So sánh kinh Trung A-hàm
chữ Hán và
kinh Trung Bộ chữ Pàli
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya",
Ph.D. Thesis, Bihar University, India
---o0o---
CHƯƠNG
V:
ĐỨC
PHẬT
1.
Tường
thuật
về
đời
đức
Phật:
Trong
NC22,
đức
Phật
có
tự
thuật
cuộc
đời
của
mình
cho
Tôn
giả
A
Nan:
a)
Xuất
gia:
C204:
(vii,
74a,12-13):
"Khi
ta
chưa
đạt
giác
ngộ
tối
thượng
và
hoàn
toàn,
tư
tưởng
này
khởi
lên
nơi
ta:
'Ta
phải
bị
bệnh,
tại
sao
ta
lại
điên
rồ
đi
tìm
cái
cũng
bệnh;
ta
bị
già,
chết,
sầu,
ưu,
não,
ô
nhiễm,
tại
sao
ta
điên
rồ
đi
tìm
cái
cũng
già,
chết,
sầu,
ưu,
não,
ô
nhiễm?
Sao
ta
không
đi
tìm
cái
không
bệnh,
sự
an
ổn
tối
thượng,
Niết-bàn,
đi
tìm
cái
không
già,
không
chết,
không
sầu,
không
não,
không
ô
nhiễm,
cái
an
ổn
tối
thượng,
Niết-bàn?'
"
P26:
Gần
giống.
C:
Khi
ta
chưa
đạt
đến
giác
ngộ
hoàn
toàn
và
tối
thượng
=
P:
Trước
khi
ta
giác
ngộ,
khi
ta
chưa
thành
Phật,
đang
còn
là
Bồ-tát.
Ở
đây
bản
C
bỏ
danh
từ
Bồ-tát.
C:
phải
bị
già,
chết,
sầu,
ưu,
não,
ô
nhiễm
=
P:
phải
bị
sinh,
già,
bệnh,
chết,
ô
nhiễm.
C:
(74a,
13-15):
"Ta
vào
lúc
ấy,
trong
tuổi
thanh
xuân
là
một
thanh
niên
hoàn
toàn
trẻ
trung,
tóc
xanh,
khỏe
mạnh,
29
tuổi,
hưởng
lạc
thú,
sống
sung
túc,
mặc
dù
lúc
ấy
cha
mẹ
ta
than
khóc
và
thân
quyến
ta
không
vui
lòng,
không
sung
sướng,
ta
vẫn
cạo
râu
tóc
để
đắp
cà
sa,
vì
lòng
tin
đã
từ
bỏ
gia
đình,
sống
không
gia
đình
để
học
pháp."
P:
(163,
27-31):
Gần
giống.
Bản
P
bỏ:
trong
sự
trong
sáng
của
tuổi
trẻ,
29
tuổi,
hưởng
lạc
thú,
sống
sung
túc,
thân
quyến
không
vui
vẻ
và
hạnh
phúc,
vì
lòng
tin
học
pháp.
Nó
thêm:
ngược
lại
ước
muốn
của
cha
và
mẹ.
b)
Học
đạo
với
hai
bậc
hiền
nhân:
Học
với
Àlàra
Kàlàma
C:(74a,
15-20):
"Ta
tuân
giữ
sự
trong
sạch
của
thân,
lời
và
ý.
Sau
khi
hoàn
toàn
thanh
tịnh
thân,
ta
muốn
đi
tìm
cái
vô
bịnh...
vô
thượng
an
ổn,
Niết-bàn.
Rồi
ta
đến
Àlàra
Kàlàma
và
hỏi:
'Àlàla,
tôi
muốn
sống
đời
phạm
hạnh
dưới
giáo
pháp
của
Ngài,
có
thể
được
hay
không?'
Àlàra
đáp:
'Thưa
Ngài
đối
với
tôi,
không
có
gì
là
không
thể.
Nếu
Ngài
muốn
tu
tập,
xin
hãy
làm.'
Rồi
ta
hỏi:
'Àlàra,
thế
nào
là
pháp
mà
Ngài
đã
biết,
đã
thấy
và
đã
chứng?'
Àlàra
trả
lời
:
'Thưa
Ngài,
tôi
đã
vượt
qua
tất
cả
cảnh
giới
của
thức,
chứng
và
trú
vô
sở
hữu.
Đấy
là
pháp
mà
tôi
đã
biết,
đã
thấy
và
đã
chứng.'
Ta
lại
nghĩ:
'Không
chỉ
một
mình
Àlàra
mới
có
đức
tin
như
vậy,
ta
cũng
có
đức
tin
như
vậy.
Không
chỉ
một
mình
Àlàra
có
tin
tấn
như
vậy,
mà
ta
cũng
có
tinh
tấn
ấy.
Không
chỉ
một
mình
Àlàra
có
tuệ
như
vậy,
ta
cũng
có
tuệ
ấy.
Àlàra
đã
biết
đã
thấy
và
đã
chứng
pháp
này
bằng
tự
mình.'
Vì
ta
muốn
chứng
pháp
ấy,
ta
độc
cư
ở
một
nơi
yên
tịnh,
vắng
vẻ,
xa
xôi,
tâm
ta
không
xao
lãng
mà
tỉnh
giác,
nỗ
lực
thiền
định.
Cứ
thế,
nhờ
độc
cư
tại
một
nơi
yên
tịnh,
vắng
vẻ,
tâm
ta
không
xao
lãng
mà
tỉnh
giác,
nỗ
lực
thiền
định,
chẳng
bao
lâu
ta
chứng
được
pháp
ấy.
Sau
khi
ta
chứng
được
pháp
ấy,
ta
đến
Àlàra
và
hỏi:
'Àlàra,
có
phải
pháp
mà
Ngài
đã
biết,
đã
thấy
và
đã
chứng
là
vượt
trên
tất
cả
cảnh
giới
của
thức,
đạt
đến
vô
sở
hữu
xứ
và
an
trú
trong
đó?'
Àlàra
trả
lời:
'Thưa
Tôn
giả,
chính
pháp
ấy
tôi
đã
biết,
đã
thấy
và
đã
chứng....'
Àlàra
lại
nói
với
ta:
'Thưa
Tôn
giả,
pháp
mà
tôi
đã
chứng
Ngài
cũng
đã
chứng.
Pháp
mà
Ngài
đã
chứng,
pháp
ấy
tôi
cũng
đã
chứng.
Thưa
Tôn
giả,
Ngài
đến
đây,
ta
cùng
lãnh
đạo
đoàn
nhóm
này.'
Địa
vị
của
Àlàra
là
bậc
thầy,
ta
cũng
ngang
hàng
với
ông,
được
sự
cúng
dường,
tôn
kính,
hạnh
phúc
tối
thượng.
Khi
ấy
ta
lại
nghĩ:
'Pháp
này
không
đưa
đến
trí
tuệ,
giác
ngộ,
Niết-bàn.
Bây
giờ
ta
nên
từ
bỏ
pháp
ấy
để
đi
tìm
cái
không
bệnh
...
sự
an
ổn
tối
thượng,
Niết-bàn.'
Rồi
ta
từ
bỏ
pháp
ấy
và
đi
tìm
cái
không
bệnh,
vô
thượng
an
ổn,
Niết-bàn."
P:
(163,
31-37;
164;
165,
1-14):
Cũng
gần
giống.
C:
Ta
an
tịnh
thân
hành:
...
Niết-bàn
=
P
:
Như
vậy
sau
khi
xuất
gia,
người
đi
tìm
cái
gì
có
công
đức,
đi
tìm
con
đường
vô
thượng
an
ổn.
C:
Không
gì
là
bất
khả
đối
với
tôi;
nếu
ngài
muốn
tu
tập
thì
hãy
tu
=
P:
Xin
Tôn
giả
hãy
an
trú
trong
đó;
pháp
này
một
người
có
trí
tuệ
chẳng
bao
lâu
tự
mình
chứng
đắc,
chứng
ngộ,
sẽ
chứng
đạt
và
an
trú
trong
đó.
Bản
P
thêm
một
đoạn
đức
Phật
kể
lại
làm
thế
nào
Ngài
đã
nắm
vững
pháp
mà
Àlàra
Kàlàma
đã
khai
thị,
trên
phương
diện
môi
mép,
như
giải
thích
và
tụng
đọc.
Như
những
người
khác,
ngài
đã
biết
lý
thuyết
về
trí
tuệ,
lý
thuyết
của
các
bậc
trưởng
lão.
C:
Ta
lại
nghĩ:
"Pháp
này
không
đưa
đến
yểm
ly,
ly
dục,
đoạn
diệt,
an
tịnh,
thắng
trí,
giác
ngộ,
Niết-bàn;
mà
chỉ
đưa
đến
sự
chứng
đắc
vô
sở
hữu."
Phần
còn
lại
cũng
gần
giống
nhau.
c)
Học
với
Uddaka
Ràmaputta:
C:(74b,5-15)=P(165,
15-37;
166,1-34):
Đoạn
này
cũng
gần
như
đoạn
trước
trong
cả
hai
bản
C
và
P,
thay
bằng
tên
Uddaka
Ràmaputta
và
thay
vô
sở
hữu
xứ
bằng
phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ.
d)
Giác
ngộ:
C:(74b,
15-20):
"Rồi
ta
từ
bỏ
pháp
ấy
để
đi
tìm
cái
không
bệnh......Niết-bàn.
Ta
đi
đến
phía
nam
ngọn
núi
Hsiang
ting,
đến
làng
những
người
Bà-la-môn
Yu-pei-lo
tên
gọi
Ssuna.
Ở
giữa
làng
có
một
nơi
khả
ái,
có
rừng
xanh
và
con
sông
Ni
Liên
nước
trong
trẻo
chảy
tràn
bờ.
Khi
ta
thấy
mặt
đất
này
ta
nghĩ:
'Đất
này
thật
khả
ái,
khả
lạc,
với
rừng
xanh
và
con
sông
trong
trẻo
chảy
tràn
bờ.
