sau khi sư đi ngang qua con đường ấy, chó
sói luôn đi ra hộ tống ngài...
Lời
mời của người hầu
Khi ở Oju
sư nhận lời mời của Phurioka, một nhân viên trong cửa hàng
tạp hóa. Vào đúng ngày đã hẹn lại có một lời mời khác
từ viên tỉnh trưởng. Sư từ chối vì đã hứa trước với
nhân viên cửa hàng. Mọi người đều sợ phản ứng của
vị tỉnh trưởng, nhưng Sư bảo: "Làm sao tôi có thể chia
tâm tôi thành cao và thấp? Nhất là khi một tiểu viên chức
đã mời tôi? Ông ta đã phải bận tâm về việc này, đích
thân xem xét việc nấu nuớng dọn dẹp và chuẩn bị. Ý định
của ông ta biểu lộ sự tử tế sâu xa. Tỉnh trưởng thì
có thể vừa ra lệnh là có ngay tức khắc, vậy tại sao phải
mời đúng ngày hôm nay?"
Tỉnh trưởng
vô cùng cảm động và thán phục khi nghe những lời ấy.
Thiên
đường địa ngục
Một lần
một vị tăng hỏi: Ngài thường dạy rằng thiên đường địa
ngục, ngạ quỷ, atula, ... tất cả đều ở trong tâm không
hiện hữu ở ngoài. Nhưng trong kinh đức Phật dạy rằng:
Nếu đi về phương tây trải qua vô số cõi Phật sẽ có một
miền gọi là Cực lạc do đức Phật A Di Đà biến hóa ra.
Như vậy thì Phật nói dối sao?
Sư nói: Ai
quyết định về phương hướng ấy?
Từ
chính miệng ngươi
Một người
đến hỏi về lời nói của cổ đức. Sư nói: "Hiểu được
câu này lại thắc mắc về câu khác, cứ thế cho đến một
triệu lời không bao giờ dứt. Nếu ông thực chứng những
gì tôi nói thì từ chính miệng ông sẽ tuôn ra những lời,
câu kỳ diệu. Ngoài ra, chữ nghĩa ấy có ích gì cho sự học
đạo? "
Ngàn
vị Phật
Sư viếng
Katada và đến lễ nơi thờ một ngàn vị Phật. Những tượng
Phật này do Hòa thượng Genshin Tịnh độ tông điêu khắc.
Những người trong vùng ấy đều sống bằng nghề chài lưới.
Khởi đầu Genshin dựng một tòa nhà và đặt vào đó một
tượng Phật. Ngài dạy dân trong vùng ấy như sau: "Nếu miệng
các ngươi niệm Phật A di đà trong khi tay các ngươi quăng
lưới, thì chắc chắn các ngươi sẽ được nhiều cá." Bây
giờ, trải qua bao thế kỷ, sự việc vẫn không đổi khác,
điều này đã biến thành tập tục của địa phương. Khi
trở về Yamasina, sư nói: "Genshin quả có tâm bi mẫn của Bồ
tát Nhất Xiển đề. Thật đáng thán phục." Mọi người tán
thán: "Sư quả thật là linh hồn anh em với hòa thượng Genshin
sinh vào một thời đại khác !"
Tôi đã nghe
ở Kawachi có 7 nghĩa địa do bồ tát Jioghi sáng lập. Khắp
nơi bốn phía nghĩa trang ấy đều có những tảng đá khắc
tên chư Phật và thần chú. Lời cuối cùng của Jioghi là:
"Bất cứ người nào được chôn trong đất này dù đã phạm
năm trọng tội và 10 bất thiện đều sẽ được sinh lên
trời và thành Phật. Hành vi giác ngộ này, lòng từ bi vĩ
đại này không khác gì của hòa thượng Genshin".
Bây giờ
ta hãy nói đến những thiền sư giỏi thịnh hành ngày nay.
Khi những vị này giảng, họ chê Phật mắng tổ, coi thường
những giá trị ngày xưa. Rồi họ lợi dụng tình cảm của
những người thế tục ngu dốt để đưa ra 8 địa ngục nóng,
8
địa ngục lạnh, gây sự kinh hoàng trong tâm họ. Hoặc là
họ nói về chuyện lên trời và thành Phật, dụ dỗ những
người nghe bằng những câu chuyện về phần thưởng của
sự tích lũy công đức, hệt như một diễn viên vuốt ve trẻ
nhỏ. Nhưng nếu chúng ta nhìn nhận cái gì thực sự đang ở
trong tâm họ, thì chỉ là mong được lợi dưỡng danh tiếng
cho bản thân. Nếu có ai nghi ngờ điều này, họ sẽ bảo:
"Đấy là phương tiện để giảng dạy Phật Pháp." Sự thật
là họ trở thành những người đưa đường xuống địa ngục,
kéo theo quần chúng ngu dốt. Họ thật đáng thương !
