LỜI
NGƯỜI DỊCH
(Peter Haskel)
Tôi gặp
Bankei lần đầu vào mùa thu năm 1972. Trước đấy hai năm,
tôi đến đại học Columbia với hi vọng nghiên cứu về thiền
sử tông Thiên thai (Rinzai) của Nhật bản, nhưng bài vở trong
khóa học và vô vàn khó khăn trong việc nắm vững ngữ văn
Nhật đã chiếm hết thì giờ của tôi. Đến nay, khi rảnh
rỗi để làm công trình nghiên cứu, tôi chỉ còn mỗi một
việc là chọn một đề tài thích hợp. Lòng phấn khởi đầy
tự tín, trang bị bằng một dọc dài những đề án rất kêu,
tôi đến gặp giáo sư cố vấn Yoshito Hakeda. Ông kiên nhẫn
lắng nghe, gật đầu, nhưng cuối cùng, bất chấp những đề
án mà tôi đưa ra sau khi đã chuẩn bị hết sức công phu,
bất thần ông hỏi tôi có nghĩ đến làm việc về thiền
sư Bankei sống vào thế kỷ mười bảy chăng. Chắc tôi đã
tỏ vẻ thất vọng, chưng hửng. Mặc dù chưa hề thực sự
đọc Bankei, tôi đã có một ấn tượng mơ hồ về thiền
sư này như một hạng cuồng tăng trong thế giới thiền, một
người không tin vào giới luật, gạt phăng các công án và
cố tình làm cho sự giác ngộ, một công việc nghiêm trọng
chết người, trở nên hoàn toàn phổ thông và giản dị. Tôi
cố trình bày rằng, tôi hi vọng được làm việc về một
thiền sư chính thống, một bậc thầy thuộc về truyền thống,
vào thời Trung cổ chẳng hạn. Nhưng giáo sư Hakeda vẫn nói:
Hãy đọc qua những bài giảng của Bankei khi nào anh có dịp.
Anh sẽ thấy thú vị. Tôi vẫn hoài nghi, không làm gì thêm
về Bankei, và quyết định tìm một để tài khả kính hơn,
do chính tôi chọn lựa.
Năm sau, giáo
sư Hakeda lại nhắc đến Bankei lần nữa, và mặc dù tôi lộ
vẻ miễn cưỡng rõ rệt, ông vẫn dí vào tay tôi một tập
bài thuyết giảng của Bankei mà bảo: "Cố gắng đọc đi một
ít".
Vì phép lịch
sự tôi nghĩ ít nhất cũng nên lướt sơ qua tập sách. Bởi
thế tối hôm ấy tôi đọc bài giảng đầu tiên, và từ từ
khởi sự đọc cho đến hết. Những gì tôi khám phá thực
bất ngờ. Lối trình bày thiền của Bankei thực không giống
bất cứ gì tôi đã tưởng. Đây là một con người bằng
máu thịt đang sống, nói chuyện với một thính chúng gồm
những đàn ông và phụ nữ, bằng ngôn ngữ giản dị của
họ, về những vấn đề mật thiết miên viễn của họ trong
đời sống hàng ngày của con người. Ngài trả lời những
câu hỏi của họ, lắng nghe những câu chuyện họ kể, và
đưa ra những lời khuyên lạ lùng nhất. Ngài còn nói về
đời tư của mình, về những lỗi lầm ngài đã mắc phải,
những rắc rối ngài đã gặp, những con người ngài đã giao
du. Có cái gì đó hết sức tân kỳ, độc đáo và sống động
trong pháp thiền của Bankei, giáo lý của ngài về Bất sinh.
Ngài dường như muốn nói: Nó đây rồi. Nó có công hiệu
thực sự với tôi, và với các bạn cũng thế.
Càng đọc
tôi càng mê say. Ba đêm liền, tôi hầu như thức trắng. Khi
trở lại văn phòng của giáo sư Hakeda, tôi kể cho ông nghe
kinh nghiệm của mình. Ông cười lớn mà bảo: "Thấy chưa,
tôi đã biết Bankei là để dành cho anh mà".
Khi đến
gặp thầy lần kế tiếp, tôi mang theo một phần bản dịch
bài giảng đầu tiên và khởi sự đọc hết bản văn, để
thầy Hakeda cho ý kiến và sửa sai. Đấy là khởi đầu cho
những cuộc gặp gỡ tương tự trải dài suốt mười năm,
để đưa đến kết quả là tập sách này. Tác phẩm này kỳ
thực là công lao của giáo sư Hakeda. Nếu không nhờ sự giúp
đỡ của thầy với đức kiên nhẫn vô biên, không nhờ trí
tuệ và sự khích lệ của thầy, thì sách này đã không bao
giờ xuất hiện.