Nếu
có
thiện
gia
nam
tử
nào
muốn
học
pháp,
vị
ấy
thật
nên
học
pháp
tại
đây.
Ta
cũng
muốn
học
pháp,
vậy
nay
ta
nên
học
pháp
tại
nơi
này'.
Rồi
ta
lấy
một
ít
cỏ,
đi
đến
cây
Bồ
đề,
trải
ra,
rồi
trải
tọa
cụ
ngồi
kiết
già,
lập
lời
nguyện
không
rời
khỏi
chỗ
nếu
chưa
đạt
đến
sự
tận
trừ
lậu
hoặc.
Ta
đi
tìm
cái
không
bệnh,
tìm
sự
an
ổn
tối
thượng
Niết-bàn...
và
ta
đạt
đến
cái
không
già,
không
chết,
không
sầu,
bi,
khổ,
không
lỗi
lầm,
sự
an
ổn
tối
thượng,
Niết-bàn.
Trí
sanh,
minh
sanh,
định
đạo
phẩm
pháp
(chữ
nho);
sanh
đã
tận,
phạm
hạnh
đã
thành,
những
gì
nên
làm
đã
làm
xong,
không
còn
hữu.
Chân
thật
là
tri
kiến
ta."
P:
(166,35-37):
Không
giống
hẳn.
Bản
P
bỏ
phía
nam
núi
Hương,
nhưng
thêm
Ma
Kiệt
Đà.
Ở
đây
bản
C
đã
lầm
chữ
Gayaø
với
chữ
Gaja.
C:
Yu-Pei-lo,
một
làng
Bà-la-môn
tên
gọi
Ssuna
=
P:
Uruvelà
Senànigamo.
Ở
đây
địa
điểm
này
được
mô
tả
là
một
nơi
khả
ái,
một
khu
rừng
êm
ả,
dòng
sông
chảy
trong,
dễ
đến,
khả
ái,
có
những
khu
làng
vây
quanh,
thích
hợp
để
khất
thực.
Bản
P
bỏ:
(*)
Ta
lấy
một
ít
cỏ
đi
đến
cây
Bồ
đề...
cho
đến
sự
diệt
trừ
lậu
hoặc.
(*)
được
tìm
thấy
trong
Nidanakatha
thuộc
Bản
sanh
truyện).
C:
Định
đạo
phẩm
pháp=P:
Akuppà
me
vimutti
(giải
thoát
bất
động).
Phần
còn
lại
cũng
giống
nhau.
e)
Do
dự
không
muốn
giảng
pháp:
P:
(167,168,169):
Đoạn
kinh
dài
này
không
có
trong
bản
C
(trong
đó
đức
Phật
sau
khi
thành
đạo
đã
ngần
ngại
không
giảng
pháp
vì
hữu
tình
bị
chìm
đắm
trong
dục
lạc
và
vô
minh;
chỉ
sau
khi
Phạm
vương
cầu
thỉnh,
đức
Phật
mới
quyết
định
chuyển
bánh
xe
pháp).
f)
Quyết
định
giảng
pháp:
C:(74b,20):
"Khi
ta
mới
đạt
Vô
thượng
bồ
đề,
tư
tưởng
này
khởi
lên
nơi
ta:
'Ta
sẽ
giảng
pháp
cho
ai
trước
tiên?'
Rồi
ta
lại
nghĩ:
'Ta
nên
giảng
pháp
trước
tiên
cho
Àlàra.'
Lúc
ấy
một
vị
thiên
đứng
trên
hư
không
nói
với
ta
rằng:
'Hỡi
bậc
đại
tiên,
Ngài
nên
biết
rằng
Àlàra
đã
chết
bảy
ngày
trước
đây.'
Ta
cũng
biết
rằng
Àlàra
đã
chết
bảy
hôm
trước.
Rồi
ta
lại
nghĩ:
'Thật
là
một
mất
mát
lớn
cho
Àlàra
đã
không
nghe
được
pháp
này.
Nếu
nghe
được
pháp
này,
ông
sẽ
nhanh
chóng
hiểu
và
thâm
nhập.'
Khi
ta
mới
đạt
Vô
thượng
bồ
đề,
tư
tưởng
này
khởi
lên
nơi
ta:
'Ta
nên
giảng
pháp
cho
ai
đầu
tiên?'
Rồi
ta
lại
nghĩ:
'Ta
nên
trước
hết
giảng
cho
Uất
Đầu
Lam
Phất'.
Rồi
một
vị
thiên
đứng
trên
hư
không
bảo
ta:
'Hỡi
bậc
đại
tiên,
Ngài
nên
biết
rằng
Uất
Đầu
Lam
đã
chết
14
ngày.'
Ta
cũng
biết
Uất
Đầu
Lam
đã
chết
14
ngày.Rồi
ta
nghĩ:
'Thực
là
mất
mát
lớn
cho
Uất
Đầu
Lam
đã
không
nghe
được
pháp
này.
Nếu
nghe
được,
ông
ta
sẽ
nhanh
chóng
hiểu
và
thâm
nhập.'
Khi
ta
vừa
đạt
giác
ngộ,
tư
tưởng
này
khởi
lên
nơi
ta:
'Ta
nên
giảng
pháp
cho
ai
đầu
tiên?'
Rồi
ta
lại
nghĩ:
'Ngày
xưa
năm
vị
Tỳ-kheo
đã
phục
vụ
ta
rất
chu
đáo,
đã
giúp
đỡ
ta
rất
nhiều.
Khi
ta
còn
thực
hành
khổ
hạnh,
những
vị
này
hầu
hạ
ta.
Bây
giờ
ta
nên
giảng
pháp
trước
tiên
cho
năm
vị
này.'
Rồi
ta
lại
nghĩ:
'Ở
đâu
những
vị
này
hiện
giờ
đang
sống.'
Rồi
với
thiên
nhãn
thuần
tịnh
siêu
nhân,
ta
thấy
năm
vị
Tỳ-kheo
đang
ở
Ba
La
Nại,
chỗ
ở
của
chư
thiên
tại
vườn
Nai.
Ta
ở
dưới
cây
bồ
đề
cho
đến
thỏa
thích,
rồi
sửa
soạn
y
bát
để
đi
đến
Ba
La
Nại,
đến
thị
trấn
Ca
Thi."
P:
(169;170):
Gần
giống.
Bản
P
bỏ:
Khi
ta
mới
đạt
vô
thượng
bồ
đề........
Ta
sẽ
giảng
pháp
này
cho
ai
đầu
tiên.
Nhưng
thêm
:
Ai
sẽ
hiểu
pháp
này
một
cách
nhanh
chóng.
Và
nó
cũng
thêm
một
vài
chi
tiết
về
Àlàra:
"Ông
ấy
đa
văn,
có
kinh
nghiệm,
thông
minh,
ít
lỗi".
C:
Hỡi
bậc
đại
tiên=P:
thưa
Tôn
giả.
C:
Uất
Đầu
Lam
đã
chết
hai
tuần
trước=P:
Ông
đã
chết
hôm
qua
(abhidosa).
g)
Gặp
Yuto
(P:
Upako):
C:(75a,
8-16)=P(170,33-37,171,
1-17):
Vào
lúc
ấy
một
tín
đồ
của
ngoại
đạo
tên
Yuto
thấy
ta
từ
xa
đến,
đã
nói
với
ta:
"Thưa
Cồ
Đàm,
các
căn
của
Ngài
thật
thanh
tịnh,
màu
da
của
Ngài
sáng
sủa,
gương
mặt
của
Ngài
tỏa
ra
ánh
sáng.
Thưa
Cồ
đàm,
ai
là
thầy
của
Ngài?
Ngài
học
pháp
với
ai?
Ngài
tin
vào
pháp
gì?"
Khi
ấy
ta
trả
lời
choYuto
với
những
bài
kệ
này:
Trong
bản
C
chỉ
có
4
bài
kệ
đức
Phật
trả
lời
cho
Yuto.
Trong
bản
P
có
đến
năm
bài
kệ,
tương
đương
với
bản
C
như
sau:
C1=P1,
C2=P2
và
P3,
C3=P5,
C4=P4.
C1=P1:
Bản
C:
Ta
là
tối
thượng,
bậc
chiến
thắng
tất
cả.
Không
thủ
trước
bất
cứ
pháp
gì;
Tất
cả
tham
ái
đã
được
đoạn
tận,
đã
giải
thoát.
Ta
tự
ngộ,
còn
ai
có
thể
là
thầy
ta?
P:
Ta
là
đấng
chiến
thắng,
nhất
thiết
trí;
ta
không
bị
nhiễm
trước
tất
cả
pháp.
Tất
cả
đã
được
ta
từ
bỏ,
giải
thoát,
với
sự
đoạn
tận
tham
ái.
Ta
là
người
tự
ngộ.
Ta
còn
phải
theo
ai?
C2=P2
và
P3:
C:
Ta
là
đấng
vô
sanh,
không
ai
vượt
hơn
ta,
ta
tự
chứng
vô
thượng
bồ
đề,
Như
lai
là
bậc
thầy
của
trời
và
người,
ta
là
đấng
Nhất
thiết
trí.
Ta
có
năng
lực,
có
uy
lực.
P:
Đối
với
ta
không
có
thầy,
không
thể
tìm
thấy
người
ngang
hàng
với
ta,
trong
thế
giới
này
với
chư
thiên,
không
ai
có
thể
sánh
bằng
ta.
Ta
là
đấng
tối
thắng
trên
thế
gian;
là
bậc
thầy
tối
thượng.
Một
mình,
ta
chứng
đắc
toàn
giác.
Ta
mát
mẻ
và
an
tịnh.
C3=P5:
C:
Ta
là
đấng
chiến
thắng
tất
cả
hữu.
Điều
này
có
nghĩa
rằng
tất
cả
lậu
hoặc
ta
đã
đoạn
tận.
Ta
đã
phá
hủy
tất
cả
các
pháp
bất
thiện.
Này
Yuto,
chính
vì
thế
ta
là
đấng
chiến
thắng.
