So sánh kinh Trung A-hàm
chữ Hán và
kinh Trung Bộ chữ Pàli
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya",
Ph.D. Thesis, Bihar University, India
---o0o---
Bây
giờ
chúng
ta
sẽ
nghiên
cứu
về
những
điểm
đồng
dị
giữa
hai
bản
kinh
khi
nói
về
Tăng
già.
Trước
hết
ta
đề
cập
giới
Biệt
giải
thoát
quy
định
đời
sống
của
mỗi
Tỳ-kheo
và
của
toàn
thể
tăng
chúng;
kế
đến
là
sinh
hoạt
hằng
ngày
của
chư
tăng,
cách
thức
để
dàn
xếp
tranh
chấp,
an
cư
mùa
mưa
và
cuối
cùng
là
tọa
cụ.
1.
GIỚI
BẢN
PÀTIMOKKHA
(Biệt
giải
thoát)
Mặc
dù
giới
Biệt
giải
thoát
được
nói
đến
trong
cả
hai
bản
kinh
C
và
P,
nó
không
đề
cập
rõ
ràng
cả
250
giới
của
Luật
bản
Hoa
ngữ
hay
227
giới
của
Luật
bản
Pàli.
Nhưng
trong
NC
46,
có
nói
đến
một
số
quy
luật
về
cách
hành
xử
của
một
Tỳ-kheo
ở
rừng,
có
thể
xem
như
một
cái
nhân
cho
toàn
thể
giới
Biệt
giải
thoát
thành
hình
về
sau.
Bản
Hoa
ngữ
kể
ra
13
giới
điều,
trong
khi
bản
P
có
đến
17.
Một
vài
giới
điều
giống
nhau,
một
vài
giới
điều
hơi
khác,
và
một
số
giới,
bản
này
có,
bản
kia
không.
Những
giới
điều
tương
đương
như
sau:
C1=P1;
C2=P5;
C3=P6;
C5=P8;
C6=P9;
C7=P11;
C8=P12
và
P14;
C9=P3;
C10=P2;
C11=P15;
C12=P16;
C13=P17.
C4
không
có
trong
bản
P.
P4,
P7,
P10,
P13
không
có
trong
bản
C.
C1:
C26:
Một
Tỳ-kheo
sống
nơi
vô
sự
(nhàn
tịnh)
cần
phải
có
thái
độ
cung
kính
và
biết
tùy
thuận.
Nếu
vị
ấy
không
có
thái
độ
cung
kính
và
không
biết
tùy
thuận,
thì
những
Tỳ-kheo
khác
sẽ
quở
trách
vị
ấy
và
nói
rằng,
Tỳ-kheo
ở
nơi
vô
sự
này
nào
có
ích
lợi
gì
khi
sống
ở
nơi
vô
sự.
Bởi
thế
một
Tỳ-kheo
sống
nơi
vô
sự
cần
phải
cung
kính
và
biết
tùy
thuận.
P1:
P69:
Gần
giống.
C:
nơi
vô
sự=P:
arannà,
A
lan
nhã
hay
ở
rừng.
P
thêm:
khi
vị
ấy
đến
giữa
tăng
chúng;
bỏ:
biết
tùy
thuận;
thêm:
sappatissena,
lễ
độ.
Những
Tỳ-kheo
khác
sẽ
quở
trách
vị
ấy:
Nào
có
ích
gì
vị
Tỳ-kheo
ở
rừng
này
chỉ
sống
ở
rừng
cho
thỏa
thích,
nhưng
không
kính
trọng,
không
lễ
độ
với
các
đồng
phạm
hạnh.
C2:
Vị
ấy
nên
học
hạnh
không
cười
đùa,
không
tháo
động.
P5:
Không
được
giao
động
(anuddhatena),
tâm
không
ổn
định
(acapalena).
C3:
Không
vướng
vào
chuyện
trò
nhảm
nhí
(Nghĩa
đen:
không
nói
những
chuyện
thú
vật).
P6:
Không
được
nói
nhiều,
không
được
nói
tục.
C4:
Không
được
kiêu
căng
ngã
mạn,
phải
ít
nói.
P:
Không
có.
C5:
Vị
ấy
phải
học
tập
kiểm
soát
các
giác
quan.
P8:
Vị
ấy
cần
tập
kiểm
soát
các
căn
môn.
C6:
Vị
ấy
cần
tập
ăn
uống
có
điều
độ.
P9:
Cũng
vậy.
C7:
Vị
ấy
phải
tinh
cần
tinh
tấn,
không
được
lười
biếng.
P11:
Vị
ấy
phải
tinh
cần.
C8:
Phải
có
chánh
niệm,
chánh
trí
tuệ.
P12
và
14:
Vị
ấy
phải
an
lập
trong
chánh
niệm
và
trí
tuệ.
C9:
Vị
ấy
phải
biết
thời
nghi,
không
vào
làng
quá
sớm
để
khất
thực
và
không
ra
khỏi
làng
quá
muộn.
P3:
Không
vào
làng
quá
sớm,
không
ra
khỏi
làng
khi
chiều
tối.
Nhận
xét:M.L.S
ii,
trang
142
dịch:
trong
ngày,
để
dịch
divà.
Ở
đây
đúng
hơn
là
atidivà,
quá
muộn
trong
ngày.
C10:
Vị
ấy
nên
biết
cách
ngồi,
thiện
xảo
trong
việc
sử
dụng
chỗ
ngồi.
P2:
Thiện
xảo
trong
việc
dùng
chỗ
ngồi.
C11:
Vị
ấy
nên
bàn
về
Luật
và
A-tỳ-đàm.
P15:
Vị
ấy
nên
học
Luật,
Thắng
pháp.
C12:
Vị
ấy
nên
học
thảo
luận
về
tịnh
chỉ,
về
các
thiền
pháp
tịch
tịnh
giải
thoát
thuộc
vô
sắc,
vượt
quá
sắc
pháp.
P16:
Vị
ấy
nên
tu
tập
các
tịch
tịnh
giải
thoát
thuộc
vô
sắc,
siêu
quá
sắc
pháp.
C13:
Vị
ấy
nên
học
thảo
luận
về
sự
đoạn
trừ
lậu
hoặc
và
chứng
đắc
tri
kiến.
P17:
Vị
ấy
nên
tu
tập
các
pháp
thượng
nhân.
P4:
Vị
ấy
không
nên
đi
đến
các
gia
đình
trước
và
sau
bữa
ăn.
C
:
Không
có.
P7:
Vị
ấy
phải
là
người
có
ái
ngữ,
một
người
bạn
tốt.
C:
Không
có.
P10:
Vị
ấy
cần
phải
tỉnh
giác
.
C:
Không
có.
P13:
Vị
ấy
cần
phải
có
định.
C:
Không
có.
2.
ĐỜI
SỐNG
HÀNG
NGÀY
CỦA
CÁC
TỲ-KHEO
Trong
NC25,
có
thuật
đời
sống
hàng
ngày
của
các
Tỳ-kheo
sống
chung,
chứng
tỏ
làm
thế
nào
các
Tỳ-kheo
nên
sống
chung
để
có
được
sự
hòa
hợp
và
hài
hòa
trong
tăng
chúng.
C185:
Lúc
bấy
giờ,
ở
rừng
Sừng
bò
có
ba
thiện
gia
nam
tử
sống
chung,
là
Tôn
giả
A
Na
Luật
Đà,
Nan
Đề,
Kim
Tỳ
La.
Các
thượng
tọa
này
sống
chung
như
sau:
Họ
đi
khất
thực,
ai
về
trước
sửa
soạn
chỗ
ngồi,
múc
nước,
đặt
nước
rửa
chân,
bày
ghế
đẩu
để
rửa
chân,
đặt
khăn
để
lau
chân
cùng
với
một
bình
nước
uống
và
một
chậu
nước
rửa.
Nếu
vị
ấy
có
thể
ăn
hết
tất
cả
những
đồ
ăn
khất
thực
thì
ăn,
nếu
còn
dư,
thì
đặt
trong
một
đồ
chứa
và
đậy
lại.
Sau
khi
ăn
xong,
vị
ấy
đặt
bát
lại
chỗ
cũ,
rửa
tay
chân,
lấy
tọa
cụ
đặt
lên
vai
đi
vào
nhà
ngồi
thiền.
Vị
Tỳ-kheo
đi
khất
thực
về
trễ,
nếu
ăn
hết
thức
ăn
khất
thực
thì
ăn.
Nếu
không
đủ,
vị
ấy
có
thể
lấy
thức
ăn
còn
lại
và
ăn
cho
thỏa
thích.
Nếu
có
đồ
thừa,
vị
ấy
ném
trên
đất
sạch
hay
trong
nước
không
có
trùng.