Tôi cố cống
hiến cho độc giả tây phương một cái nhìn vào thế giới
đặc biệt của Bankei bằng cách sử dụng chính lời lẽ của
ngài hoặc lời các môn sinh và hậu duệ. Bản dịch tập trung
đặc biệt vào những tuyển chọn từ các tập Bài giảng
và Hògo (Chỉ giáo). Mặc dù trong những tác phẩm này có nhiều
trùng lặp, đấy vẫn là những ngữ lục sống động, chân
thực nhất về lời dạy của Bankei. Chúng tôi cũng tuyển
dịch một số thư từ, thơ của ngài, và một ít tài liệu
Hoa ngữ từ nhiều tuyển tập khác nhau được biên tập sau
khi ngài qua đời. Tiêu chuẩn chọn lựa của tôi hoàn toàn
chủ quan, tôi chọn những mẩu bài mà tôi cho là thú vị nhất,
những chuyện làm sáng tỏ vài khía cạnh của cá tính và
thời đại Bankei. Cũng có khi tôi chọn một bài để dịch
chỉ vì duyên dáng hấp dẫn của nó. Bởi thế, nếu có sự
bỏ sót hay sai lầm nào ở trong sách này, thì đấy hoàn toàn
là lỗi của tôi.
Tuyển tập
giáo lý Bankei đầu tiên, Bankei zenji goroku, Tokyo, 1942 do D.T.
Suzuki ấn hành trong bộ Iwanami bunko ngày nay phần lớn đã
được thay bằng hai ấn bản mới, mà bản dịch này sử dụng.
Đó là Bankei zenji zenchù (Daizòshuppan, Tolyo, 1970) do học giả
Nhật Akao Ryùji ấn hành, và Bankei zenji hògoshù (Shunjùsha,
Tokyo, 1971) do Fujimoto Tsuchishige ấn hành. Fujimoto là một người
đồng hương với Bankei ở thành phố Aboshi; ông đã dành trọn
đời để sưu tập và ấn loát những tài liệu liên hệ đến
Bậc Thầy và giáo lý của ngài. Tất cả những người nghiên
cứu ngày nay về Bankei đều mang ơn ông rất lớn.
Trước khi
sách này được đưa đến nhà in không bao lâu, giáo sư Hakeda
từ trần sau một cuộc chiến dũng cảm dằng dai với bệnh
ung thư. ước muốn suốt cuộc đời của thầy là nỗ lực
khôi phục lời dạy chân chính của đạo Phật ở Đông phương
cũng như Tây phương. Toàn thể sự nghiệp của thầy là một
di chúc cao thượng đề cao nỗ lực vô ngã ấy. Tất cả chúng
ta những người được biết đến Thầy, sẽ luôn kính nhớ
Thầy với nỗi đau buồn thương tiếc.
Peter Haskel
New York City
Tháng 9, 1983
(Bị chú:
Những bức thư, gồm khoảng 4 trang trong bản Anh ngữ, đã
không được chuyển Việt ngữ, vì không quan trọng.)
Ghi
chú của dịch giả Peter Haskel
( từ Nhật
ngữ ra Anh ngữ)
Ngoài một
số ít thư từ và vài bài thơ, suốt thời gian hoằng hóa,
Bankei hầu như không viết lách bất cứ gì. Những Bài giảng
được ghi lại đây hầu như là tài liệu duy nhất cho ta còn
biết tí gì về thiền sư Bankei. Tuy vậy, các đệ tử đương
thời cho biết ngài cấm môn đồ ghi chép những lời dạy
của mình, do thế trong vô số bài giảng ngài đã dạy, chỉ
một phần rất nhỏ còn tồn tại đến ngày nay. Những bài
giảng này gồm chính yếu là hai loạt pháp thoại từ thập
niên 1960, một vào đầu thu ở chùa Hòshinji tại Marugame, loạt
bài kia giảng trong kỳ đại kết thất ở Long môn tự tại
Aboshi quê hương ngài. Bởi thế, phần lớn những gì còn lại
ngày nay cho chúng ta chỉ là một phần nhỏ những pháp thoại
mà Bankei đã giảng trong vòng một năm vào cuối đời ngài.
Những pháp
thoại này có nhiều bản ghi chép, nhưng chúng ta không biết
tí gì về lai lịch người ghi và hoàn cảnh trong đó các bài
giảng này được ghi chép. Chỉ trừ một trường hợp duy
nhất là "Bản thảo Miura" người ghi là Miura Tokuzaemon, một
hiệp sĩ hầu cận lãnh chúa xứ Marugame, một đệ tử và
thí chủ của Bankei. Theo lời tựa bản thảo, Miura dự các
buổi giảng của thiền sư ở chùa Hoshinji để hồi hướng
công đức cho mẹ đang ốm nặng. Ông xin tạm ngưng các phận
sự ở lâu đài vị lãnh chúa, và đến năn nỉ các sư trong
chùa cho ông được ngồi một nơi gần bậc Thầy lúc ngài
ban pháp thoại. Từ đấy ông đến chùa mỗi ngày để ghi
các pháp thoại của Bankei đem về cho mẹ. Tựu trung, mặc
dù có những sai biệt nhỏ giữa các bản thảo, tất cả những
bài ghi chứng tỏ đã ghi chép nguyên lời văn của ngài lúc
nói chuyện.