P:
Những
người
giống
như
ta
là
những
đấng
chiến
thắng,
đã
đạt
đến
sự
đoạn
tận
lậu
hoặc.
Ta
đã
chinh
phục
tất
cả
các
bất
thiện
pháp.
Bởi
thế
này
Upaka,
ta
là
một
đấng
chiến
thắng.
C4=P4:
C
:
Ta
đi
đến
thành
Ba
La
Nại
để
gióng
lên
tiếng
trống
cam
lồ
toàn
hảo,
để
quay
bánh
xe
pháp
chưa
từng
quay
trên
thế
gian
này.
P:
Ta
đi
đến
đô
thị
Kàsì
để
quay
bánh
xe
pháp,
đánh
trống
bất
tử
trong
thế
gian
bị
mù
lòa.
Khi
ấy
Yuto
nói:
"Hiền
giả,
mong
được
là
như
vậy."
Nói
xong
anh
ta
bỏ
đi
qua
một
ngỏ
rẽ.
h)
Cảm
hóa
năm
Tỳ-kheo:
C:(75a,
14-20;
74b,
1-5):
"Khi
ấy
ta
tự
mình
đi
đến
trú
xứ
của
chư
thiên
ở
trong
vườn
Nai.
Vào
lúc
ấy
năm
Tỳ-kheo
khi
trông
thấy
ta
từ
xa,
đã
làm
quyết
định
như
sau:
'Chư
hiền
nên
biết,
Sa-môn
Cù
Đàm
đang
đi
đến,
người
này
đầy
dục
vọng,
đầy
khao
khát,
ăn
uống
xa
xỉ,
ưa
thích
cơm
chiên
và
gia
vị,
mật,
dùng
dầu
mè
để
thoa
chà
thân
thể.
Nay
ông
ta
lại
đến.
Chư
hiền
hãy
ngồi
yên
đừng
đứng
dậy
chào
hỏi,
cũng
không
đảnh
lễ
ông
ta.
Một
chỗ
ngồi
được
soạn
riêng
cho
ông
ta,
nhưng
đừng
mời
ông
ta
ngồi
xuống.
Khi
ông
ta
đi
đến
thì
nên
nói:
'Nếu
muốn
ngồi
thì
cứ
ngồi.'
Khi
ta
đến
trú
xứ
của
năm
Tỳ-kheo,
năm
vị
Tỳ-kheo
không
thể
chịu
nổi
uy
lực
của
công
đức
ta.
Họ
đứng
dậy
khỏi
chỗ
ngồi.
Người
thì
cầm
lấy
bát
của
ta,
người
trải
tọa
cụ,
người
thì
bưng
nước
cho
ta
rửa
chân.
Khi
ấy
ta
nghĩ:
'Tại
sao
những
người
ngu
này
không
giữ
vững
ý
định
của
mình
mà
lại
làm
trái
với
những
gì
trước
đây
chúng
đã
quyết
định?'
Khi
ấy
năm
Tỳ-kheo
gọi
ta
bằng
tộc
tánh
và
danh
từ
"Tôn
giả".
Ta
bảo
họ:
'Hỡi
năm
Tỳ-kheo,
ta
là
Như
lai
đã
hoàn
toàn
giải
thoát
và
giác
ngộ.
Các
ngươi
không
nên
gọi
ta
bằng
tộc
tánh
và
bằng
danh
từ
Tôn
giả.
Tại
sao?
Vì
ta
đã
đi
tìm
cái
không
bệnh...
tri
kiến
của
ta
chân
thật.'
Họ
nói
với
ta:
'Thưa
Cồ
Đàm,
trước
đây
Ngài
đã
sống
một
cuộc
đời
như
vậy,
đã
tu
hành
phạm
hạnh
như
vậy,
trải
qua
khổ
hạnh
như
vậy
mà
Ngài
đã
không
thể
đạt
được
những
pháp
thù
thắng
thuộc
thế
gian
thấp
kém
hơn
tri
kiến
bậc
thánh.
Thế
thì
làm
sao
bây
giờ
Ngài
có
thể
đạt
được,
khi
Ngài
đầy
những
dục
vọng
khao
khát;
ăn
đồ
ăn
thức
uống
sang
trọng,
thức
ăn
gạo
thơm
và
cơm
chiên
với
đồ
gia
vị,
mật,
dầu
mỡ,
dầu
mè
để
thoa
chà
thân
thể.'
Khi
ấy
ta
trả
lời
:
'Hỡi
năm
Tỳ-kheo,
ngày
xưa,
các
ông
có
thấy
ta
có
được
các
căn
thanh
tịnh,
chói
sáng
như
ta
hiện
giờ
hay
không?'
Năm
Tỳ-kheo
lại
đáp:
'Trước
đây
chúng
tôi
không
thấy
Ngài
có
các
căn
thanh
tịnh,
chói
sáng.
Nhưng
thưa
Cồ
Đàm,
bây
giờ
các
căn
của
Ngài
thật
thanh
tịnh,
làn
da
Ngài
chói
sáng,
và
gương
mặt
Ngài
đầy
ánh
sáng.'
"
P:(171,
172,
173):
Gần
giống.
C:
đầy
dục
vọng,
đầy
khao
khát....
thoa
chà
thân
thể
=
P:
vị
ấy
sống
trong
sự
thừa
thãi,
đã
từ
bỏ
nỗ
lực
tinh
cần,
đã
trở
về
với
đời
sống
sung
mãn.
Bản
P
bỏ:
Khi
ấy
ta
nghĩ,
tại
sao
những
người
ngu
này
không
giữ
vững
ý
định
của
họ,
mà
làm
trái
lại
những
gì
trước
đấy
họ
đã
quyết
định.
Câu
trả
lời
của
đức
Phật
hơi
khác:
"Này
các
Tỳ-kheo,
đừng
gọi
Như
lai
bằng
tên,
hay
bằng
Tôn
giả.
Hỡi
các
Tỳ-kheo,
Như
lai
là
đấng
đã
hoàn
toàn
chân
chánh
giác
ngộ.
Hãy
nghe
kỹ,
cái
bất
tử
đã
được
tìm
thấy.
Ta
sẽ
giáo
giới,
giảng
pháp,
nếu
các
ông
thực
hành
phù
hợp
với
những
gì
ta
khuyến
cáo
thì
không
bao
lâu
các
ông
sẽ
thấy
được,
chứng
đạt
được
ngay
hiện
tại
và
an
trú
trong
mục
đích
tối
thượng
của
đời
sống
phạm
hạnh,
vì
mục
đích
ấy
mà
những
thiện
gia
nam
tử
đã
chân
chánh
từ
bỏ
gia
đình
sống
không
gia
đình."
C:
Thế
thì
làm
sao
nay
ngài
có
thể
đạt
được
khi
bây
giờ
ngài
sống
đầy
đủ
sung
túc...
thoa
chà
thân
thể?
=P:
Bây
giờ
Ngài
sống
trong
sự
sung
túc,
đã
từ
bỏ
nỗ
lực
tinh
cần,
đã
trở
về
với
đời
sống
sung
túc,
thì
làm
sao
Ngài
đạt
được
pháp
tối
thượng,
tri
kiến
chân
chính
đặc
biệt
của
bậc
thánh?
C:
Khi
ấy
ta
trả
lời:
"Hỡi
năm
Tỳ-kheo,
ngày
xưa
các
ông
có
thấy
ta
có
được
căn
thanh
tịnh,
đầy
ánh
sáng"=P:
không
giống.
Trước
hết
Ngài
phủ
nhận
đã
sống
một
đời
sung
mãn,
đã
từ
bỏ
nỗ
lực
như
năm
vị
Tỳ-kheo
cáo
buộc.
Rồi
Ngài
dạy
rằng
Ngài
là
Như
lai,
đã
hoàn
toàn
giác
ngộ...
vì
mục
đích
ấy
mà
những
thiện
gia
nam
tử
đã
chân
chánh
từ
bỏ
gia
đình
sống
không
gia
đình.
Năm
vị
Tỳ-kheo
lập
lại
lời
cáo
buộc
của
họ
ba
lần.
Rồi
Ngài
hỏi
năm
vị
Tỳ-kheo
họ
có
nghe
Ngài
nói
như
vậy
trước
kia
không.
Khi
họ
trả
lời
không,
Ngài
lập
lại
một
lần
nữa
lời
nói
trước,
và
cuối
cùng
thuyết
phục
được
các
Tỳ-kheo.
i)
Phật
thuyết
pháp
cho
năm
Tỳ-kheo:
C:(75b,
5-10)
:
"Này
hỡi
năm
Tỳ-kheo,
các
người
nên
biết:
Có
hai
cực
đoan
mà
những
người
tu
hành
không
nên
theo,
một
là
đam
mê
dục
lạc
thấp
kém,
tầm
thường,
như
người
thế
tục
thường
làm;
hai
là
ép
xác
khổ
hạnh,
tự
hành
khổ,
điều
mà
các
bậc
hiền
thánh
không
làm,
điều
không
có
ý
nghĩa
(lợi
lạc).
Này
năm
Tỳ-kheo,
có
con
đường
trung
đạo
tránh
xa
hai
cực
đoan
này,
con
đường
này
sẽ
đem
lại
tri
kiến,
trí
tuệ,
sự
tập
trung,
sự
làm
chủ
hoàn
toàn,
đưa
đến
tri
kiến,
giác
ngộ,
Niết-bàn.
Con
đường
này
gọi
là
Thánh
đạo,
từ
chánh
kiến
cho
đến
chánh
định.
Đây
gọi
là
Thánh
đạo
tám
ngành.
Bây
giờ
ta
muốn
tuần
tự
giảng
dạy
năm
Tỳ-kheo.
Ta
dạy
hai
Tỳ-kheo,
ba
vị
kia
đi
khất
thực
về
đủ
ăn
cho
cả
sáu
người.
Rồi
ta
giảng
dạy
cho
ba
Tỳ-kheo,
hai
vị
kia
đi
khất
thực,
đủ
ăn
cho
cả
sáu.