Rồi
vị
ấy
rửa
sạch
bát
của
Tỳ-kheo
kia,
lau
khô
và
dẹp
sang
một
bên,
cuốn
chiếu
để
ngồi,
dẹp
ghế
đẩu
để
ngồi
rửa
chân,
khăn
lông
để
lau
chân,
dụng
cụ
để
rửa
chân,
bình
nước
uống
và
chậu
nước
rửa.
Vị
ấy
quét
chỗ
ăn,
dọn
sạch
tất
cả
rác
rưởi,
đặt
y
bát
vào
chỗ
cũ,
rửa
tay
chân,
lấy
tọa
cụ
đặt
lên
vai
đi
vào
nhà
thiền.
Vào
buổi
chiều,
vị
thượng
tọa
nào
xuất
thiền
trước,
nếu
thấy
bình
nước
uống,
chậu
nước
rửa
đã
hết
nước
thì
đi
múc
cho
đầy.
Nếu
Tỳ-kheo
có
thể
làm
việc
ấy
một
mình,
vị
ấy
làm
việc
ấy
rồi
dọn
dẹp.
Nếu
không
thể
làm
một
mình,
vị
ấy
vẫy
tay
cho
một
Tỳ-kheo
khác,
rồi
cả
hai
cùng
mang
những
vật
dụng
ấy
và
dọn
dẹp,
không
nói,
không
hỏi.
Những
vị
thượng
tọa
này
cứ
mỗi
năm
ngày
lại
hội
họp
để
bàn
về
pháp
hay
giữ
im
lặng
của
bậc
thánh.
P31:
Bản
P
rất
đơn
giản
và
bỏ
nhiều
chi
tiết.
Tỳ-kheo
nào
về
trước
chỉ
sửa
soạn
chỗ
ngồi,
đặt
nước
uống
nước
rửa
và
bát
đựng
đồ
thừa.
Vị
Tỳ-kheo
nào
về
sau,
nếu
muốn,
có
thể
ăn
thực
phẩm
còn
thừa
ấy.
Nếu
không
muốn,
vị
ấy
có
thể
bỏ
nó
tại
một
nơi
không
có
cỏ
xanh,
hay
bỏ
trong
nước
không
có
trùng.
Rồi
vị
ấy
dẹp
chỗ
ngồi,
nước
uống,
nước
rửa,
bát
đựng
đồ
thừa
và
quét
sạch
phòng
ăn.
Trong
khi
bản
C
nói
các
thượng
tọa
ngồi
thiền,
bản
P
chỉ
nói
rằng
vị
Tỳ-kheo
nào
thấy
bình
nước
uống,
bình
nước
rửa.....
đã
trống
rỗng
thì
đổ
đầy.
Bản
P
cũng
nói
ba
thượng
tọa
gặp
nhau
mỗi
năm
ngày,
nhưng
không
nói
giữ
im
lặng
bậc
thánh.
Ba
vị
Tỳ-kheo
ở
đây
là
A
Na
Luật,
Nan
Đề
và
Kim
Tỳ
La.
3.
BẢY
CÁCH
DÀN
XẾP
TRANH
CHẤP
(Thất
diệt
tránh
pháp)
Trong
NC66,
bảy
pháp
diệt
tránh
được
đề
cập:
Cách
thứ
1:
C:
Bằng
cách
hiện
diện
=P:
Sammukhàvinayo
(Hiện
tiền
tỳ
ni)
C196:
Có
bảy
cách
dàn
xếp
tranh
chấp
là
:
bằng
hiện
diện(ưng
dữ
diện
tiền
chỉ
tránh
luật),
bằng
sự
nhớ
lại
(ưng
dữ
ức
chỉ
tránh
luật),
bằng
không
cuồng
si
(ưng
dữ
bất
si
chỉ
tránh
luật),
bằng
tự
thú
nhận
(ưng
dữ
tự
phát
lộ
chỉ
tránh
luật),
bằng
hình
phạt
cho
ngươi
(ưng
dữ
quân
chỉ
tránh
luật),
bằng
tuần
tự
(ưng
dữ
triển
chuyển
chỉ
tránh
luật),
như
quét
phân
(ưng
dữ
như
khí
phấn
tảo
chỉ
tránh
luật).
Thế
nào
là
luật
dàn
xếp
tranh
chấp
bằng
cách
hiện
diện?
Hoặc
một
người
(quở
trách)
đối
với
một
người
(phạm)
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
Một
người
đối
với
hai
người
(phạm),
một
người
đối
với
nhiều
người
(phạm),
một
người
đối
với
tăng
chúng
(phạm)
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
Hai
người
(quở
trách)
đối
với
hai
người
(phạm),
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
Hai
người
đối
với
nhiều
người,
hai
người
đối
với
tăng
chúng,
hai
người
đối
với
một
người
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
Nhiều
người
(quở
trách)
đối
với
nhiều
người
(phạm),
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
Nhiều
người
đối
với
tăng
chúng,
nhiều
người
đối
với
một
người,
nhiều
người
đối
với
hai
người
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
Tăng
chúng
đối
với
tăng
chúng
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
Tăng
chúng
đối
với
một
người,
Tăng
chúng
đối
với
hai
người,
Tăng
chúng
đối
với
nhiều
người,
mà
khuyến
giáo,
khiển
trách,
để
hộ
trì
pháp
luật,
thuận
theo
giáo
huấn
của
bậc
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
khiến
được
hoan
hỷ.
P104:
Không
giống
hẳn.
Bảy
cách
ở
trong
bản
P
là:
1)Sammukhà-
vinayo
dàtabbo,
2)
Sativinayo
dàtabbo,
3)
Amùlhavinayo
dàtabbo,
4)Patinnàya
kàretabbam,
5)Yebhuyyassikà,
6)Tassapàpiyyasikà,
7)Tinavatthàrako.
Ở
đây
sự
giải
thích
bản
cáo
trạng
phải
đưa
ra
hiện
tiền
không
giống
nhau.
Bản
P
giải
thích
rằng
khi
có
sự
tranh
chấp
về
pháp
và
phi
pháp,
luật
và
phi
luật,
thì
tất
cả
chư
tăng
phải
hội
họp
toàn
chúng,
và
những
gì
đúng
pháp
cần
phải
được
thảo
luận
và
chấp
hành.
Khi
ấy
cuộc
tranh
chấp
cần
được
dàn
xếp
tùy
theo
đó.
Cách
thứ
2:
Ức
niệm
tỳ
ni,
cáo
trạng
bằng
cách
nhớ
lại=P:
Sativinayo
dàtabbo
C:
Nếu
có
một
người
phạm
giới
nhưng
không
nhớ,
khi
ấy
các
Tỳ-kheo
nên
bảo
vị
ấy
rằng,
vị
ấy
đã
phạm
tội
mà
không
nhớ.
Vị
ấy
nên
đến
giữa
đại
chúng
xin
luật
ức
niệm.
Và
đại
chúng
nên
chấp
thuận
yêu
cầu
ấy.
Nếu
có
một
tăng
chúng
sống
hòa
hợp,
thì
Tỳ-kheo
nên
đắp
thượng
y
chừa
một
bên
vai,
bỏ
dép,
đảnh
lễ
một
vị
thượng
tọa,
quỳ
thẳng
chắp
tay
mà
nói:
"Bạch
chư
Tôn
giả,
con
đã
phạm
một
lỗi
lầm
nhưng
không
nhớ.
Nay
con
xin
đại
chúng
cho
con
luật
ức
niệm."
Đại
chúng
nên
đồng
thanh
cho
Tỳ-kheo
ấy
luật
ức
niệm,
phù
hợp
với
pháp
luật,
giáo
lý
của
đấng
đạo
sư,
với
sự
hiện
diện
của
Tỳ-kheo
ấy,
làm
cho
ông
hoan
hỷ.
P:
Mặc
dù
nội
dung
giống
nhau,
giải
thích
hoàn
toàn
khác.
Ở
đây
các
Tỳ-kheo
quở
trách
một
vị
đã
phạm
một
tội
nặng
hay
một
tội
hơi
nặng.
Nhưng
Tỳ-kheo
ấy
trả
lời
rằng:
"Tôi
không
nhớ
đã
phạm
một
tội
như
thế."
Khi
ấy
đại
chúng
nên
cho
Tỳ-kheo
ấy
ức
niệm
tỳ
ni.
Cách
thứ
3:
Bất
si
tỳ
ni=P:
Amùlhavinayo
dàtabbo
C:
Có
một
người
phát
cuồng.
Vì
điên,
vị
ấy
nói
mình
đã
phạm
nhiều
giới
tội
bất
tịnh,
không
xứng
Sa-môn,
không
phù
hợp
với
pháp
và
luật.
Về
sau
vị
ấy
trở
lại
bình
thường.
Các
Tỳ-kheo
khác
kể
cho
vị
ấy
nghe
những
gì
đã
xảy
ra
và
khuyên
vị
ấy
nên
xin
đại
chúng
ban
cho
luật
bất
si.