Quà
tặng
Sư muốn
gởi một quà tặng 50 cây nến, bảo người ta gói vào trong
một chiếc hộp. Cái hộp rất lớn nhưng khi sư mở ra thì
thấy đáy hộp lót một lớp rơm khá dày. Ngài sai lấy hết
rơm ra, đặt thêm 50 cây nến cho đầy hộp. Ngài dạy: "Quà
tặng là để bày tỏ lòng thành. Nếu ham bày biện một cách
huênh hoang trống rỗng, thích bề ngoài giả dối, đấy là
hoàn toàn trái ngược với ý định của thầy tu già này.
Từ đây về sau các ông không được làm như thế." Ngày nay
khi dự tang lễ người ta thường chồng chất những lễ vật
thật lớn thật cao mà lại độn rơm ở dưới đáy rồi trên
đỉnh trang hoàng đầy bông hoa sặc sỡ và yêu cầu người
chủ lễ đến xem. Khi tổ chức một tang lễ khác họ chỉ
cứ việc đưa cùng một đồ cúng này ra bày biện, ngoài ra
không cần thay đổi gì. Họ có thể tiếp tục như thế với
trăm ngàn tang lễ khác cho đến khi những đồ cúng ấy thay
đổi mầu sắc và tan rã.
Chỉ
khi ấy họ mới thay cái mới.
Đức Khổng
tử ghét những người làm bộ mặt đau khổ (mà thực sự
trong lòng không có gì) nhưng chuyện này hiện nay lại càng
tệ hơn, những tín đồ của Sư không bao giờ làm như thế.
Theo thường lệ, dù vào ngày kỷ niệm chư Phật chư tổ hay
vào dịp cúng giỗ người chết, mỗi khi dự lễ cúng, Sư
luôn xem xét các thứ đựng đồ cúng trong buổi lễ có thực
đầy ắp và tươi tốt không. Vào những dịp như thế, ngài
không phân biệt thực phẩm dành cho người sống và đồ cúng
cho người chết.
Đếm
Thị giả
Jin hỏi: Ngày xưa khi thầy tọa thiền, thầy ngồi bao nhiêu
cây hương?
Sư đáp:
Khi ngồi suốt ngày, ta không đếm số những que hương. Ta
chỉ xem một cây hương là một ngày, một cây hương là một
đêm.
Vị thị
giả vô cùng kinh ngạc.
Giảng
dạy đặc biệt
Trong số
những đệ tử của Sư có tăng sĩ tên Soen. Ông có tính giản
dị chất phác, độc lập, chân thành, không ai có thể tìm
thấy lỗi nào trong cách hành xử của ông. Trên chiến trường
Pháp, Soen là một người anh hùng dũng cảm. Nhưng Sư luôn
luôn khiển trách ông ta vì thói thẳng thừng dễ động chạm.
Soen luôn xung phong về mọi sự, nhưng Sư thường rầy ông
và đẩy ông trở lui; điều này chỉ làm cho Soen quyết định
xông tới trước. Cuối cùng ông ta bị đuổi. Nhiều lần
ông trở lại sám hối, và xin nhập chúng trở lại. Không
ai hiểu được lý do hành động của sư, nhưng người ta nghĩ
rằng có lẽ Sư muốn làm cho tính tình của Soen dịu bớt,
đó là một cách giáo huấn đầy từ bi.
Trong kỳ
đại kiết thất ở Long Môn tự, Soen bị ốm sắp chết. Sư
thăm viếng ông tại nhà an dưỡng và thân mật bảo ông ta:
"Này A xà lê, mỗi ngày ông sống là một ngày ông phải làm
việc cho người khác."
Soen gật
đầu và từ trần. Những người khác không bao giờ nhận
chân được lòng từ bi bao la trong lời dạy của Sư.
Tích
cực và tiêu cực
Một vị
tăng thuộc phái Chân ngôn hỏi Sư : Theo trường phái của
tôi, có hai cách thiền quán về cái bất sinh trong khi quán
tưởng chữ A: Cách quán tích cực và cách quán tiêu cực.