Như
vậy
ta
đã
giáo
giới
chúng,
cải
hóa
chúng,
đi
tìm
cái
bất
tử...
Họ
đã
đạt
đến
tri
kiến
chân
thực."
P:(173,
2-20):
Không
có
sự
bắt
đầu
của
việc
chuyển
pháp
luân
trong
bản
P.
Phần
còn
lại
cũng
giống
nhau.
2.
Những
đặc
tướng
của
đức
Phật:
Trong
NC78,
bản
C
kể
ra
24
đức
tính
kỳ
diệu
của
đức
Phật,
nhưng
bản
P
chỉ
kể
19.
Các
đức
tính
tương
đương
trong
hai
bản
như
sau:
C2=P1;
C3=P3;
C4=P4
và
P5;
C8=P19;
C10=P16;
C11=P15;
C12=P18;
C14=P17.
Bản
P
bỏ:
C1,
C5,
C6,
C7,
C9,
C13,
C15,
C16,
C17,
C18,
C19,
C20,
C21,
C22,
C23,
C24.
Bản
C
bỏ:
P2,
P6,
P7,
P8,
P9,
P10,
P11,
P12,
P13,
P14.
C1=P
không
có:
C32:
Tôi
(Tôn
giả
A
Nan)
nghe
vào
thời
Phật
Ca
Diếp,
Thế
Tôn
đã
phát
nguyện
thành
Phật
và
khởi
sự
tu
phạm
hạnh.
Điều
này
tôi
chấp
nhận
là
một
trong
những
đức
tính
kỳ
diệu
của
Thế
Tôn.
C2=P1:
C:
(43b,9):
Tôi
nghe
rằng
vào
thời
đức
Phật
Ca
Diếp,
đức
Thế
Tôn
sau
khi
đã
phát
nguyện
thành
Phật
và
tu
phạm
hạnh,
đã
sinh
vào
cõi
trời
Đâu
Suất.
Điều
này
tôi
chấp
nhận
là
một
đức
tính
kỳ
diệu
của
Thế
Tôn.
P123:
Tôn
giả
A
Nan
nói
rằng,
ngài
đã
nghe
và
đã
được
biết
trực
tiếp
từ
nơi
đức
Thế
Tôn
rằng
Bồ-tát
sinh
trong
cõi
trời
Đâu
Suất,
chánh
niệm
và
hoàn
toàn
tỉnh
giác.
Điều
này
ngài
xem
là
một
đức
tính
kỳ
diệu
của
Thế
Tôn.
Nhận
xét:
Bản
P
bỏ
không
nói
đến
Phật
Ca
Diếp.
Các
truyền
thống
thường
nói
rằng
Phật
phát
nguyện
với
đức
Phật
Nhiên
Đăng.
Ở
đây
bản
C
bỏ
danh
từ
Bồ-tát.
C3=P3:
C:(44a,
2-6):
Những
lời
của
Tôn
giả
A
Nan
giống
nhau
trong
tất
cả
những
đức
tính
kỳ
diệu,
chỉ
khác
về
đề
mục.
Ở
đây
có
nói
đến
sự
vui
mừng
của
chư
thiên
vì
sau
khi
đức
Phật
sinh
vào
cõi
trờiĐâu
Suất,
thì
có
ba
việc
thù
thắng
hơn
trước
khi
Ngài
sinh:
thọ
mạng
của
chư
thiên,
dung
sắc
của
chư
thiên,
tiếng
tăm
của
chư
thiên.
P:(119):
Chỉ
nói
Bồ-tát
ở
trong
cung
trời
Đâu
Suất
cho
đến
hết
thọ
mạng.
C4=P4
và
P5:
C:
(44a,
6-11):
Khi
đức
Thế
Tôn
từ
cung
trời
Đâu
Suất
đi
vào
mẫu
thai
thì
toàn
thể
trời
đất
rung
chuyển
và
một
luồng
ánh
sáng
chói
lọi
chiếu
khắp
thế
gian,
đến
tận
những
góc
u
tối.
Những
nơi
mà
mặt
trời
mặt
trăng
mặc
dù
có
đại
oai
thần
lực
cũng
không
chiếu
tới,
thì
ánh
sáng
này
chiếu
đến
được.
Chúng
sinh
ở
những
nơi
ấy
nhờ
ánh
sáng
này
mà
biết
được
rằng
đã
có
những
chúng
sinh
kỳ
diệu
được
tái
sinh
tại
đấy.
P:
(119):
Gần
giống.
Trong
P4,
Bồ-tát
chánh
niệm
tỉnh
giác,
từ
cung
trời
Đâu
Suất
đi
xuống
nhập
mẫu
thai.
Trong
P5,
nói
đến
sự
xuất
hiện
của
ánh
sáng
quang
vinh
này.
Ở
đây
bản
P
thêm
rằng,
ánh
sáng
chói
lọi
này
vượt
hơn
cả
quy
luật
của
chư
thiên.
C:
khắp
thế
giới
=
P:
xuất
hiện
trong
thế
giới
với
chư
thiên,
ma,
phạm,
Sa-môn,
Bà-la-môn,
trời,
người.
Bản
P
thêm
rằng,
10,000
thế
giới
hệ
rung
chuyển.
C5=P
không
có:
C:(44a,
11-12):
Đức
Thế
Tôn
ở
trong
mẫu
thai
nằm
nghiêng
bên
hông
phải.
C6=P
không
có:
C:(44a,
12):
Ở
trong
mẫu
thai,
đức
Thế
Tôn
có
thân
hình
duỗi
ra.
C:7=P
không
có:
C:(44a,
12-14):
Trong
mẫu
thai,
đức
Thế
Tôn
không
bị
dính
máu
mủ
và
các
chất
dơ
dáy.
C8=P19:
C:
(44a,
14-18):
Khi
đức
Thế
Tôn
ra
khỏi
mẫu
thai,
thì
có
sự
chấn
động
và
ánh
sáng
chói
chang
(như
trong
C4).
P:
(123):
Như
số
4
trên,
cũng
những
khác
biệt
như
vậy.
C9=P
không
có:
C:
(44a,
18-19):
Đức
Thế
Tôn
ra
khỏi
mẫu
thai
với
thân
thể
duỗi
ra.
C10=P16:
C:
(44a,
19-20):
Khi
ra
khỏi
mẫu
thai,
Ngài
không
bị
dính
máu
mủ
và
những
chất
dơ.
P:
(122):
Gần
giống.
Bản
P
thêm
ẩn
dụ
một
viên
ngọc
minh
châu
đặt
trên
hàng
Ba
La
Nại.
Cả
hai
đều
trong
sáng,
không
vấy
bẩn.
C11=P15:
C:(44a,
20):
Khi
đức
Thế
Tôn
sinh
ra,
có
bốn
vị
thiên
vương,
tay
cầm
vải
mềm
đứng
trước
mặt
người
mẹ,
làm
cho
bà
vui
mừng
với
lời
rằng
hài
nhi
thật
tuyệt
diệu,
có
đại
oai
thần
lực,
có
sức
mạnh
và
công
đức
lớn.
P122
:
Gần
giống,
thêm
rằng:
Bồ-tát
không
chạm
đất.
Bỏ:
Với
vải
mềm
trong
tay.
Trong
khi
bản
C
nói
bốn
vị
thiên
vương
đứng
trước
mặt
bà
mẹ,
bản
P
nói
bốn
vị
thiên
đặt
Bồ-tát
trước
mặt
bà
mẹ.
C:
Một
đứa
trẻ
kỳ
diệu
có
đại
oai
thần
lực
...=
P:
Hài
nhi
mà
bà
sinh
ra
đầy
oai
lực.
C12=P18:
C:
(44b,2-4):
Khi
đức
Thế
Tôn
vừa
mới
sinh,
Ngài
đã
đi
bảy
bước,
dạn
dĩ,
vô
úy,
và
đi
khắp
bốn
phương.
P:
(123):
Với
nhiều
chi
tiết
hơn.
Trong
khi
Ngài
đi
bảy
bước,
một
chiếc
lọng
trắng
được
trao
cho
Ngài,
và
Ngài
tuyên
bố
với
giọng
nói
của
một
ngưu
vương
rằng
Ngài
là
chúa
tể
tối
thượng
trong
tất
cả
thế
gian.
Đây
là
đời
sống
cuối
cùng
của
Ngài,
không
còn
hữu
nào
khác.
Bản
P
thêm:
đứng
trên
hai
chân
vững
vàng,
mặt
hướng
về
phương
bắc.
C13=P
không
có:
C:
(44b,4-5):
Khi
đức
Thế
Tôn
được
sinh
ra,
có
một
cái
hồ
lớn
hiện
ra
trước
mặt
bà
mẹ
với
nước
tràn
bờ
để
cho
bà
có
thể
dùng
để
tắm
rửa.
C14=P17:
C:
(44b,5-6):
Khi
đức
Thế
Tôn
vừa
sinh
ra,
trời
mưa
xuống
hai
dòng
nước,
một
ấm
một
lạnh,
để
tắm
rửa
thân
thể
đức
Thế
Tôn.
P:
(123):
Gần
giống.
Nó
thêm
rằng
nước
ấy
dùng
để
tắm
rửa
cho
cả
bà
mẹ.
C15=P
không
có:
C:
(44b,6-9):
Khi
đức
Thế
Tôn
vừa
sinh
ra,
chư
thiên
trên
trời
trỗi
thiên
nhạc
và
rải
trên
đức
Thế
Tôn
những
hoa
sen
xanh
của
cõi
trời,
sen
hồng,
sen
đỏ,
sen
trắng,
những
hoa
mạn
đà
la
và
bột
trầm
hương.
C16=P
không
có:
C:
(44b,9-14):
Một
ngày
kia
vua
Bạch
Tịnh
đang
ngắm
cảnh
cày
bừa
và
đức
Thế
Tôn
được
đặt
dưới
gốc
cây
Diêm
phù;
đức
Thế
Tôn
nhập
sơ
thiền
ly
dục
ly
bất
thiện
pháp,
với
tầm
với
tứ,
với
hỷ
lạc
do
ly
dục
sanh.
