|
.
THUYẾT GIẢNG
KINH LUẬN
Hòa
Thượng Thích Duy Lực
Thích
Đồng Thường Ghi Thành Văn
YẾU CHỈ
TRUNG QUÁN LUẬN
Lời
nói đầu:
Có
người hỏi: “Phật pháp có thể chia nhiều tông, tại sao
không thể chia nhiều phái?” Nên biết Phật pháp là để
hiển bày bản thể tự tánh bất nhị của Diệu Giác nên
chẳng thể chia. Có thể chia là giáo pháp (chẳng phải Phật
pháp). Chư Phật chư Tổ vì muốn thích ứng căn cơ trình độ
của mọi chúng sanh, nên vì khế hợp đương cơ mà chia nhiều
tông, tức là trên phù hợp ý Phật (Phật pháp chẳng thể
chia), dưới khế hợp đương cơ (giáo pháp có thể chia) là
vậy.
Giáo
pháp thích hợp với người phương Đông được chia làm 5
hệ: Thiền, Giáo, Luật, Tịnh và Mật. Thiền, Luật, Tịnh,
mỗi hệ có một tông. Giáo môn lại chia thành bốn tông: Thiên
Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức, cộng chung là tám tông
Đại thừa.
Luận
này vì muốn phá chấp nhị biên tương đối, nên phương tiện
thiết lập Trung Quán. Nguồn gốc của nhị biên là “hữu”
và “vô”. “Hữu” bao gồm hữu vi pháp, “vô” bao gồm
vô vi pháp. Nhị biên đã phá thì “trung” không có chỗ để
an lập. Như thế, đâu có học thuyết cao siêu để cho nghiên
cứu mà dựng lập học phái Trung Quán!
Lục
Tổ nói thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, tự tánh là bất
nhị. Kinh Đại thừa liễu nghĩa do Phật thuyết đều là bất
nhị. Chư Tổ căn cứ theo kinh liễu nghĩa lập luận sớ giải
cũng là bất nhị. Bất nhị thì chẳng có tương đối, chẳng
có tương đối thì chẳng dùng bộ não suy nghĩ, chẳng thể
dùng lời nói văn tự diễn đạt, cho nên Đại Thừa Khởi
Tín Luận nói: Lìa “tướng tâm duyên”, lìa “tướng danh
tự”…
Nên
biết, những phương tiện do chư Phật chư Tổ thiết lập
chỉ muốn khiến chúng sanh ngay đó khai ngộ, chứ chẳng phải
muốn chúng sanh nghiên cứu tìm hiểu lý đạo. Do đó chẳng
thể xem như một học thuyết để nghiên cứu mà chia ra nhiều
học phái.
Trung
Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thật
quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp vô vi pháp, tất cả
đều phá. Như các phẩm Quán Như Lai, Quán Niết Bàn là thuộc
về phá pháp vô vi, những phẩm Quán Nhân Duyên, Quán Khứ
Lai thuộc về phá pháp hữu vi. Hữu vô tất cả đều phá.
Phàm có nhị biên tương đối đều phá hết.
Chư
Phật chư Tổ dùng pháp làm phương tiện để phá sự chấp
trước của chúng sanh. Chúng sanh có cái sở chấp nào thì
phá cái sở chấp nấy. Nếu chúng sanh chẳng có chấp trước
thì pháp cũng thành dư thừa. Nay chúng tôi biên tập Yếu Chỉ
Trung quán Luận này, chỉ mỗi phẩm rút ra vài bài kệ chủ
yếu, để sáng tỏ yếu chỉ về pháp phá của tác giả mà
thôi.
Thích
Duy Lực.
Phẩm
thứ nhất
PHÁ
NHÂN DUYÊN
Phẩm
thứ nhất là phá tất cả pháp, bởi vì tất cả pháp đều
từ nhân duyên mà sanh.
Bất
sanh cũng bất diệt
Bất
thường cũng bất đoạn
Bất
nhất cũng bất dị
Bất
lai cũng bất xuất
Thường
nói là nhân duyên
Khéo
diệt các hý luận
Tôi
kính đảnh lễ Phật
Trong
các thuyết đệ nhất
Các
pháp chẳng tự sanh
Cũng
chẳng từ tha sanh
Chẳng
cộng, chẳng vô nhân
(Không
nguyên nhân mà có)
Cho
nên biết vô sanh.