Có phải ngài dạy lối tích cực hay không?
Sư bảo:
Đến đây.
Vị tăng
đến gần.
Sư hét :
Đây là phương pháp gì?
Vị tăng
câm miệng. Toàn thể chúng hội ở đấy đều ngạc nhiên.
Lỗ
mũi cư sĩ Jesso
Mỗi khi cư
sĩ Jesso nổi giận thì nước mũi chảy. Có lần ông đến
hỏi sư về điều này.
Sư bảo:
"Nước mũi có khác gì nước mắt không?"
Từ đó về
sau, cư sĩ ấy không còn để lộ ra ngoài sự mừng giận của
mình.
Kẻ
cắp
Trong đám
đông người đến tham dự kỳ kiết thất có một vị tăng
ở Mino nổi tiếng là kẻ cắp. Bất cứ đi đâu, ông cũng
gây xáo trộn trong chúng. Trong vùng ấy có 7, 8 vị tăng biết
rõ việc này, nên đã đến yêu cầu viên chức chính quyền
địa phương: "Vị tăng này là một kẻ xấu, mọi người
đều biết. Xin cho người nào đến lôi ông ta ra khỏi đại
chúng để tiệt sự ác ngay trong mầm mộng." Viên chức nói
lại cho Sekimon vị tăng tri sự và vị này đã chuyển lời
nói của viên chức ấy đến tai Sư.
Sư nổi giận
tuyên bố: "Vào thời gian tôi đang hướng dẫn một kỳ kiết
thất - theo yêu cầu mọi người, ông biết tại sao tôi làm
việc này không? Chính là để thay đổi thói tệ của những
người xấu, khuyến khích đức hạnh của những người tốt,
và để mọi người đều nhận ra được pháp thân của mình.
Bây giờ mà ca tụng người ngay thẳng và chối bỏ người
lạc hướng là chuyện hoàn toàn ngược lại với mục đích
thực sự của tôi."
Sekimon không
thể nói gì, đầy xấu hổ và ân hận. Lời ấy được bàn
tán khắp trong đại hội, tất cả mọi người đều khóc
vì xúc động trước lòng từ bi của Sư. Khi ấy vị tăng
đương sự lên tiếng: "Hôm nay tôi đã thâm cảm lòng từ
bi của một bậc đại sư! Từ đây cho đến mãi mãi về sau
tôi sẽ cắt đứt mọi tư tưởng xấu và chuyên tâm đào
luyện hành vi giác ngộ."
Từ đấy
về sau bất kỳ đi đâu vị tăng ấy luôn luôn nổi tiếng
về đức tinh tấn.
Với những
bậc thầy dạy pháp ngày nay, khi có người học nào mà họ
không ưa, họ sẽ gia công tìm lỗi để đuổi đi không cần
thông báo, xem như kẻ thù tệ nhất dù cho đó là em ruột
của họ! Ngược lại, nếu có người nào xem ra ích lợi cho
họ lập được tài sản và danh tiếng, thì dù thuộc môn
phái khác họ cũng ôm vào, tự khen mình là khôn khéo. Nếu
không có tâm từ bi, người ta sẽ kiêu ngạo như một a tu
la hay quỷ dạ xoa. Những điều như vậy cần phải tẩy trừ
và xem là đáng ghét. Mặc dù đã trụ trì chùa Ryojan 20 năm
nay, tôi chưa hề áp bức những người học, vì lời cảnh
cáo của bậc thầy vẫn còn vang dội bên tai tôi...
Bankei
và vị tăng hà tiện
Trong số
những đệ tử của Sư có Tsuyò. Ông ta là người rất tỉ
mỉ, để ý những việc vụn vặt, đi lượm thóc lúa đổ
trong nhà xay và vớt lên những cọng rau xanh nào ông ta thấy
trôi nổi trên giòng nước. Sư cấm ông ta làm việc ấy. Ông
ta thường đi rảo khắp nhà kho và hành lang để tìm kiếm
đồ đạc, không nơi nào mà ông không đi. Cuối cùng sư trục
xuất ông ta. Tsuyò nhờ bạn là Tairyò (Tairyò Sokyò 1638-1688,
đệ tử trưởng của Bankei. ND) can thiệp giùm và xin sám hối,
song Sư vẫn không tha. Nhiều năm sau, cuối cùng Tsuyò mới
được nhập chúng trở lại. Ông đến quỳ trước Sư. Sư
mỉm cười bảo: "Đã lâu tôi không thấy ông. Ổ, ông đã
già đi nhiều đấy !" Mọi người hết sức xúc động.