Về
chiều,
bóng
cây
Diêm
phù
vẫn
bất
động
trên
lưng
đức
Thế
Tôn,
che
nắng
cho
Ngài.
Khi
đức
vua
đi
tìm
con
đã
chứng
kiến
phép
lạ
này
của
cây
Diêm
phù
và
thốt
lên
lời
tán
thán.
C17=
P
không
có:
C:
(44b,14-19):
Một
ngày
kia
tại
Tỳ
Xá
Ly,
đức
Thế
Tôn
sau
khi
khất
thực
ăn
xong,
để
tọa
cụ
lên
vai
đi
vào
rừng,
đến
cây
Tà
la
trải
tọa
cụ
ngồi
thiền,
về
chiều
bóng
của
tất
cả
các
cây
khác
đã
di
chuyển,
nhưng
bóng
cây
Ta
la
vẫn
bất
động
trên
thân
Thế
Tôn,
che
cho
người.
Một
Ngài
dòng
họ
Thích
Ca
tên
là
Mahayana
đi
vào
rừng,
chứng
kiến
phép
lạ
ấy
của
cây
Tà
la.
Thật
kỳ
diệu
thay.
C18=P
không
có:
C:
(44b,19-20):
Một
thời
đức
Thế
Tôn
ở
tại
Tỳ
Xá
Ly
trong
khu
rừng
lớn.
Vào
lúc
ấy
các
Tỳ-kheo
đặt
bát
khất
thực
của
họ
ra
giữa
trời.
Một
con
khỉ
đi
đến
lấy
bình
bát
của
Thế
Tôn
đi
mất.
Các
Tỳ-kheo
muốn
ngăn
khỉ
lại
vì
sợ
bát
bị
bể,
nhưng
đức
Thế
Tôn
bảo
họ
đừng
lo.
Con
khỉ
cầm
bát,
từ
từ
leo
lên
một
cây
cao,
chứa
một
bát
đầy
mật,
rồi
từ
từ
leo
xuống
dâng
bát
mật
ấy
cho
đức
Thế
Tôn,
nhưng
Ngài
từ
chối.
Rồi
con
khỉ
lấy
một
cây
gậy
bắt
hết
những
con
sâu
trong
mật,
và
dâng
đức
Thế
Tôn
nhưng
Ngài
cũng
từ
chối.
Khi
ấy
con
khỉ
đổ
thêm
nước
vào
trong
mật
và
dâng
đức
Thế
Tôn,
bấy
giờ
Ngài
mới
nhận
của
cúng
dường.
C19=P
không
có:
P:
(45a,14-7):
Một
thời
tại
Tỳ
Xá
Ly
trên
bờ
sông
Di
Hầu,
đức
Thế
Tôn
đang
phơi
khô
chiếc
tọa
cụ
và
giũ
sạch
nó
trên
sân
thượng
của
một
tòa
lầu.
Vào
lúc
ấy,
có
một
đám
mây
bất
thường
kéo
đến
bao
phủ
bầu
trời
sắp
đổ
xuống
một
trận
mưa
lớn.
Nhưng
đám
mây
thấy
đức
Thế
Tôn
đang
đập
phơi
chiếc
tọa
cụ
của
Ngài,
nó
dừng
lại
và
đợi
đức
Thế
Tôn
làm
xong.
Khi
ấy
đám
mây
mới
đổ
mưa
xuống
tràn
đầy
những
bậc
cấp
bên
dưới.
C20=P
không
có:
C:
(45a,17-10):
Một
thời
đức
Thế
Tôn
ở
Po-chi,
trong
rừng
suối
nước
nóng,
ngồi
dưới
gốc
một
cây
Sa
la
vương.
Vào
lúc
ấy
đang
xế
chiều,
bóng
của
tất
cả
cây
khác
đều
di
chuyển,
nhưng
bóng
cây
Sa
la
vương
không
di
chuyển
khỏi
chỗ
ngồi
của
đức
Thế
Tôn.
Người
chủ
vườn
Lama
chứng
kiến
phép
lạ
này
nên
thốt
lên
những
lời
tán
thán
việc
hiếm
có.
C21=P
không
có:
C:(45a,11-17)
:
Một
thời
đức
Thế
Tôn
ở
lại
nhà
của
A-fu-sheng.
Sau
khi
đi
khất
thực
về
ăn
xong
và
thu
dọn
y
bát,
Ngài
trải
tọa
cụ
ngồi
thiền
trong
nhà
A-fu-sheng.
Lúc
ấy
có
một
tiếng
sét
lớn
và
một
trận
mưa
đá
đổ
xuống
giết
chết
hai
người
trong
bốn
người
đang
cày
ruộng.
Trong
lễ
hỏa
táng,
mọi
người
kêu
khóc
lớn
tiếng.
Buổi
chiều
khi
đức
Thế
Tôn
ra
khỏi
thiền
định,
đi
kinh
hành
lui
tới
ngoài
trời,
có
một
người
trông
thấy
Ngài
đang
kinh
hành
lui
tới
liền
đến
đảnh
lễ
và
theo
sau
Ngài.
Đức
Thế
Tôn
hỏi
anh
ta
nguyên
nhân
tiếng
ồn
và
huyên
náo
lớn.
Người
ấy
thuật
lại
câu
chuyện
cho
đức
Thế
Tôn
và
hết
sức
ngạc
nhiên
về
sự
thiền
định
sâu
xa
của
Ngài
đã
không
nghe
thấy
cũng
không
bị
dao
động
bởi
tất
cả
sự
ồn
ào,
dao
động
ấy.
C22=P
không
có:
C:
(45a,17-19):
Một
thời
đức
Thế
Tôn
đang
ở
Uruvelà,
bên
bờ
sông
Ni
Liên,
dưới
gốc
cây
Ni
câu
loại,
nơi
Ngài
vừa
đạt
giác
ngộ.
Vào
lúc
ấy
có
một
trận
mưa
lớn
kéo
dài
bảy
ngày,
làm
mọi
sự
đều
ngập
chìm
trong
nước.
Nhưng
khi
đức
Thế
Tôn
đi
ra
khoảng
trống
để
kinh
hành,
đất
trồi
lên
cho
Ngài
đi
lui
tới.
C23=P
không
có:
C:
(45a,19-20):
Ma
vương
đã
đi
theo
đức
Thế
Tôn
suốt
sáu
năm,
chờ
một
dịp
thuận
tiện
để
làm
hại
Ngài
nhưng
không
thể
được,
đã
kiệt
sức
và
bỏ
đi.
C24=P
không
có:
C:
(45b,1):
Đức
Thế
Tôn
trong
bảy
ngày
thực
tập
chánh
niệm
về
thân
không
gián
đoạn
(niệm
thân
hành
không
gián
đoạn).
Ngược
lại
có
đến
mười
trường
hợp,
bản
Pàli
có
nhưng
bản
Hoa
ngữ
không
có:
P2:
(119):
Bồ-tát
ở
trong
cung
trời
Đâu
Suất,
chánh
niệm
tỉnh
giác.
P6:
(120):
Khi
Bồ-tát
đi
vào
mẫu
thai,
có
bốn
vị
thiên
vương
xuống
canh
gác
ở
bốn
hướng
để
đề
phòng
người
và
phi
nhân
nhiễu
hại
Bồ-tát
và
mẹ
của
Ngài.
P7:
(120):
Khi
đức
Bồ-tát
đi
vào
mẫu
thai,
mẹ
Ngài
tự
nhiên
trở
nên
thánh
thiện,
không
phạm
vào
năm
giới
cấm
từ
sát
hại
cho
đến
uống
rượu.
P8:
(121):
Khi
Bồ-tát
nhập
mẫu
thai,
mẹ
Ngài
hưởng
thụ
năm
dục;
bà
được
vây
quanh
bằng
năm
thứ
dục
lạc.
P10:
(121):
Khi
Bồ-tát
ở
trong
thai
mẹ,
mẹ
Ngài
không
bị
ốm
đau,
sống
thoải
mái,
không
bị
nhọc
mệt.
Bà
thấy
trong
bụng
mình
vị
Bồ-tát
có
đầy
đủ
tay
chân,
có
các
căn
toàn
hảo.
Như
một
viên
minh
châu
khéo
giũa
thành
bảy
mặt,
được
xâu
bằng
một
sợi
chỉ
xanh
hay
vàng,
đỏ,
trắng,
cam,
xuyên
qua
viên
ngọc
ấy.
Một
người
có
mắt
sáng,
cầm
trong
tay
viên
ngọc
và
xem
xét,
thì
sẽ
thấy
rõ
ràng
viên
ngọc
với
sợi
chỉ
mỏng.
P11:
(122):
Mẹ
Bồ-tát
chết
bảy
ngày
sau
khi
Ngài
ra
đời,
và
bà
được
tái
sanh
lên
cõi
trời
Đâu
Suất.
P12:
(122):
Những
phụ
nữ
khác
mang
thai
chín
hoặc
mười
tháng
trước
khi
sinh
nở,
nhưng
mẹ
của
Bồ-tát
thì
luôn
luôn
mang
thai
đến
mười
tháng.
P13:
(122):
Các
phụ
nữ
khác
khi
lâm
bồn
ngồi
hoặc
nằm,
nhưng
mẹ
Bồ-tát
sinh
nở
trong
lúc
đứng.
P14:
(122):
Khi
Bồ-tát
ra
khỏi
mẫu
thai,
thì
chư
thiên
đón
nhận
Ngài
trước
hết
rồi
mới
đến
loài
người.
Một
đức
tính
kỳ
diệu
khác:
C:
(45b,1-3):
Rồi
đức
Thế
Tôn
bảo
Tôn
giả
A
Nan:
Ông
nên
xem
đây
cũng
là
một
điều
kỳ
diệu
nữa
về
đức
Như
lai.