Khi
ấy
đại
chúng
nên
cho
vị
ấy
luật
bất
si.
Phần
còn
lại
cũng
như
ức
niệm
tỳ
ni.
P:
Ở
đây
giải
thích
hơi
khác.
Các
Tỳ-kheo
quở
trách
một
vị
đã
phạm
một
tội
ba
la
di
hay
gần
như
ba
la
di.
Nhưng
Tỳ-kheo
ấy
trả
lời
rằng
ông
không
nhớ
đã
phạm
một
tội
như
thế.
Khi
bị
các
Tỳ-kheo
khác
gạn
hỏi
nhiều
lần,
vị
ấy
trả
lời
ông
đã
phát
cuồng,
mất
quân
bình
tâm
trí,
và
trong
thời
gian
ấy
đã
làm
và
nói
nhiều
điều
không
xứng
hạnh
Sa-môn,
nhưng
ông
không
nhớ
gì
hết.
Với
một
Tỳ-kheo
như
vậy,
đại
chúng
nên
cho
vị
ấy
luật
bất
si.
Cách
thứ
4:
Tự
phát
lồ
chỉ
tránh
luật=P:
Patinnaya
karetabbam
C:
Khi
một
Tỳ-kheo
phạm
giới,
dù
có
người
bảo
hay
không
ai
bảo,
có
người
nhắc
hay
không
ai
nhắc,
nếu
có
một
tăng
chúng
hòa
hợp,
Tỳ-kheo
ấy
nên
đắp
thượng
y
bày
một
bên
vai,
bỏ
dép
đến
giữa
chúng,
cúi
đầu
dưới
chân
một
vị
trưởng
lão
Tỳ-kheo,
quỳ
thẳng
chắp
tay
nói:
"Thưa
các
trưởng
lão,
con
đã
phạm
một
tội
lỗi,
với
lòng
thành
con
xin
bày
tỏ
trước
trưởng
lão.
Con
xin
phát
lộ
không
dám
che
dấu.
Từ
nay
con
sẽ
tự
chế
ngự
mình,
không
còn
tái
phạm."
Khi
ấy
tăng
chúng
nên
hỏi
đương
sự
:
"Chư
hiền
có
thấy
rõ
tội
lỗi
không?"
Tỳ-kheo
ấy
nên
trả
lời:
"Thật
sự
con
đã
thấy
rõ
lỗi
lầm."
Khi
ấy
tăng
chúng
nên
bảo
đương
sự:
"Chư
hiền
khéo
tự
chế,
chớ
để
tái
phạm."
P:
Cũng
vậy,
với
những
dị
biệt
sau
đây:
C:
được
bảo
hay
không
được
bảo,
có
người
nhắc
hay
không
người
nhắc=P:
dù
một
Tỳ-kheo
có
quở
trách
hay
không
quở
trách,
nhớ
và
phát
lộ
một
lỗi
lầm.
Bản
P
bỏ:
nếu
có
một
tăng
chúng
sống
hòa
hợp,
bỏ
dép
đi
vào
trong
tăng
chúng
ấy.
C:
quỳ
gối=
P:
ngồi
xếp
gối.
P
bỏ:
"Xin
đại
đức
lắng
nghe,
nay
ở
trước
đại
đức,
với
lòng
thành,
con
xin
phát
lộ
không
dám
che
giấu.
Con
sẽ
tự
chế
và
sẽ
không
tái
phạm
lỗi
lầm."
Trong
khi
bản
C
nói
tăng
chúng
hãy
bảo
đương
sự
làm,
bản
P
chỉ
nói
thượng
tọa
Tỳ-kheo
nên
nói
như
vậy.
Cách
thứ
5:
C:
Hình
phạt
cho
người
phạm
tội
=
P:
Tassapàpiyyasikà
C:
Nếu
có
một
người
không
biết
tàm
quý,
không
hối
hận
những
tội
bị
thấy,
bị
nghe
và
bị
nghi
là
có
ác
dục.
Sau
khi
phạm
một
lỗi
lầm,
vị
ấy
nói
mình
thấy
tại
một
nơi,
nghe
tại
một
nơi;
sau
khi
nói
mình
biết
tại
một
nơi,
vị
ấy
nói
mình
thấy
tại
một
nơi;
sau
khi
nói
mình
thấy
tại
một
nơi,
lại
nói
mình
biết
tại
một
nơi.
Giữa
đại
chúng,
vị
ấy
nói
mình
biết
tại
một
nơi.
Giữa
đại
chúng,
vị
ấy
nói
mình
thấy
tại
một
nơi.
Giữa
đại
chúng,
vị
ấy
nói
mình
thấy
tại
một
nơi
rồi
lại
nói
mình
biết
tại
một
nơi,
nói
mình
biết
tại
một
nơi
rồi
lại
nói
mình
thấy
tại
một
nơi.
Với
Tỳ-kheo
ấy,
đại
chúng
nên
nhóm
họp
thi
hành
luật
hình
phạt
cho
đương
sự.
Nên
bảo:
"Ngươi
không
có
đạo
đức,
không
hiểu
biết.
Ngươi
ác,
bất
thiện,
vì
đã
phạm
giới
rồi
lại
nói
tôi
biết
tại
một
nơi,
thấy
tại
một
nơi...
(như
trên)."
P:
Không
giống,
ở
đây
các
Tỳ-kheo
quở
trách
một
Tỳ-kheo
đã
phạm
tội
ba
la
di
hay
gần
như
ba
la
di.
Nhưng
Tỳ-kheo
ấy
trả
lời
rằng
mình
không
nhớ
đã
rơi
vào
một
tội
lỗi
như
thế.
Khi
các
Tỳ-kheo
khác
thúc
bách
phải
nhớ
lại,
vị
ấy
đáp
rằng
mình
chỉ
nhớ
phạm
một
lỗi
nhẹ
này
nọ
chứ
không
phạm
tội
nặng.
Khi
bị
thúc
ép
thêm
nữa,
vị
ấy
trả
lời
rằng
trước
đây
mặc
dù
không
ai
bảo,
vị
ấy
đã
thú
nhận
có
phạm
một
lỗi
nhẹ,
vậy
thì
sao
bây
giờ
khi
được
hỏi
lại
không
nhận
mình
đã
phạm
một
tội
ba
la
di
hay
gần
như
ba
la
di.
Khi
bị
bức
bách
thêm,
vị
ấy
mới
thú
nhận
rằng
đã
phạm
tội
ba
la
di
hay
gần
như
ba
la
di.
Những
gì
vị
ấy
đã
nói
trước
đấy
chỉ
là
nói
đùa.
Đây
là
sự
trừng
phạt
cho
người
phạm
giới.
Cách
thứ
6
để
giàn
xếp
tranh
chấp:
C:
Triển
chuyển
chỉ
tránh
luật=P:
Yebhuyyassikà,
quyết
định
của
đa
số
(đa
nhân
mích
tội)
C:
Một
số
tranh
chấp
khởi
lên
giữa
hai
Tỳ-kheo
:
"Đây
là
pháp,
đây
không
phải
pháp;
đây
là
luật,
đây
không
phải
là
luật;
đây
là
phạm
tội,
đây
không
phải
phạm
tội;
tội
này
nhẹ,
tội
này
nặng;
điều
này
cần
được
nói
lên,
điều
này
không
cần
được
nói
lên;
điều
này
đáng
chế
ngự,
điều
này
không
đáng
chế
ngự;
điều
này
có
dư
tàn,
điều
này
không
có
dư
tàn;
điều
này
đáng
phát
lộ,
điều
này
không
nên
phát
lộ".
Khi
ấy
những
tranh
chấp
này
cần
được
dàn
xếp
ngay
tại
chỗ.
Nếu
cuộc
tranh
cãi
được
giải
quyết
ngay
tại
chỗ,
thì
khi
ấy
cuộc
tranh
chấp
được
gọi
là
đã
giải
quyết.
Nếu
không
thì
cuộc
tranh
chấp
ấy
nên
đưa
ra
giữa
tăng.
Nếu
nó
được
dàn
xếp
giữa
các
thành
viên
của
tăng
đoàn,
thì
cuộc
tranh
chấp
được
xem
như
đã
giải
quyết.
Nếu
không,
thì
khi
gần
đấy
có
những
Tỳ-kheo
thông
kinh,
luật
luận,
vị
Tỳ-kheo
này
nên
đi
đến
đấy
thuật
lại
cuộc
tranh
chấp,
nếu
giữa
đường
cuộc
tranh
chấp
được
giải
quyết,
như
vậy
được
xem
là
đã
xong.
Nếu
không,
cuộc
tranh
chấp
nên
được
đưa
ra
giữa
tăng.
Nếu
nó
được
giải
quyết
giữa
tăng,
thì
cuộc
tranh
chấp
được
xem
là
đã
được
dàn
xếp.