Giải
thích:
Các
pháp từ nhân duyên mà sanh, duyên sanh thì chẳng có tự tánh
(duyên hợp mới có, duyên lìa thì không) tức là nghĩa vô
sanh vậy. Các pháp 27 phẩm trong luận này đều là nhân duyên
tương đối, nên đều có thể dùng bài kệ thứ hai để phá
trừ.
Các
pháp từ nhân duyên sanh thì chẳng phải tự sanh (các pháp
chẳng tự sanh). Tha cũng có tự thể của nó, nên tha cũng
đồng như tự (cũng chẳng từ tha sanh). Vậy tự với tha đều
chẳng thể thành lập thì lấy gì để cộng.
Lại
pháp đã từ duyên sanh thì chẳng phải vô nhân (chẳng cộng
chẳng vô nhân), cho nên biết tất cả pháp đều vô sanh. Người
chứng ngộ tức là ngộ cái pháp “vô sanh” này vậy.
Hỏi:
Tự
tánh và ngã khác nhau như thế nào? Trí và huệ khác nhau như
thế nào? Có phải do trí mà ngộ được không?
Đáp:
Do
trí chẳng thể ngộ được, như Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô
trí diệc vô đắc”, tức là đã phá cái trí, mà không có
cái trí để đắc. Trí Bát Nhã tại sao người dịch không
dịch là trí? Vì chữ “trí” chưa đúng, nên mới dịch âm.
Trí là trí của bộ não sanh diệt, sanh diệt thì không ngộ
được không sanh không diệt tồn tại vĩnh viễn. Cho nên,
trí Bát Nhã không qua bộ óc, tự động mà không bao giờ ngưng.
Pháp
Bảo Đàn nói: “Một niệm ngu thì Bát Nhã tuyệt, một niệm
trí thì Bát Nhã sanh”. Vậy một niệm ngu là gì? Là chấp
thật. Một niệm trí là gì? Là phá chấp thật.
Ngũ
ấm là cái thân này (cái ngã), mà tất cả cái gì đều là
cái ngã của nó, cũng là tự tánh. Như trái lê có tự tánh
trái lê, có cái ngã trái lê, trái hồng có cái ngã của trái
hồng, có tự tánh của trái hồng. Nó có thể giống và cũng
có thể khác, như “tự tánh bất nhị” thì khác, vì không
có tương đối, nên không phải ngã hay vô ngã. Cho nên giống
cũng có và khác cũng có.
Trí
huệ bộ óc và trí huệ tự tánh khác nhau, trí huệ tự tánh
không bao giờ ngưng, trí huệ bộ óc có lúc phải ngưng. Như
thân này biến thành tro thì trí huệ bộ óc cũng theo đó tiêu
luôn, vì nó thuộc về sanh diệt, còn trí huệ tự tánh không
sanh diệt.
Phẩm
thứ ba
PHÁ
LỤC TÌNH
Ghi
chú: Lục tình.
Lục
thức đối với lục căn, lục trần, sanh khởi tình chấp,
nên gọi là lục tình (có cảm tình chấp đó là thật).
Nhãn
nhĩ và tỷ thiệt
Cùng
thân ý lục tình
Nhãn
nhĩ… lục tình này
Hành
sắc thanh… lục trần
Kiến
chẳng thể có kiến
Phi
kiến cũng chẳng kiến
Nếu
đã phá nơi kiến
Tức
là phá người kiến
Lìa
“kiến”, chẳng “lìa kiến”
Người
kiến chẳng thể đắc
Vì
chẳng có người kiến
Đâu
có kiến để kiến
Giải
thích:
Kinh
Lăng Nghiêm nói: Lúc thấy sáng, kiến tinh (tánh thấy) chẳng
phải là sáng; lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải tối;
lúc thấy thông, kiến tinh chẳng phải là thông; lúc thấy
nghẽn, kiến tinh chẳng phải là nghẽn. Bốn nghĩa trên chứng
tỏ kiến tinh chẳng theo cảnh trần sanh diệt. Ngươi còn nên
biết:
|