Đức
Như
lai
biết
các
cảm
thọ
khi
chúng
khởi
lên,
khi
chúng
tồn
tại,
khi
chúng
chấm
dứt,
Ngài
luôn
luôn
biết
chúng.
Cũng
thế
với
các
tư
tưởng
và
nhận
thức.
Khi
ấy
Tôn
giả
A
Nan
chấp
nhận
điều
này
là
một
đức
tính
kỳ
diệu
khác
của
đức
Như
lai.
P:(124):
Gần
giống;
bản
P
bỏ:
"Ngài
luôn
luôn
biết
chúng".
Bản
P
đặt
"tưởng"
(sannà)
trước
"tầm"
(vitakka).
Nhận
xét:
Chúng
ta
để
ý
rằng
từ
ngữ
Bồ-tát
không
được
nhắc
đến
trong
bản
C.
Còn
bản
P
thì
dùng
từ
ngữ
này
để
chỉ
đức
Phật
khi
chưa
giác
ngộ.
Như
vậy
chúng
ta
có
thể
phỏng
đoán
rằng
danh
từ
Bồ-tát
đã
được
Thượng
tọa
bộ
đưa
vào
để
phản
đối
cách
giải
thích
danh
từ
này
của
các
nhà
Đại
thừa.
Chúng
ta
cũng
nhận
thấy
rằng
các
truyền
thống
về
sự
tích
đời
đức
Phật
và
những
đức
tính
kỳ
diệu
của
Ngài
không
giống
nhau
trong
hai
bản,
mỗi
bản
dường
như
xuất
xứ
từ
một
nguồn
khác
nhau
về
phương
diện
cuộc
đời
đức
Phật
và
những
đức
tính
kỳ
diệu
của
Ngài.
3.
10
danh
hiệu
Phật:
Trong
NC27,
10
danh
hiệu
của
đức
Phật
được
nói
đến.
Một
nghiên
cứu
tỷ
giảo
hai
bản
dịch
cho
thấy
những
tương
đồng
và
dị
biệt
sau:
C201:(vii,69a,1-2)=P38:
(i,267,13-16):
C:
Như
lai=P:
Tathàgàta.
C:
Vô
sở
trước=
P:
A-la-hán,
Araham.
C:
Đẳng
chánh
giác
(giác
ngộ
toàn
vẹn
và
chân
chính)
=
P:
Sammàsambuddho.
C:
Minh
hạnh
túc
(đủ
trí
tuệ
và
giới
hạnh)=
P:
Vijjàcaranasampanno.
C:
Thiện
thệ
(khéo
vượt
qua)=P:
Sugato.
C:
Thế
gian
giải
(người
hiểu
biết
thế
gian)
=
P:
Lokavidù.
C:
Vô
thượng
sĩ
(người
không
ai
sánh
bằng)=P:
Anuttaro.
C:
Đạo
pháp
ngự
(người
điều
phục
con
đường
và
pháp)=
P:
Purisadammasàrathi,
người
điều
phục
những
người
đáng
điều
phục.
C:
Thiên
nhân
sư
(thầy
của
người
và
trời)=
P:
Satthàdevamanussànam,
bậc
thầy
của
trời
người.
C:
Phật,
chúng
hộ
(người
che
chở
tất
cả)=
P:
Buddho,
Bhagavà,
Phật
Thế
Tôn.
Trong
Phật
học
đại
tự
điển,
10
danh
hiệu
Phật
được
kể
như
sau:
Như
lai,
A-la-hán,
Chánh
đẳng
giác,
Minh
hạnh
túc,
Thiện
thệ,
Thế
gian
giải,
Vô
thượng
sĩ,
Điều
ngự
trượng
phu,
Thiên
nhân
sư,
Phật,
Thế
Tôn.
Nếu
so
danh
sách
này
với
danh
sách
bản
P,
ta
không
thấy
gì
khác
nhau
ngoại
trừ
danh
hiệu
cuối
cùng.
Bản
S
viết
Phật,
Thế
Tôn
thay
thế
cho
bản
P:
Phật,
Bạt-
già-phạm
(Bhagavà).
Như
vậy
ta
có
thể
nói
rằng
trong
đoạn
này,
bản
C
với
danh
từ
Đạo
pháp
ngự
thay
cho
Điều
ngự
trượng
phu
của
bản
P
là
không
đúng
lắm
vì
đã
lầm
damya
với
Dhamma:
Pháp.
4.
32
đại
nhân
tướng:
Trong
NC60,
32
tướng
đại
nhân
được
đề
cập
đầy
đủ
và
ta
thấy
có
những
đồng
dị
sau
đây:
C
161=P91:
Những
đặc
tướng
tương
đương
trong
hai
bản
như
sau:
C1=P2;
C2=P4;
C3=P8;
C4=P7;
C5=P3;
C6=P14;
C7=P
6;
C8=P5;
C9=
P12;
C10=P13;
C11=P
không
có;
C12=P10;
C13=P19
C14=P15;
C15=P9;
C16=P11;
C17=P16;
C18=P17;
C19=P22;
C20=P20;
C21=P18;
C22=P23;
C23=P25;
C24=P26;
C25=P24;
C26=P21;
C27=P28;
C28=P27;
C29=
P30;
C30=P29;
C31=P32;
C32=P31.
C
11
không
có
trong
bản
P,
P1
không
có
trong
bản
C.
C1=P2:
C:
lòng
bàn
chân
xuất
hiện
một
bánh
xe
ngàn
căm
đầy
đủ
chi
tiết=P
thêm:
có
viền
và
trục
đủ
mọi
vẻ.
C2=P4:
C:
bàn
chân,
ngón
tay
dài
và
có
đầu
nhọn=P:
ngón
tay
dài.
C3=P8:
C:
bàn
chân
tròn
và
thẳng=P:
những
ống
chân
giống
như
chân
sơn
dương,
nghĩa
là
rất
thẳng.
C4=P7:
C:
gót
chân
và
mắt
cá
phần
sau
tròn
đầy,
bằng
phẳng
cả
hai
phía=P:
ussankhapàdo
(mắt
cá
nhô
ra).
C5=P3:
C:
hai
mắt
cá
chân
là
dung?
=
P:
àyatapanhi,
có
gót
chân
nhô
ra.
C6=P14:
C:
lông
xoăn
lên=P
thêm:
lông
xoăn
lên
có
màu
xanh,
cuộn
thành
những
vòng
tròn
về
phía
phải.
C7=P6:
C:
ngón
tay
ngón
chân
có
màng
lưới
như
con
ngỗng
chúa=P:
jàlahatthapàda,
tay
chân
có
màng
lưới.
Nhận
xét:
Cô
Horner
chọn
cách
giải
thích
của
Ngài
Buddhaghosa
rằng
chân
tay
cách
đều
nhau.
Nhưng
nghĩa
trong
bản
C
rất
rõ.
C8=P5:
C:
bàn
chân
bàn
tay
tuyệt
hảo,
mềm
mại
như
hoa
Đâu
la=
P:
tay
chân
mềm
mại.
(Tùla,
theo
Phật
học
Đại
từ
điển,
là
một
loại
bông
vải
rất
mềm).
C9=C12:
C:
da
láng,
mịn,
nước
và
bụi
không
thể
dính=P:
da
bóng,
mịn
màng,
nên
bụi
và
nước
không
thể
bám
vào
thân.
C10=P13:
C:
những
sợi
lông
tách
rời,
mỗi
lông
mọc
từ
một
lỗ
chân
lông.
Màu
lông
hơi
xanh
và
xoăn
về
phía
phải
như
hình
con
sò=P:
những
sợi
lông
tách
rời,
mỗi
lông
mọc
từ
một
lỗ
chân
lông.
C11=P
không
có:
C:
bắp
đùi
của
Ngài
đầy
đặn
như
con
nai
chúa.
C12=P
không
có:
C:
cái
bị
che
kín
giống
như
con
ngựa,
như
một
con
ngựa
chúa
giống
tốt=P:
cái
gì
được
che
kín
bằng
áo
quần
thì
được
bao
bằng
một
cái
bọc
(tướng
mã
âm
tàng).
C14=P15:
C:
thân
không
cong
quẹo=P:
một
thân
thể
thẳng
tắp
như
thân
chư
thiên.
C15=P9:
C:
thân
thể
không
con
quẹo,
khi
đứng
thẳng
bàn
tay
có
thể
sờ
đầu
gối=P:
đứng
thẳng
không
cúi
xuống,
Ngài
có
thể
dùng
hai
lòng
bàn
tay
xoa
và
sờ
hai
gối.
C16=P11:
C:
thân
thể
của
Ngài
có
màu
vàng
chói
như
màu
vàng
ròng
hơi
đỏ=P:
có
màu
vàng
ròng.
C17=P16:
C:
bảy
chỗ
đầy
đặn
là
hai
bàn
tay,
hai
bàn
chân,
hai
vai
và
cái
cổ=P:
sattussaddo
bảy
chỗ
có
bề
mặt
lồi.
C18=P17:
C:
phần
trên
thân
đầy
đặn
như
một
con
sư
tử=P:
sìhapubbaddhakàyo
(như
bản
C).
C19=P22:
C:
quai
hàm
như
sư
tử=P:
sìhahanu
(như
bản
C).
C20=P20.
C:
lưng
của
Ngài
bằng
và
thẳng=P:
samavattakkhandho,
có
vai
tròn.
C21=P18:
C:
phần
trên
của
hai
vai
tiếp
giáp
với
cổ
một
cách
đầy
đặn=P:
citantaramso
(lỗ
hổng
ở
vai
được
lấp
đầy).
C22=P23:
C:
Ngài
có
40
cái
răng=P:
cũng
vậy.
C23=P25:
C:
giữa
các
răng
không
có
khe
hở=P:
avivaradanto
(như
C)
C24=26:
C:
răng
trắng=P:
susukkadàtho,
răng
bóng
loáng.
C25=P24:
C:
răng
đầy
đủ=P:
samadanto,
răng
đều
đặn.