Nếu
không,
và
khi
có
nhiều
bằng
hữu
và
ngoại
hộ
thông
kinh,
luật,
luận,
những
Tỳ-kheo
nên
đi
đến
đấy
thuật
lại
cuộc
tranh
chấp
để
nhờ
họ
giải
quyết.
Những
Tỳ-kheo
này
nên
dàn
xếp
cuộc
tranh
chấp
phù
hợp
với
pháp,
với
luật,
với
lời
Phật
dạy
và
làm
cho
họ
hoan
hỷ
ngay.
P:
Ở
đây
cách
này
được
đặt
vào
hàng
thứ
hai
tiếp
theo
cách
đầu
là
hiện
tiền
tỳ
ni,
nghĩa
là
khi
cách
đầu
không
giải
quyết
được
tranh
chấp
tại
chỗ,
thì
các
Tỳ-kheo
nên
đi
đến
một
nơi
khác
ở
đấy
có
nhiều
Tỳ-kheo
hơn,
và
tại
đấy
các
Tỳ-kheo
nên
họp
toàn
chúng
và
đưa
tất
cả
vấn
đề
ra
để
giải
quyết
tranh
chấp
theo
phán
quyết
của
đa
số.
Cách
thứ
7:
C:
Như
khí
phấn
tảo
chỉ
tránh
luật
(như
quyét
phân)=P:
Tinavatthàrako,
như
thảo
phú
địa
(trải
cỏ
che
lấp)
C:
Một
tăng
đoàn
sống
thường
gây
gổ
tranh
chấp,
tăng
chúng
chia
thành
hai
phe
nhóm.
Trong
một
nhóm,
vị
thượng
tọa
lớn
nhất
hay
vị
kế
tiếp
nên
bảo
với
Tỳ-kheo
trong
nhóm
như
sau:
"Thưa
chư
hiền,
xin
nghe.
Chúng
ta
sống
không
có
đạo
đức,
không
hiểu
biết,
chúng
ta
thật
là
bất
thiện.
Bởi
vì
trong
pháp
và
luật
rất
tốt
đẹp
này,
chúng
ta
vì
lòng
tin
đã
xuất
gia
học
đạo,
nhưng
lại
sống
tranh
chấp,
gây
gổ
nhau.
Do
sự
tranh
chấp
gây
gổ
này,
chúng
ta
đã
phạm
nhiều
lỗi
lầm,
trừ
những
tội
thâu
lan
giá
và
trừ
những
lỗi
liên
hệ
đến
cư
sĩ.
Vì
an
lạc
cho
tôi
và
cả
cho
chư
hiền,
nay
tôi
tha
thiết
sám
hối
trước
chư
hiền,
xin
phát
lộ
không
dám
che
giấu.
Tôi
sẽ
tự
chế
và
không
phạm
những
lỗi
lầm
ấy
nữa."
Nếu
trong
nhóm
này
không
có
Tỳ-kheo
nào
thích
hợp,
thì
chính
vị
Tỳ-kheo
ấy
nên
đi
qua
nhóm
Tỳ-kheo
bên
kia,
cúi
đầu
dưới
chân
một
vị
Tỳ-kheo
trưởng
thượng,
quỳ
gối
chắp
tay
nói
như
sau:
"...(
như
trên)."
Khi
ấy
vị
Tỳ-kheo
kia
nên
nói
:
"Thượng
tọa
nên
tự
chế
và
đừng
tái
phạm."
Rồi
nhóm
thứ
hai
cũng
làm
như
vậy.
P:
Không
giống
hẳn,
mặc
dù
ý
nghĩa
không
khác.
Ở
đây
giản
dị
hơn.
Nó
nói
rằng
một
Tỳ-kheo
thiện
xảo
của
một
bên
nên
đứng
dậy
đắp
y
chừa
một
vai,
chắp
tay
thưa
đại
chúng
như
sau:
"Thưa
chư
hiền,
xin
lắng
nghe.
Chúng
ta
sống
tranh
chấp
cãi
cọ,
đã
làm
đã
nói
nhiều
điều
không
xứng
hạnh
Sa-môn.
Nếu
tăng
nghĩ
là
phải,
tôi
xin
sám
hối
bất
cứ
lỗi
lầm
nào
do
tôi
cũng
như
chư
hiền
đã
phạm,
để
cho
tôi
và
chư
hiền
cùng
được
an
lạc,
trải
cỏ
phủ
lấp
chúng.
Ngoại
trừ
những
tội
nặng
và
những
lỗi
lầm
liên
hệ
đến
cư
sĩ."
Một
Tỳ-kheo
có
kinh
nghiệm
ở
phe
bên
kia
cũng
làm
như
thế.
4.
AN
CƯ
HÀNG
NĂM
Những
Tỳ-kheo
theo
luật
phải
an
cư
mỗi
năm
ba
tháng.
Nhưng
bản
C
nói
đến
an
cư
mùa
hạ
còn
bản
P
nói
đến
an
cư
mùa
mưa.
Trong
NC20,
an
cư
được
đề
cập
như
sau:
C9:
Một
thời
đức
Phật
du
hành
ở
Vương
Xá,
trú
tại
tu
viện
Trúc
Lâm,
và
trải
qua
mùa
hạ
an
cư
tại
đấy
cùng
với
một
chúng
đông
Tỳ-kheo.
Tôn
giả
Mãn
Từ
Tử
đang
trải
qua
hạ
an
cư
của
ngài
tại
quê
nhà.
Lúc
ấy,
những
Tỳ-kheo
tại
địa
phương
sau
khi
trải
qua
ba
tháng
hạ
an
cư,
sau
khi
may
y,
mang
y
đi
về
thành
Vương
Xá,
đến
nơi
ở
lại
trong
tu
viện
Trúc
Lâm.
P24:
Bản
P
đề
cập
ngay
đức
Phật
trú
tại
Vương
Xá
trong
rừng
Trúc,
chỗ
nuôi
dưỡng
những
con
sóc.
Khi
ấy
nhiều
Tỳ-kheo
tại
trú
xứ
sau
khi
đã
qua
ba
tháng
an
cư
mùa
mưa,
đi
đến
đức
Phật,
đảnh
lễ
Ngài
và
ngồi
qua
một
phía.
Lại
nữa
trong
NC43,
có
nói
đến
an
cư
hàng
năm
của
các
Tỳ-kheo
như
sau:
C194:
Phật
đang
an
cư
mùa
hạ
cùng
với
một
chúng
đông
Tỳ-kheo,
Ngài
khuyên
họ
nên
giữ
tập
tục
ăn
ngày
một
lần
như
chính
Ngài
đã
thực
hành
và
tự
thấy
mình
ly
dục,
không
còn
khao
khát,
ít
bệnh,
thân
thể
nhẹ
nhàng,
có
sức
khỏe,
an
ổn
và
hạnh
phúc...
Trong
ba
tháng
hạ
an
cư,
Tôn
giả
Bạt
Đà
Hòa
Lợi
không
thể
yết
kiến
đức
Phật.
Cuối
mùa
an
cư,
Tôn
giả
đi
đến
Phật
và
phát
lộ
lỗi
lầm.
P65:
Cũng
vậy,
nhưng
ở
đây
nói
đến
an
cư
mùa
mưa
chứ
không
phải
mùa
hạ.
Sự
khác
nhau
về
luật
an
cư
hàng
năm
đã
được
nêu
lên
trong
đoạn
nói
về
những
đặc
điểm
của
Nhất
thiết
hữu
bộ
và
Thượng
tọa
bộ.
5.
NI
SƯ
ĐÀN
HAY
TỌA
CỤ
Một
dị
biệt
khác
nữa
mà
chúng
ta
thấy
trong
cả
hai
bản
dịch
chứng
tỏ
truyền
thống
khác
nhau
của
mỗi
bộ
phái,
đó
là
sự
tuân
giữ
tọa
cụ
được
nói
trong
bản
C
nhưng
phần
lớn
bị
các
bản
P
bỏ
qua.
Như
trong
NC20,
về
tọa
cụ
được
nói
như
sau:
C9:
Tôn
giả
Mãn
Từ
Tử
khi
đêm
đã
tàn,
và
buổi
sáng
đắp
y,
cầm
y
bát
vào
thành
Xá
Vệ
khất
thực.
Sau
bữa
ăn
ngọ,
sau
khi
dẹp
y
bát,
rửa
tay
chân,
ngài
đặt
tọa
cụ
lên
vai
đi
đến
nơi
kinh
hành
trong
rừng
Anda.
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
cũng
thế,
sau
khi
đêm
đã
tàn,
vào
buổi
sáng
đắp
y,
cầm
y
bát
vào
thành
Xá
Vệ
khất
thực.
Sau
bữa
ăn
ngọ,
sau
khi
dẹp
y
bát,
rửa
tay
chân,
ngài
đặt
tọa
cụ
lên
vai
đi
đến
nơi
kinh
hành
trong
rừng
Anda.