Những bài
giảng này đã được xếp thành hai phần, theo các ấn bản
(Nhật ngữ) Akao và Fujimoto, hai tài liệu mà bản dịch này
căn cứ để dịch. Phần Một gồm hai đoạn, đoạn đầu
ghi các bài giảng tại Long môn tự vào kỳ đại kết thất
năm 1960, đoạn hai là những bài giảng ở Marugame cùng một
năm ấy. Phần Hai gồm những tài liệu rút từ một bản thảo
cất giữ tại chùa Futetsu gần Long môn tự, do Ryòun Jòkan,
một nữ sĩ haiku ghi chép, bà này đã trở thành nữ đồ đệ
chính của Bankei. Những bài giảng trong Phần Hai thường khác
hẳn những bài giảng trong các bản thảo khác về Bankei, làm
cho người ta có cảm tưởng chúng không được giảng trong
cùng hoàn cảnh với những bài giảng trong phần Một. Nhưng
cũng có thể những bài này thuộc vào loạt pháp thoại giảng
ở Longmôn tự vào năm 1960. Trong nhật ký của bà, nữ sĩ
Jòkan ghi rằng Bankei đã giảng sáu mươi bài vào kỳ kết
thất năm 1690, và lẽ tự nhiên là có thể nhiều người khác
nhau đã ghi lại những pháp thoại được giảng vào những
ngày khác nhau.
Lời lẽ
trong các Bài giảng đều là văn nói, dùng nhiều địa phương
ngữ tại nơi Bankei sinh sống. Bankei tránh những thuật ngữ
Phật giáo, ngoại trừ những danh từ quen thuộc với các thính
giả của ngài. Khi dịch những bài giảng ra Anh ngữ, tôi đã
không cố ý gọt giũa cho trơn tru, vì muốn giữ nguyên ngữ
khí của Bankei.
Vì ngại
sách quá dày, tôi đã không cho in trọn bản dịch mà chỉ
chọn những bài chính yếu trong hai Phần nói trên.
Ghi
chú của người chuyển ra Việt ngữ
(Thích nữ
Trí hải)
Dịch là
phản, nhưng đồng thời dịch cũng là tái tạo. Tôi rất tri
ân thiền sư Bankei, tri ân những người đã ghi lại những
Bài giảng mặc dù ngài đã không cho phép làm như vậy, (vì
nghe trực tiếp khác xa với nghe qua người khác, huống gì
là ghi lại cho người đời sau. Ngài cấm là có lý, vì không
thiếu gì những người ngộ nhận lời nói của các thiền
sư). Tri ân dịch giả Peter Haskel, người đã "sống" với giáo
lý Bankei trong mười năm để hoàn thành bản dịch Anh ngữ,
và cám ơn Giáo sư Trần Ngọc Ninh, người đã gửi cho tôi
tập sách.
Kính lạy
thiền sư Bankei,
Đức Phật
có dạy rằng giáo lý của Ngài như để hồ trên đỉnh núi
Tuyết, thực chất là vị cam lồ bất tử cho những ai nếm
được. Nhưng khi người chăn bò đưa xuống đồng bằng để
bán, thì vì qua tay quá nhiều người, từ một lít nguyên chất
đã được pha thành ba thùng lớn, chỉ còn một phần ngàn,
một phần triệu ý vị của nguyên chất. Tuy vậy, thứ đề
hồ đã pha loãng ấy cũng còn tốt hơn bất cứ dược phẩm
nào khác để trị bệnh nan y. Giáo lý của ngài, Con người
đã giác ngộ cũng thế, mặc dù qua bao nhiêu lần "tam sao thất
bản" mà vì đây là lời nói của thực chứng, của tâm bồ
đề đầy đức từ bi, nên đối với hậu bối chúng con,
vẫn còn mang khí vị hết sức đặc biệt. Xin ngài gia trì
cho con, để bản dịch này không đi lạc quá xa với tôn ý,
và ai đọc đến cũng được lợi lạc, từ nay trở đi không
còn chuyển cái tâm Phật của mình thành ba độc tham sân si
để phải chịu luân hồi sinh tử, lại còn phát tâm bồ đề
trở lại độ chúng sinh.
Con nguyện
sẽ luôn luôn ghi khắc trong lòng những lời dạy của ngài
đã trên ba thế kỷ mà vẫn còn rất gần gũi, vì Tâm Phật
vốn Bất sinh...