C26=P21:
C:
có
vị
giác
toàn
hảo=P:
rasaggasaggì
(như
C).
C27=P28:
C:
phạm
âm
của
Ngài
du
dương
như
tiếng
chim
ca
lăng
tần
già=
P:
brahmassaro
karavìkabhànì
(như
C).
C28=P27:
C:
lưỡi
rộng
và
dài,
từ
trong
miệng
thè
ra
có
thể
trùm
phủ
cả
mặt=P:
pahùtajìvho,
lưỡi
dài.
C29=P30:
C:
tuyến
nước
mắt
đầy
như
nơi
con
ngưu
vương
=
P:
gopakhumo,
lông
mi
của
Ngài
giống
như
lông
mi
của
bò
cái.
C30=P29:
C:
mắt
Ngài
có
màu
xanh
biếc
=P:
abhniiølanetto
(như
C).
C31=P32:
C:
đỉnh
đầu
nhô
ra,
cân
đối
và
tròn
tóc
xoay
về
trái
như
vỏ
sò=P:
unhìsasiso,
đầu
hình
như
có
giải
khăn
bịt.
C32=P31:
C:
giữa
hai
lông
mày
có
một
sợi
lông
trắng
mọc
xoay
về
bên
phải
=P:
unnà
bhamukantare
jàtà
odàtà
mudutùlasannibhà,
giữa
hai
lông
mày
có
một
sợi
lông
trắng
mịn
như
bông
vải.
P1=C
không
có:
Ngài
có
chân
bước
bằng
phẳng.
5.
Uy
nghi
của
đức
Phật:
Trong
NC60,
uy
nghi
của
đức
Phật
được
mô
tả.
Bản
C
tả
đức
Phật
đắp
y,
phủ
đầy
mình
bằng
tấm
y
khi
ra
khỏi
phòng,
khi
ra
khỏi
vườn,
khi
đi
đường
đến
làng
mạc,
khi
vào
làng,
trên
đường
làng,
vào
nhà,
sửa
soạn
ngồi
lên
giường,
khi
ngồi,
rửa
tay,
nhận
thực
phẩm,
ăn,
rửa
tay,
thuyết
tùy
hỷ
pháp,
đứng
lên
khỏi
chỗ,
đi
ra
khỏi
nhà,
trên
đường
ra
khỏi
làng,
vào
vườn
và
vào
nhà.
Bản
P
khởi
đầu
bằng
sự
đi
vào
nhà,
quay
về
phía
chỗ
ngồi,
rồi
ngồi
xuống,
lấy
nước
rửa
bát,
nhận
thức
ăn,
ngồi,
lấy
nước
rửa
bát,
giáo
giới,
đi
ra,
mặc
áo,
ngồi
thiền,
thuyết
pháp.
C161
=
P91:
a)
Mặc
y:
C:
Sa-môn
Cồ
Đàm
mặc
y
một
cách
thích
đáng,
không
cao
không
thấp,
y
không
dính
sát
vào
thân,
gió
không
thể
thổi
bay
cái
y
khỏi
thân
thể.
P:
Cũng
vậy.
Sau
câu
y
không
dính
sát
vào
thân,
bản
P
thêm:
tấm
y
không
bị
kéo
xa
khỏi
thân
Ngài.
Bản
P
thêm:
bụi
và
đất
không
dính
vào
thân
của
Sa-môn
Cồ
Đàm.
Về
câu:
gió
không
thể
thổi
cái
y
khỏi
thân,
cô
Horner
chọn
cách
đọc
của
bản
Thái
Lan
là
kayasmin
(nơi
thân)
thay
vì
kayamhà,
nhưng
bản
C
chứng
tỏ
đã
chọn
chữ
kayamhà
(khỏi
thân).
b)
Bao
phủ
bằng
tấm
y:
C:
Cũng
như
mặc
y.
Nó
thêm:
Sa-môn
Cồ
Đàm
khi
mặc
tấm
y
mới,
theo
thánh
cách,
cắt
nó
bằng
dao
và
nhuộm
màu
sẫm.
Ngài
mặc
y
không
vì
tiền,
vì
kiêu
căng,
không
để
tự
trang
sức;
mà
chỉ
để
bảo
vệ
thân
thể
khỏi
bị
muỗi
đốt,
ruồi,
gió,
ánh
nắng
mặt
trời,
và
vì
tàm
quý
mà
Ngài
che
thân.
P:
không
có.
c)
Ra
khỏi
phòng:
C:
Khi
Ngài
ra
khỏi
phòng,
thân
Ngài
không
cúi
về
phía
trước
hay
phía
sau.
Khi
muốn
đi,
trước
hết
Ngài
đặt
chân
phải
xuống,
giở
chân
lên
đúng
pháp,
đặt
chân
xuống
đúng
pháp,
không
lẫn
lộn,
không
mất
trật
tự.
Trong
khi
bước
đi,
hai
mắt
cá
không
chạm
vào
nhau.
Do
công
hạnh
đời
trước,
bụi
và
đất
không
bám
vào
Ngài.
P
bỏ:
Khi
Ngài
ra
khỏi
phòng,
thân
Ngài
không
cong
lên
phía
trên
hay
cúi
xuống
phía
dưới.
C:
Giở
lên
đúng
pháp,
đặt
xuống
đúng
pháp,
không
lẫn
lộn,
không
mất
trật
tự=
P:
Ngài
không
đặt
bàn
chân
quá
xa,
cũng
không
đặt
bàn
chân
quá
gần,
không
đi
quá
nhanh,
hoặc
quá
chậm.
Nó
thêm:
trong
khi
bước
đi
Ngài
không
gõ
hai
đầu
gối
vào
nhau,
bắp
vế
Ngài
không
đưa
lên
đưa
xuống,
hoặc
đưa
vào
đưa
ra,
Ngài
chỉ
di
động
phần
dưới
của
thân
thể,
chứ
không
di
động
toàn
thân.
d)
Ra
khỏi
vườn
và
đến
làng,
vào
làng:
C:
Khi
ra
khỏi
vườn,
Ngài
không
cong
thân
lên
hay
cúi
thân
xuống.
Khi
Ngài
đi
đến
làng,
Ngài
cũng
xoay
mình
về
phía
mặt
để
quan
sát
chung
quanh
như
một
con
voi
chúa
nhìn
quanh,
vô
úy,
giản
dị,
vì
Ngài
là
đức
Như
lai
chánh
đẳng
giác.
Khi
đi
vào
làng,
Ngài
không
ngước
lên
hay
cúi
xuống.
Khi
đang
đi
trên
những
đường
làng,
Ngài
không
cúi
xuống,
ngước
lên
mà
nhìn
thẳng
vừa
tầm
để
không
bị
chướng
ngại
cho
tri
kiến.
Do
công
hạnh
đời
trước,
các
căn
của
Sa-môn
Cồ
Đàm
luôn
luôn
tự
chủ.
P
bỏ:
Phật
ra
khỏi
vườn
và
đi
vào
làng.
Nó
nói:
Khi
đức
Gotama
nhìn
quanh,
Ngài
nhìn
với
toàn
thân,
không
nhìn
lên
nhìn
xuống,
không
đi
mà
không
để
ý
nhìn
trước
một
tầm
cày,
hơn
thế
nữa,
tri
kiến
của
Ngài
không
bị
chướng
ngại.
e)
Vào
nhà
và
ngồi
trên
chỗ
ngồi:
C:
Trong
khi
vào
nhà,
Ngài
không
ưỡn
thân
hay
cúi
xuống,
Ngài
xoay
thân
về
phía
phải
và
ngồi
trên
chỗ
ngồi
của
mình.
Ngài
không
ngồi
với
toàn
thể
sức
nặng
của
thân
thể,
Ngài
không
ngồi
với
hai
tay
chống
nạnh.
Trong
khi
ngồi
Ngài
không
có
vẻ
buồn
thảm
bất
an,
cũng
không
có
vẻ
sung
sướng.
P:
Khi
vào
nhà,
Ngài
không
ưỡn
thân,
cong
xuống,
xoay
qua
xoay
về.
Ngài
xoay
về
phía
chỗ
ngồi
không
quá
xa
hay
quá
gần.
Ngài
ngồi
xuống
chỗ,
không
đưa
tay
níu
lấy
chỗ
ngồi.
Ngài
không
ném
toàn
thân
xuống
ghế.
Ngài
không
ngồi
với
tay
chân
bất
an,
không
vắt
chân
chữ
ngũ,
chồng
hai
mắt
cá.
Ngài
không
ngồi
với
hai
tay
chống
cằm.
Trong
khi
ngồi
trong
nhà,
Ngài
luôn
luôn
có
thái
độ
vô
úy,
không
dao
động,
hướng
về
độc
cư.
f)
Nhận
nước
để
rửa
tay
chân
và
nhận
đồ
ăn:
C
:
Trong
khi
nhận
nước
rửa,
Ngài
không
đưa
bát
quá
cao,
quá
thấp,
không
nhận
quá
nhiều,
hay
quá
ít.
Khi
nhận
thức
ăn,
Ngài
không
nhận
từ
cao,
thấp,
quá
nhiều,
hay
quá
ít;
Ngài
nhận
thức
ăn
và
cơm
ngang
nhau.
Ngài
vo
tròn
thức
ăn
thành
từng
viên
đều
đặn,
đúng
pháp
và
từ
từ
bỏ
vào
miệng.
Ngài
không
há
miệng
sẵn
để
chờ
thức
ăn
vào.
Ngài
nhai
thức
ăn
ba
lần
trước
khi
nuốt
xuống.
Không
có
cơm
hay
thức
ăn
nào
chưa
được
nhai
kỹ.
Khi
còn
có
thức
ăn
trong
miệng,
Ngài
nuốt
xuống
trước
khi
bỏ
vào
một
viên
khác.