Vào
lúc
ấy
Tôn
giả
Mãn
Từ
Tử
đi
đến
rừng
Anda,
trải
tọa
cụ
dưới
gốc
cây,
ngồi
kiết
già.
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
cũng
đi
đến
rừng
Anda,
trải
tọa
cụ
ngồi
kiết
già
không
xa
nơi
Tôn
giả
Mãn
Từ
Tử
ngồi.
P24:
Không
giống
hẳn.
Bản
P
bỏ
tất
cả
đoạn
nói
về
hai
Tôn
giả
đi
khất
thực
vào
rừng
Anda
trải
tọa
cụ.
Nó
chỉ
nói
rằng,
Tôn
giả
Mãn
Từ
Tử
hoan
hỷ
với
pháp
thoại
của
Phật,
đảnh
lễ
Ngài,
thân
bên
hữu
hướng
về
Ngài
rồi
ra
đi
vào
rừng
Anda
để
nghỉ
ban
ngày.
Khi
ấy
một
Tỳ-kheo
thuật
lại
cho
Tôn
giả
Xá
Lợi
Phất
và
ngài
vội
vàng
cầm
tọa
cụ
đi
theo
Tôn
giả
Mãn
Từ
Tử.
Nhận
xét:
Đây
là
đoạn
văn
độc
nhất
trong
bản
P
nói
đến
ni
sư
đàn
hay
tọa
cụ.
Điểm
khác
nhau
này
về
sự
tuân
giữ
ni
sư
đàn
hay
tọa
cụ
đã
được
đề
cập
trong
chương
nói
về
Một
vài
đặc
điểm
của
Nhất
thiết
hữu
bộ
và
Thượng
tọa
bộ.
Nhận
xét
chung:
Trong
chương
này,
ta
thấy
có
nhiều
dị
biệt
giữa
hai
bản
C
và
P,
chứng
tỏ
hai
bản
tiêu
biểu
những
truyền
thống
khác
nhau.
Do
vậy
một
vài
học
giới
về
lối
hành
xử
của
một
người
ở
rừng,
bảy
cách
dàn
xếp
tranh
chấp
không
hoàn
toàn
giống
nhau
trong
hai
bản
kinh.
Bây
giờ
chúng
ta
đi
đến
phần
khảo
sát
tỷ
giảo
những
bài
kệ
trong
98
kinh
tương
đương
để
tìm
ra
những
điểm
đồng
dị
giữa
hai
bản
C
và
P.
Mới
nhìn
qua
ta
thấy
rằng
bản
C
dồi
dào
bài
kệ
hơn
bản
P.
Trong
NC
40,
55,
89,
có
ba
kinh
C
chứa
nhiều
bài
kệ
trong
khi
những
bản
P
tương
đương
không
có.
Trong
NC
40,
có
thêm
hai
bài
kệ
đều
do
đức
Phật
nói,
khi
giáo
giới
La
Vân.
Bài
kệ
thứ
nhất:
C14,
Kinh
La
Vân
:
"Một
người
phạm
lỗi
gọi
là
nói
láo,
Thì
không
sợ
đời
sau,
không
có
điều
ác
gì
nó
không
thể
làm.
Thà
nuốt
viên
sắt
nóng
như
lửa,
Còn
hơn
phạm
giới
này
mà
nhận
bố
thí
của
thế
gian.
Nếu
biết
sợ
khổ,
không
thích
nghĩ
đến
khổ,
Thì
không
nên
làm
điều
ác
bí
mật
hay
công
khai.
Nếu
những
bất
thiện
hành
đã
được
làm,
đang
được
làm,
Cuối
cùng
người
ta
không
thể
thoát
khỏi
chúng,
Cũng
không
có
chỗ
trú
ẩn
nào
để
thoát."
Bài
kệ
2:
"Này
La
Vân,
thân
hành,
ngữ
hành
và
ý
hành,
Có
công
đức
hay
không
công
đức,
Ngươi
nên
tư
duy
về
chúng.
Này
La
Vân,
ngươi
không
được
cố
ý
nói
dối.
Nói
dối
đem
lại
nguy
hiểm,
thì
sao
ngươi
nói
dối?
Che
đậy
pháp
của
Sa-môn,
Lời
trống
rỗng
không
thật,
gọi
là
nói
dối.
Do
không
hộ
trì
miệng
lưỡi,
Mà
người
ta
nói
điều
sai
quấy.
Hỡi
con
đấng
Giác
ngộ,
đây
là
pháp
của
bậc
Sa-môn.
Này
La
Vân
ngươi
nên
học;
ở
đâu
ngươi
cũng
sẽ
được
hạnh
phúc
an
lạc,
an
ổn
và
vô
úy.
Này
La
Vân,
muốn
được
tất
cả
điều
này
ngươi
không
được
hại
người
khác."
Trong
NC
55
,
bản
C
có
hai
bài
kệ
nhưng
không
có
trong
bản
P.
C67:
Kinh
Đại
thiên
nại
lâm:
Vua
Đại
Điển
cầm
những
sợi
tóc
bạc
này
và
nói:
"Đầu
tôi
đã
có
tóc
hoa
râm,
cuộc
đời
tôi
càng
ngày
càng
già
và
yếu,
Thiên
sứ
đã
đến.
Đã
đến
lúc
tôi
nên
học
pháp"
C:
Vua
Nemi
bảo
chư
thiên
cõi
trời
33:
"Nó
giống
như
cỗ
xe
mượn
để
cưỡi
một
thời
gian.
Nơi
này
là
như
thế,
nghĩa
là
nó
thuộc
về
kẻ
khác.
Ta
sẽ
trở
về
Mi-sa-lo
và
thực
hành
vô
số
pháp
lành
ở
đấy.
Nhờ
vậy
ta
sẽ
được
sinh
lên
trời.
Ta
chứa
nghiệp
lành
như
lương
thực
trên
đường
lên
thiên
giới."
Trong
NC89,
có
một
bài
kệ
trong
bản
C,
không
có
trong
bản
P:
C170:
Kinh
Anh
vũ:
"Những
người
Bà-la-môn
do
quá
kiêu
căng,
Sau
khi
chết
tại
thế
giới
này,
sẽ
tái
sinh
trong
sáu
cảnh
giới:
Làm
gà
mái,
chó,
heo,
chồn,
Lừa
và
địa
ngục
là
thứ
sáu."
Có
15
kinh
trong
đó
cả
hai
bản
C
và
P
đều
có
kệ,
như
trong
NC6,
22,35,36,
39,
48,54,60,83,
85,
86,87,88,96,97.
Một
vài
bài
kệ
gần
giống
nhau
trong
cả
hai
bản.
Như
trong
NC35,
cả
hai
bài
kệ
như
sau:
C78:
Phạm
thiên
thỉnh
Phật:
"Thấy
nguy
hiểm
trong
hữu,
không
sợ
phi
hữu,
Như
vậy
không
thích
thú
trong
hữu,
Thì
có
hữu
nào
không
thể
bị
đoạn
tận?"
P49:
Phạm
thiên
cầu
thỉnh:
"Sau
khi
thấy
nguy
hiểm
của
hữu,
Đang
hiện
hữu,
ta
tìm
cái
phi
hữu.
Ta
không
thích
thú
hiện
hữu,
Ta
không
chấp
thủ
một
lạc
thú
nào."
Trong
NC48,
chúng
ta
có
hai
bài
kệ
sau:
C153:
Kinh
Man
nhàn
đề:
"Không
bệnh
là
lợi
tối
thắng.
Niết-bàn
là
lạc
tối
thắng.
Trong
các
con
đường,
đường
tám
chánh,
Trú
trong
an
ổn
và
bất
tử.
P75:
Kinh
Màgandiya:
"Không
bệnh
lợi
tối
thắng,
Niết-bàn
lạc
tối
thắng.
Trong
các
đường,
bát
chánh,
Đưa
đến
an
ổn
và
bất
tử."
Trong
vài
trường
hợp,
kinh
C
có
đến
ba
bài
kệ,
trong
khi
P
chỉ
có
một
bài,
như
được
thấy
trong
NC36,
và
bài
kệ
duy
nhất
trong
bản
P
chỉ
có
96
dòng
trong
khi
bài
kệ
tương
đương
trong
bản
C
có
đến
122
dòng.
Tương
tự
về
NC39,
trong
đó
C
có
dư
hai
bài
kệ,
một
bài
sáu
dòng
và
một
bài
bốn
dòng.
Trong
khi
bài
kệ
có
chung
với
P,
thì
C
hơn
P
tám
dòng.
Trong
NC66,
bài
kệ
trong
C
chứa
32
dòng,
bản
P
chỉ
chứa
22
dòng.
Trong
NC60,
kinh
C
có
bốn
bài
kệ,
trong
khi
P
chỉ
có
ba
bài.