Nghĩ lại
chúng ta có thể thấy rằng Sư chỉ muốn giáo dục Tsuyò vì
những khuyết điểm của ông ta, nhưng chung quy lòng từ bi
của Sư không bao giờ thay đổi.
Cái
quạt của hiệp sĩ
Khi Sư ở
chùa Korinji, một hiệp sĩ đến viếng. Đưa quạt lên ông
ta nói: Vật này khi xuất hiện trong cõi hữu hình thì được
gọi là một cái quạt; nhưng từ khởi thủy nó là phi hữu.
Ngài có biết nó là vật gì vào cái lúc nó mới sinh ra chăng?
Sư nói: Tôi
biết.
Hiệp sĩ
hỏi: Ngài biết cái gì?
Sư bảo:
"Tôi biết rằng tôi không biết."
Hiệp sĩ
thở phào tán thán và tuyên bố: Chính đức Thánh cũng dạy
rằng biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không
biết, ấy gọi là biết vậy.(Một câu của Khổng tử dạy
cho học trò ngài là Tử Lộ, 542-480 trước tây lịch. ND.)
Sư lắc đầu
bảo : Hoàn toàn không phải thế.
Không
quy luật
Vào một
kỳ đại kiết thất ở chùa Long môn, có trên mười ngàn
người tham dự. Mọi người bảo: "Trong kỳ hội này, chắc
người ta sẽ phải lập ra những quy luật sách tấn mọi người
khiến cho toàn thể phải sợ run !"
Nhưng sau
đó chẳng có một bản quy luật nào được đặt ra, mà mọi
người vẫn an tịnh.
Thỉnh thoảng
Sư thăng pháp tòa bảo đại chúng: "Cái bất sinh có từ khởi
thủy - tất cả mọi người hãy bảo đảm là quý vị không
làm nó ẩn mất trong quý vị! Cái bất sinh ấy giống như
một quả bóng lớn bằng lửa: động vào nó bạn sẽ bị
đốt cháy. Tôi có thể nói với quý vị về nó ngay bây giờ,
nhưng nói không hết lời; tôi có thể sử dụng nó, nhưng
dùng không bao giờ hết. Với tôi, muốn sách tấn người khác
mà la lối um sùm khiến cho họ sợ hãi phải tuân hành, thì
chỉ là một sự lừa dối vô ích. Không bao giờ nên làm vậy."
Khi những
người trong chúng hội nghe điều này, tất cả hoài nghi của
họ điều tiêu tan.
Bảy
cái tọa cụ của Chokei
Khi Sư ở
chùa Phật môn thuộc quận Hirado, vị thiền sư trú trì chùa
Kòdaiji ở Nagasaki đến thăm Ngài. Trong buổi nói chuyện, vị
trú trì nhận xét: "Trong khi giảng dạy, Ngài chỉ giáo một
cách rõ ràng trực tiếp, cắt đứt mọi quan điểm sai lầm
và không bận tâm gì đến khổ hạnh trong việc tu tập. Tuy
nhiên câu chuyện về vị Tăng Chokei (854-932, đi tu năm 13 tuổi,
tham học rất nhiều nơi mà vẫn không giải nghi được. Sau
nhiều năm nỗ lực ngồi mòn 7 tấm tọa cụ mà vẫn chưa
ngộ, một hôm bất thần trong lúc cuốn rèm trúc, ông hoát
nhiên đốn ngộ và kế thừa giáo pháp của thầy là Khuê
Phong?, 822-908) với 7 tấm tọa cụ thì sao?
Sư nói: "Thượng
tọa nhớ lầm rồi. Chokei trải qua 12 năm đi khắp nơi học
đủ các bậc thầy, ngồi mòn 7 tấm tọa cụ, mà vẫn không
phá được khối nghi. Bỗng một ngày kia, ông cuốn rèm trúc
và hoát nhiên đốn ngộ. Lúc ấy ông đã làm bài thơ :
Kỳ thay,
diệu thay !
Cuốn rèm
lên tôi thấy cuộc đời.
Nếu ai hỏi
tôi đã học được gì
Tôi sẽ tát
phất trần vào miệng !