Do
ba
việc
mà
Sa-môn
Cồ
Đàm
dùng
tịnh
thực,
hy
vọng
thưởng
thức
vị
nhưng
không
hy
vọng
thưởng
thức
lòng
tham
vị,
ăn
không
vì
tài
sản
của
cải,
không
để
kiêu
căng,
không
để
tự
trang
sức,
trang
hoàng;
mà
chỉ
để
duy
trì
thân
thể
khỏi
bệnh,
để
ngăn
bệnh
cũ,
không
để
khởi
lên
bệnh
mới,
để
có
sức
khỏe
và
an
lạc.
P:
Trong
khi
nhận
nước
vào
bát,
Ngài
không
xoay
bát
lên
xuống,
xoay
vào
xoay
ra;
Ngài
nhận
nước
không
quá
ít,
không
quá
nhiều.
Ngài
không
rửa
bát
ồn
ào,
xoay
tròn
cái
bát,
Ngài
không
đặt
bát
trên
nền
để
rửa
tay.
Tay
và
bát
được
rửa
đồnglúc,
Ngài
không
đổ
nước
rửa
bát
quá
xa
hay
quá
gần,
Ngài
không
vung
vãi
nước.
Trong
khi
nhận
cơm,
Ngài
không
xoay
bát
lên
xuống
vào
ra.
Ngài
nhận
cơm
không
quá
nhiều
không
quá
ít.
Ngài
ăn
cà
ri
có
chừng
mực.
Ngài
không
quên
ăn
cơm
và
thức
ăn
đồng
một
lúc
với
mỗi
miếng
ăn.
Ngài
đảo
qua
lại
hai
ba
lần
đồ
ăn
trong
miệng
trước
khi
nuốt
xuống.
Không
có
một
hạt
cơm
nào
chưa
nhai
đã
nuốt.
Không
có
một
hạt
cơm
nào
còn
trong
miệng
đã
nuốt
một
miếng
cơm
khác.
Ngài
ăn
cháo,
thưởng
thức
vị
nhưng
không
có
lòng
tham
vị.
Sa-môn
Gotama
ăn
với
tám
đức
tính,
không
để
vui
đùa,
không
để
đam
mê,
không
để
trang
sức,
không
để
tự
làm
đẹp,
mà
chỉ
vừa
đủ
để
duy
trì
cơ
thể,
để
nó
tiếp
tục,
thoát
khỏi
nguy
hiểm,
và
để
hỗ
trợ
đời
sống
phạm
hạnh,
nghĩ
đến
diệt
trừ
cảm
thọ
cũ,
ngăn
sự
khởi
lên
những
cảm
thọ
mới,
và
như
vậy
sống
không
lỗi
lầm,
trú
trong
an
lạc.
g)
Nhận
nước
rửa
tay,
rửa
bát,
thuyết
pháp:
C:
Trong
khi
nhận
nước
rửa
tay,
rửa
bát,
Ngài
không
nhận
nó
quá
cao,
quá
thấp,
quá
nhiều,
quá
ít.
Tay
và
bát
được
rửa
và
lau
khô
đồng
lúc.
Sau
khi
rửa
và
lau
khô
bát,
Ngài
đặt
bát
một
bên,
không
quá
xa,
không
quá
gần,
không
nhìn
thường
xuyên
vào
cái
bát,
cũng
không
quá
săn
sóc
cái
bát.
Ngài
không
chê
thức
ăn,
không
khen
ngợi
thức
ăn
mà
giữ
im
lặng,
rồi
Ngài
thuyết
pháp
cho
các
gia
chủ,
làm
cho
họ
hoan
hỷ,
khích
lệ
họ,
khiến
họ
hài
lòng,
sử
dụng
nhiều
cách
để
thuyết
pháp.
Rồi
Ngài
ra
đi.
P:
Gần
giống
như
đoạn
P
ở
trước.
Nó
thêm:
Ngài
đặt
bát
xuống
không
quá
xa
không
quá
gần.
Không
phải
là
không
quan
tâm
gì
đến
cái
bát,
nhưng
cũng
không
quá
lo
cho
cái
bát,
Ngài
ngồi
im
lặng
một
lúc,
nhưng
không
để
thời
gian
qua
đi
mà
không
ban
lời
giáo
giới.
Khi
Ngài
thuyết
tùy
hỷ
pháp,
Ngài
không
chê
thực
phẩm,
không
hy
vọng
được
bữa
ăn
khác,
nhưng
làm
cho
hội
chúng
hoan
hỷ,
khích
lệ
làm
chúng
hài
lòng
với
một
câu
chuyện
về
pháp,
rồi
Ngài
đứng
dậy
khỏi
chỗ
ngồi
và
ra
đi.
h)
Ra
khỏi
nhà
đi
trên
đường
đến
làng
và
vào
làng:
C:
Khi
ra
khỏi
nhà,
Ngài
không
ưỡn
thân
lên
hay
cong
xuống.
Không
ngước
lên
mà
nhìn
thẳng,
đúng
pháp,
để
tri
kiến
không
bị
chướng
ngại.
Do
thiện
hành
đời
trước,
các
căn
của
Sa-môn
Cồ
Đàm
luôn
luôn
tịch
tịnh.
Khi
ra
khỏi
làng,
Ngài
không
ưỡn
thân
lên
hay
cong
xuống.
Khi
vào
làng,
Ngài
không
ưỡn
thân
lên
hay
cong
xuống.
P:
Chỉ
nói
rằng
khi
Sa-môn
Cồ
Đàm
ra
đi,
Ngài
không
bước
quá
nhanh
hay
quá
chậm,
Ngài
không
bước
đi
như
thể
muốn
thoát
khỏi
hội
chúng
ấy
cho
nhanh.
i)
Ngồi
thiền
và
giảng
pháp:
C:
Sau
khi
ăn
xong,
thu
dọn
y
bát,
sau
khi
rửa
tay
chân,
Ngài
đặt
tọa
cụ
lên
vai
và
đi
vào
phòng
để
ngồi
thiền.
Sa-môn
Cồ
Đàm
vì
an
lạc
cho
cả
thế
gian,
đi
vào
phòng
ngồi
thiền.
Rồi
buổi
chiều
Ngài
ra
khỏi
thiền
định
với
gương
mặt
rạng
rỡ
hào
quang,
vì
Ngài
là
đức
Như
lai,
bậc
giác
ngộ
hoàn
toàn
và
chân
chính.
Có
tám
loại
âm
thanh
phát
ra
từ
Sa-môn
Cồ
Đàm:
rất
sâu,
tỳ
ma
lâu
pha
(?),
đi
vào
tim,
khả
ái,
đầy
đặn,
linh
động,
trong
sáng,
có
trí
tuệ.
Nhiều
người
yêu
mến
giọng
nói
của
Ngài,
hài
lòng
với
nó,
nhớ
đến
nó
và
trở
nên
định
tĩnh.
Sa-môn
Cồ
Đàm
thuyết
pháp
cho
chúng
hội,
giọng
của
Ngài
không
vượt
ngoài
phạm
vi
của
hội
chúng
mà
ở
trong
phạm
vi
hội
chúng.
Ngài
thuyết
pháp
cho
hội
chúng
làm
cho
họ
vui
mừng,
khích
lệ,
hoan
hỷ,
sử
dụng
vô
số
cách
để
giảng
pháp.
Sau
khi
làm
cho
chúng
hội
vui
mừng,
khích
lệ,
hoan
hỷ,
Ngài
từ
chỗ
ngồi
đứng
dậy
và
trở
về
trú
xứ.
P:
Sau
khi
đi
đến
tu
viện,
Ngài
ngồi
trên
chỗ
đã
soạn
sẵn,
rửa
chân
không
phải
để
làm
đẹp,
sau
khi
rửa
chân
Ngài
ngồi
kiết
già
lưng
thẳng,
chánh
niệm
được
an
trú.
Ngài
không
nghĩ
đến
hại
mình,
hại
người,
hại
cả
hai,
mà
nghĩ
đến
lợi
mình,
lợi
người,
lợi
cả
hai.
Ngài
thuyết
pháp
cho
hội
chúng,
không
khen
không
chê,
mà
làm
cho
họ
hoan
hỷ,
khích
lệ
và
vui
mừng.
Giọng
nói
của
Ngài
có
tám
đức
tính,
rõ
ràng,
bao
trùm,
êm
ái,
dễ
nghe,
đầy
đặn,
trong
sáng,
sâu
xa,
và
vang
dội.
Trong
khi
giáo
giới
chúng
hội,
giọng
Ngài
không
vượt
ra
ngoài
phạm
vi
chúng
hội.
Những
người
này
khi
đạt
được
pháp
thoại
của
Tôn
giả
Cồ
Đàm
khích
lệ,
làm
cho
phấn
khởi,
hoan
hỷ,
đứng
dậy
rời
khỏi
chỗ
ngồi
và
ra
đi
một
cách
miễn
cưỡng,
mắt
vẫn
còn
nhìn
nơi
Ngài.
Nhận
xét:
Về
sự
tường
thuật
cuộc
đời
đức
Phật,
giữa
hai
bản
không
có
nhiều
dị
biệt,
ngoại
trừ
bản
C
nói
Ràmaputta
đã
chết
hai
tuần,
còn
bản
P
nói
chết
đêm
trước.
Về
các
điều
kỳ
diệu
của
Phật,
ta
thấy
nhiều
chỗ
khác
nhau,
nhất
là
về
cuộc
đời
của
Ngài
ở
cung
trời
Đâu
Suất,
trong
thai
mẹ
và
một
vài
thần
thông
trong
đời
này.
Những
dị
biệt
này
chứng
tỏ
hai
bản
tuân
theo
những
truyền
thống
khác
nhau.
Về
32
đặc
tướng
trên
thân
Phật
và
uy
nghi
của
Ngài
cũng
thế.
Còn
về
10
danh
hiệu,
thì
gần
giống
nhau
trong
cả
hai
bản.
---o0o---
Mục
lục | 1.1
| 1.2 | 2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4 | 2.5
| 2.6 | 2.7
| 3.1 | 3.2 | 3.3
| 3.4 | 3.5 | 3.6
| 4.1 | 4.2 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002