Trong
bài
kệ
một,
bản
P
có
bốn
dòng
hơn
C;
trong
bài
kệ
hai,
hai
bản
có
số
dòng
giống
nhau
là
12
dòng,
trong
khi
bài
kệ
thứ
ba
thì
bản
C
có
10
dòng
nhiều
hơn
bản
P.
Bài
kệ
thứ
tư
chỉ
được
tìm
thấy
trong
C,
chứa
10
dòng
như
sau:
C161:
Phạm
Ma:
"Trong
các
tế
đàn,
lửa
là
tối
thượng.
Âm
thanh
là
nền
tảng
của
tất
cả
mọi
âm.
Trong
loài
người,
vua
là
tối
thượng.
Biển
lớn
hơn
các
dòng
sông.
Mặt
trăng
sáng
hơn
những
vì
sao,
Nhưng
không
ánh
sáng
nào
quá
hơn
mặt
trời.
Phương
trên
phương
dưới,
Bốn
phương
chính
và
bốn
hướng
phu,ï
Cùng
với
tất
cả
thế
gian,
Từ
nhân
loại
cho
đến
chư
thiên,
Chỉ
có
Phật
là
tối
thượng."
Về
bài
kệ
này,
những
nhận
xét
sau
đây
của
tiến
sĩ
Anesaki
(JRAS,
1901,
p.898)
đáng
chú
ý:
"Trong
các
kinh
A-hàm
bản
Hoa
ngữ,
bài
kệ
sau
đây
được
lặp
đi
lặp
lại
ít
nhất
12
lần:
Trong
các
tế
đàn
lửa
là
tối
thượng,
trong
các
chandas,
sàvittì
là
tối
thượng,
trong
loài
người
vua....,
trong
tất
cả
chúng
sinh,
nhân
loại
và
chư
thiên,
chỉ
có
Phật
là
trên
hết.
Tôi
không
thể
tìm
thấy
những
bài
kệ
này
trong
các
kinh
Trung
bộ
P.
Tất
cả
kinh
P,
dù
đồng
nhất
với
C
về
mọi
mặt
khác,
đều
không
có
bài
kệ
này,
trong
khi
bản
C
tương
đương
thì
có.
Tôi
tìm
thấy
chúng,
trừ
phần
cuối,
trong
kinh
Sela
của
Tiểu
bộ
Suttanipàta.
Có
phải
chúng
đã
được
thêm
vào
về
sau
trong
các
kinh
A-hàm
và
kinh
Tiểu
bộ,
hay
chúng
đã
bị
bỏ
bớt
khỏi
kinh
Trung
bộ
P?"
Cũng
vậy
trong
NC96,
chỉ
có
một
bài
kệ,
bài
kệ
bản
C
có
24
dòng,
bản
P
chỉ
có
20
dòng.
Trong
NC97,
bản
C
có
thêm
hai
bài
kệ,
một
bài
16
dòng,
một
bài
tám
dòng,
trong
khi
bản
P
có
một
bài
kệ
thừa
ra
16
dòng.
Sự
khác
biệt
này
có
lẽ
là
do
sự
khác
biệt
về
nội
dung
của
hai
kinh
này.
Trong
kinh
C,
trong
khi
kể
lại
cơn
bệnh
của
Cấp-cô-độc,
bản
C
thêm
một
câu
truyện
do
Cấp-cô-độc
kể
về
lần
đầu
tiên
ông
gặp
Phật,
và
hai
bài
kệ
thuộc
về
câu
truyện
này.
Bài
kệ
đầu
được
nói
bởi
một
vị
trời
vốn
là
bạn
cũ
của
Cấp-cô-độc
đến
giục
ông
đi
gặp
Phật.
Bài
kệ
thứ
hai
được
nói
bởi
chính
Cấp-cô-độc
để
chào
đức
Phật.
Và
bài
kệ
P
không
có
trong
bản
C
thì
được
nói
bởi
vị
trời
Cấp-cô-độc
để
ca
tụng
Phật,
Pháp,
và
Tôn
giả
Xá
Lợi
Phất.
Cấp-cô-độc
sau
khi
chết
đã
được
tái
sinh
thành
một
vị
trời,
xuất
hiện
trước
đức
Phật
và
đọc
bài
kệ
này
ca
tụng
đức
Thế
Tôn.
Nhưng
vì
bản
kinh
C
kể
lại
một
giai
thoại
khác
trong
đời
Cấp-cô-độc,
dĩ
nhiên
không
phải
là
đã
chết,
nên
bài
kệ
này
không
có.
Nhưng
có
những
trường
hợp
trong
đó
P
có
nhiều
kệ
hơn
C,
và
những
bài
kệ
trong
bản
P
dài
hơn.
Như
trong
NC22,
bản
P
có
dư
ba
bài
kệ:
tám
dòng,
14
dòng,
bốn
dòng.
Bài
kệ
một
nói
về
sự
do
dự
của
đức
Phật
không
muốn
thuyết
pháp.
Bài
kệ
hai
tả
Phạm
thiên
thỉnh
cầu
thuyết
pháp;
và
đức
Phật
theo
lời
thỉnh
của
Phạm
thiên
trong
bài
kệ
ba.
Tất
cả
ba
bài
kệ
đều
không
có
trong
bản
C,
vì
bản
C
bỏ
nguyên
cả
đoạn
này.
Trong
NC54,
trong
bài
kệ
thứ
nhất,
bài
kệ
bản
C
có
22
dòng,
ít
hơn
bài
kệ
bản
P
hai
dòng;
trong
khi
bài
kệ
thứ
hai
trong
bản
P
có
nhiều
hơn
bài
kệ
bản
C
bốn
dòng,
(bài
kệ
bản
C
có
48
dòng).
Để
nêu
rõ
những
điểm
đồng
dị
giữa
hai
bài
kệ
tương
đương
trong
bản
C
và
P,
chúng
tôi
sẽ
phân
tích
từng
dòng
các
bài
kệ
để
so
sánh,
trong
NC6,
39
và
96.
Trong
NC6,
Phật
trả
lời
Bà-la-môn
Thủy
Tịnh,
khi
Bà-la-môn
bảo
Ngài
đi
tắm
nước
thiêng:
C93:
Thủy
Tịnh
Phạm
chí:
"Diệu
hảo
thủ
phạm
chí,
Nếu
vào
sông
Đa
Thủy,
Là
trò
chơi
kẻ
ngu,
Không
thể
sạch
nghiệp
dữ.
Hảo
thủ,
đến
sông
chi?
Sông
ấy
có
nghĩa
gì,
Người
tạo
nghiệp
bất
thiện,
Nước
trong
nào
ích
chi.
Người
tịnh,
không
cấu
uế,
Người
tịnh,
thường
thuyết
giới,
Người
tịnh,
nghiệp
trắng
trong,
Thường
hành
hạnh
thanh
tịnh.
Nếu
ông
không
sát
sinh,
Cũng
không
hay
trộm
cắp,
Chân
thật,
không
nói
dối,
Thường
chánh
niệm,
chánh
trí,
Phạm
chí
học
như
vậy,
Tất
cả
chúng
sinh
an.
Phạm
chí
về
nhà
chi,
Nước
nhà
đâu
trong
sạch.
Phạm
chí,
ông
nên
học,
Dùng
thiện
pháp
tẩy
sạch.
Cần
gì
nước
bẩn
kia,
Chỉ
trừ
dơ
thân
thể?"
P7:
Gần
giống.
Bản
P
nói
tên
của
bảy
con
sông:
Bàhukà,
Adhikakkà,
Gayà,
Sundarikà,
Sarassatì,
Payàgo
và
Bàhumatì
là
vô
ích
vì
chúng
không
thể
rửa
sạch
những
hành
vi
đen
tối.
Đối
với
người
trong
sạch,
ngày
nào
cũng
là
ngày
lành
(Phaggu);
ngày
nào
cũng
là
ngày
trai
giới
(Uposatha),
vì
người
ấy
luôn
luôn
tuân
theo
quy
luật.
Bản
C
thêm:
luôn
luôn
có
chánh
niệm,
chánh
kiến
đối
với
lời
giáo
huấn
của
đức
Phật.
Bản
P
bỏ
hai
từ
này
nhưng
thêm
:
có
lòng
tin
saddahanà,
và
không
hà
tiện,
amaccharì.
Trong
dòng
cuối,
bản
P
nói
đến
đức
Phật
dạy:
"Bạn
cần
gì
phải
đến
sông,
khi
bất
cứ
giếng
nào
cũng
là
sông
Hằng
của
bạn?"
Trong
khi
bản
P
chấm
dứt
bài
kệ
ở
đây
và
trở
lại
thể
thức
văn
xuôi,
bản
C
vẫn
tiếp
tục
hình
thức
kệ:
"Phạm
chí
bạch
Phật
rằng:
'Tôi
cũng
nghĩ
như
vậy,
Dùng
thiện
pháp
tẩy
sạch,
Cần
gì
nước
dơ
kia.
Phạm
chí
nghe
Phật
dạy,
Trong
lòng
rất
hoan
hỷ,
Liền
đảnh
lễ
chân
Phật,
Quy
y
Phật,
Pháp,
Tăng.'
"
Trong
NC39,
chính
bài
kệ
của
Ưu
Ba
Ly
là
bài
mà
người
ta
tìm
thấy
được
tàn
dư
của
nguyên
bản
Sanskrit
ở
Trung
Á
(xem
phần
phụ
lục).
C133:
Khi
ấy
Kiền
Tử
hỏi
Ưu
Ba
Ly
rằng,
tất
cả
mọi
người
trong
thành
Na
Lan
Đà
đều
biết
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử
của
Ni
Kiền;
nhưng
bây
giờ,
ông
là
đồ
đệ
của
ai.
Ưu
Ba
Ly
trả
lời
Kiền
Tử
bằng
một
bài
kệ
dài,
trong
lúc
quỳ
gối
chạm
đất,
chắp
tay
hướng
về
đức
Thế
Tôn
mà
nói:
1/
a.
Trong
số
những
người
can
đảm
thoát
khỏi
vô
minh,
đã
đoạn
dứt
lỗi
lầm
và
chân
chính
vượt
qua
chúng,
P1a.
b.
Vô
tỷ,
suy
tư
tinh
tế,
được
điều
phục
về
giới,
định,
tuệ,
P1b.
c.
Bảo
đảm
không
cấu
uế,
của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử,
P1c.
2/
a.
Về
đức
Thế
Tôn
vĩ
đại
với
sự
tự
chế
hoàn
toàn;
đã
đạt
đến
sự
thánh
thiện,
đã
làm
chủ
ngữ
nghiệp.
P7a.
b.
Với
chánh
niệm,
quán
sát
chân
chính
và
tế
nhị,
không
cao
cũng
không
thấp,
P7b.
c.
Bất
động,
luôn
luôn
tự
chủ.
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
P7c.
3/
a.
Về
người
không
có
sự
cong
quẹo,
luôn
luôn
hài
lòng,
Đã
tẩy
sạch
sự
nhỏ
nhen,
khéo
hỷ
túc,
P2a.
b.
Sau
khi
trở
thành
Sa-môn,
vị
ấy
đạt
giác
ngộ,
Với
thân
hiện
tại
là
thân
cuối
cùng,
đức
Thế
Tôn.
P2b.
c.
Vô
tỷ
và
không
bụi
bặm,
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
P2c.
4/
a.
Về
con
người
không
có
ganh
tị,
vô
lượng,
Sâu
xa
khôn
dò,
đạt
đến
hiền
trí,
P4a.
b.
Luôn
luôn
an
ổn
và
đầy
nghị
lực,
Trú
pháp,
tư
tưởng
tế
nhị,
P4b.
c.
Được
điều
phục,
luôn
luôn
không
đùa,
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
P5c.
5/
a.
Về
Ngài,
một
đại
long
tượng,
thích
ở
cao,
đã
dập
tắt
kiết
sử,
đã
đạt
giải
thoát.
P5a.
b.
Thiện
xảo
về
đàm
luận,
thanh
tịnh,
Trí
sanh,
sầu
ưu
tẩy
sạch,
P5b.
c.
Không
trở
lại
hữu,
đấng
Thích
Ca,
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
P6c.
6/
a.
Về
Ngài,
người
đã
đi
một
cách
chân
chính,
với
tư
tưởng
tập
trung,
không
tán
loạn,
thanh
tịnh.
P8a.
b.
Luôn
luôn
mỉm
cười,
không
sân
hận,
Thích
độc
cư,
đã
đạt
đến
cái
tối
thượng.
P8b.
c.
Vô
úy,
luôn
luôn
nhiệt
tâm
và
tinh
cần,
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
7/
a.
Về
Ngài,
bậc
Đại
tiên
thứ
bảy
vô
tỷ,
Với
ba
sự
chứng
đắc,
đã
đạt
đến
Phạm
thể,
P6a.
b.
Không
tỳ
vết
và
thuần
tịnh
như
một
ngọn
đèn
sáng,
Đạt
đến
an
tịnh,
chấm
dứt
sân
hận,
c.
Tinh
cần
và
hết
sức
thanh
tịnh,
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
8/
a.
Về
Người
đã
đạt
đến
sự
tịch
tịnh,
có
trí
tuệ
như
đại
địa,
có
đại
tuệ,
đã
tẩy
sạch
sự
chấp
thủ
thế
gian,
P9a.
b.
Sau
khi
khéo
tư
duy
với
con
mắt
tối
thượng,
Một
siêu
nhân
vô
tỷ,
P10b.
c.
Một
bậc
thầy
của
chính
mình,
không
sân
hận,
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
9/
a.
Về
Người
đã
đoạn
tận
hy
vọng,
thiện
tối
thắng,
Người
lãnh
đạo
tốt,
có
sự
làm
chủ
vô
song,
P3a.
b.
Tối
thượng
và
luôn
luôn
an
lạc,
Không
còn
hoài
nghi,
với
ánh
sáng
chói,
P3b
c.
Với
kiêu
mạn
đã
được
tẩy
trừ,
giác
ngộ
tối
cao,
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử.
P3c.
10/
a.
Về
con
người
mà
khát
ái
đã
đoạn
tận,
với
sự
giác
ngộ
vô
song,
không
có
khói,
không
có
lửa
ngọn,
P10a.
b.
Đức
Như
lai
là
đấng
Thiện
thệ,
Vô
song,
vô
tỷ,
c.
Có
danh
tiếng
lớn,
đã
đạt
đến
sự
chánh
trực,
Của
đức
Phật,
Ưu
ba
ly
là
đệ
tử.
P10c
11/
a.
Như
vậy
với
100
lời,
ông
ta
tán
thán
Phật,
Những
lời
ấy
chưa
từng
được
suy
tính
trước.
b.
Ưu
Ba
Ly
đã
nói
lên
chúng,
Chư
thiên
đã
đến
nơi
ông
ta,
c.
Khéo
giúp
ông
ta
trong
cuộc
thảo
luận,
Phù
hợp
với
pháp,
thích
hợp
với
một
người
như
vậy.
Kiền
Tử
đã
hỏi,
Đồ
đệ
của
đức
Phật,
đấng
mười
lực.
P56:
Bài
kệ
của
Ưu
Ba
Ly
gồm
có
11
đoạn
trong
C
và
mười
đoạn
trong
P.
Bản
P
bỏ
đoạn
thứ
11.
Mỗi
đoạn
kệ
chấm
dứt
với
cùng
một
điệp
khúc
:
C:
Của
đức
Phật,
Ưu
Ba
Ly
là
đệ
tử
=P:
Của
Ngài,
đức
Thế
Tôn,
tôi
là
đệ
tử.
Mặc
dù
cả
hai
bài
kệ
giống
nhau
phần
chính,
chúng
có
nhiều
điểm
khác
nhau
về
thứ
tự
liên
tiếp
giữa
các
bài
kệ,
về
vị
trí
của
những
bài
kệ
làm
thành
toàn
thể.
C1=P1;
C2=P7;
C3=P2;
C4a=P4a;
C4b=P4b;
C4c=P5c;
C5a=P5a;
C5b=P5b=
C5c=P6c;
C6a=P8a;
C6b=P8b;
C6c=P
không
có;
C7a=P6a;
C7b=P
không
có;
C7c=Pkhông
có;
C8a=P9a;
C8b=P10b,
C8c=Pkhông
có;
C9a=P3a,
C9b=P3b;
C9c=P3c;
C10a=P10a;
C10b=P
không
có;
C10b=P
10c;
C11=P
không
có.
Như
vậy
C6c,
C7b,
C7c,
C8c,
C10b,
C11
không
có
trong
bản
P
và
P4c,
P6b,
P8c,
P9c
không
có
trong
bản
C.
Ngay
cả
trong
những
bài
kệ
tương
đương,
bản
C
và
P
cũng
có
nhiều
khác
nhau
đáng
kể.
Như
trong
C1b,
C:
vô
song=P:
anighassa
(không
khổ).
Trong
C1c,
C:
an
ổn,
bảo
đảm
(secure)=P:
vessantarassa
(điềm
tĩnh).
Trong
C2a,
C:
đạt
đến
sự
thánh
thiện
=P:
pattipattassa,
đã
đạt
được
cái
gì
có
thể
đạt.
Trong
C2b,
C:
không
cao
không
thấp=P:
anabhinatassa
(không
thiên
về
dục,
không
sân).
Trong
C3a,
C:
về
Người
không
có
sự
cong
quẹo(crookedness)=P:
akathankathissa
(không
hoài
nghi);
C:
đã
trừ
khử
tính
hà
tiện=P:
vantalokàmisassa
(từ
bỏ
tài
sản
thế
gian).
Trong
C3b,
C:
Ngài
đạt
đến
giác
ngộ=P
manujassa
(của
một
con
người);
C:
đức
Thế
Tôn=P:
narassa
(về
con
người).
Trong
C4a,
C:
về
Người
không
ganh
tị=P:
nisabhassa
(về
con
người
tốt
nhất,
bò
đực
tối
thượng).
Trong
C4b,
C:
có
nghị
lực=P
vedassa
(người
hiểu
biết);
C:
có
suy
nghĩ
tế
nhị=P:
samvutattassa
(tự
chế).
Trong
C4c,
C:
luôn
luôn
không
đùa
(always
without
sporting)
=
P
:
nippapancassa
(không
chướng
ngại).
Trong
C5a,
C:
về
ngài,
một
con
rồng
lớn
=
P:
nagassa
(về
một
con
voi);
C:
ưa
thích
ở
chỗ
cao=P:
pantasenassa
(sống
xa
chỗ
con
người).
Trong
C5b,
C:
thiện
xảo
về
thảo
luận=P:
patimantakassa
(người
nói
hòa
nhã);
C:
sinh
từ
trí
tuệ
=
P:
pannadhajassa
(đã
hạ
cây
cờ
xuống);
C:
tẩy
trừ
sầu
ưu
=
P:
vìtaràgassa
(lìa
tham
dục).
Trong
C5c,
C:
người
không
trở
lại
cõi
hữu=P:
purindadassa
(người
bố
thí
tối
thượng).
Trong
C6a,
C:
về
người
đã
đi
một
cách
chân
chính=P:
sammaggatassa.
Trong
C6b,
C:
luôn
luôn
mỉm
cười=P:
asitassa
(không
trói
buộc),
C:
không
sân=P:
appahìnassa
(không
thiên
về
bất
cứ
gì?).
Trong
C7a,
C:
về
vị
trời
thứ
bảy=P:
isisattamassa
(bậc
hiền
thứ
bảy);
C:
không
thể
so
sánh=P:
akuhassa
(không
giả
dối).
Trong
C8a,
C:
với
trí
tuệ
như
đại
địa=P:
Bhùripannassa
(có
trí
tuệ
quảng
đại).
Trong
C8b,
C:
sau
khi
khéo
tư
duy=P:
àhuneyyassa
(đáng
cúng
dường);
C:
có
con
mắt
tối
thượng=P:
yakkhassa
(của
dạ
xoa).
Trong
C9a,
C:
về
Người
đã
đoạn
trừ
hi
vọng=P:
asamsayassa,
of
Him
who
is
sure(?);
C:
lãnh
đạo
tốt=P:
venayikassa
(lãnh
đạo).
Trong
C9c,
C:
có
giác
ngộ
tối
thượng=P:
virassa
(anh
hùng,
người
có
nghị
lực).
Trong
C10c,
C:
có
đại
danh=P:
mahato
(người
vĩ
đại);
C:
đã
đạt
đến
sự
chính
trực
=
P:
yasaggapattassa
(đã
đạt
đến
danh
tiếng
tối
cao).
Trong
những
bài
kệ
tương
đương,
những
bài
còn
lại
gần
giống
nhau.
Nhận
xét:
Sự
hiện
hữu
của
từ
thuộc
dạ
xoa
trong
câu
kệ
10b
của
bản
P
thật
khó
hiểu.
Không
thể
nào
gọi
Phật
là
một
dạ
xoa,
nhất
là
trong
một
bài
kệ
ca
tụng
Ngài.
Bản
C
dịch
người
có
mắt
sáng
nhất
đã
đưa
ra
giải
đáp.
Nguyên
bản
Sanskrit
có
lẽ
là
danh
từ
Aksasya,
có
nghĩa
là
con
mắt.
Tiếng
Pàli
yakkhassa
rõ
ràng
đã
thêm
chữ
"y"
ở
trước
cho
dễ
đọc
như
ta
thường
thấy
trong
các
câu
na
yimassa,
yaci
yeva,
kinci,
yittham,
v.v..
Trong
NC96,
bài
kệ
bản
C
và
bài
kệ
tương
đương
trong
bản
P
được
nói
như
sau:
C180:
=P143:
Đức
Phật
đọc
một
bài
kệ
sáu
câu
trong
bản
C
và
năm
câu
trong
bản
P:
1)
C:
Người
tinh
cần
bố
thí
cho
người
bất
cẩn
một
món
quà
có
được
phù
hợp
với
chánh
pháp,
với
một
tâm
hoan
hỷ.
Vị
ấy
tin
vào
nghiệp
và
quả
báo
của
nghiệp,
nên
sự
cúng
dường
này
được
thanh
tịnh
bởi
người
cho.
P:
Gần
giống.
C:
tinh
cần=P:
có
thiện
giới.
C:bất
cẩn=P:
có
ác
giới.
C:
vị
ấy
tin
vào
nghiệp
và
quả
báo
của
nghiệp=P:
vị
ấy
tin
chắc
vào
quả
báo
dồi
dào
của
nghiệp.
2)
C:
Người
bất
cẩn
bố
thí
cho
người
tinh
cần
một
món
quà
có
được
không
phù
hợp
với
chánh
pháp
và
cũng
không
bố
thí
với
tâm
hân
hoan,
vị
ấy
không
tin
vào
nghiệp
và
quả
báo
của
nghiệp,
như
vậy
sự
cúng
dường
này
được
thanh
tịnh
bởi
người
nhận.
P:
Gần
giống,
với
những
dị
biệt
như
trên.
3)
C:
Người
biếng
nhác
bố
thí
cho
người
bất
cẩn
một
món
quà
có
được
không
hợp
pháp
và
cũng
không
với
tâm
hoan
hỷ;
vị
ấy
không
tin
vào
hành
động
và
quả
báo
của
hành
động,
như
vậy
sự
cúng
dường
này
không
có
quả
báo
lớn
lao.
P:
Gần
giống,
với
những
dị
biệt
như
trên.
C:
không
có
quả
báo
lớn=P:
không
được
thanh
tịnh
bởi
cả
hai
bên,
người
cho
và
người
nhận.
4)
C:
Người
tinh
cần
bố
thí
cho
người
tinh
cần
một
món
quà
có
được
hợp
pháp
nhưng
không
với
tâm
vui
vẻ,
vị
ấy
tin
vào
nghiệp
và
quả
báo
của
nghiệp;
như
vậy
sự
cúng
dường
này
có
quả
báo
lớn.
P:
Như
trên,
với
những
dị
biệt
như
đã
thấy.
5)
C:
Những
tôi
tớ
và
người
nghèo,
những
người
vui
vẻ,
san
sẻ
phần
mình
để
góp
vào
việc
bố
thí,
họ
tin
vào
nghiệp
và
quả
báo
của
nghiệp,
như
vậy
một
vật
thí
được
bậc
trí
tán
dương.
P:
không
có.
6)
C:
Với
thân
và
lời
khéo
hộ
trì
một
cách
chân
chính;
đưa
tay
ra
xin
hợp
pháp,
một
người
thiểu
dục
bố
thí
cho
một
người
thiểu
dục,
quà
tặng
này
là
tối
thượng.
P:
Không
giống
hẳn:
Một
người
không
chấp
thủ
bố
thí
cho
một
người
không
chấp
thủ
một
món
quà
có
được
hợp
pháp
với
một
tâm
hoan
hỷ,
tin
chắc
vào
quả
báo
giàu
có
của
hành
vi,
ta
nói
quà
tặng
này
có
lợi
ích
lớn.
Như
vậy,
một
tổng
quan
về
nghiên
cứu
tỷ
giảo
các
bài
kệ
trong
hai
bản
kinh
C
và
P
cho
ta
thấy,
bản
C
có
nhiều
kệ
hơn
bản
P,
và
những
bài
kệ
trong
C
thường
dài
hơn
P.
Chúng
ta
cũng
nhận
thấy
rằng
nền
tảng
chung
giữa
hai
bản
khá
lớn.
Và
điều
này
nói
lên
một
nguồn
chung
từ
đấy
cả
hai
bản
rút
tài
liệu.
Khi
nghiên
cứu
kỹ
những
bài
kệ
tương
đương
trong
hai
bản,
ta
thấy
có
nhiều
điểm
đồng
và
dị,
và
điều
này
cho
thấy
thái
độ
độc
lập
của
các
nhà
biên
tập
hai
bản
kinh,
về
phương
diện
sưu
tầm
và
sắp
xếp
các
tài
liệu.
---o0o---
Mục
lục | 1.1
| 1.2 | 2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4 | 2.5
| 2.6 | 2.7
| 3.1 | 3.2 | 3.3
| 3.4 | 3.5 | 3.6
| 4.1 | 4.2 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002