So sánh kinh Trung A-hàm
chữ Hán và
kinh Trung Bộ chữ Pàli
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya",
Ph.D. Thesis, Bihar University, India
---o0o---
Phần
Hai
NHỮNG
ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA
BẢN HÁN TẠNG VÀ BẢN PÀLI (65)
-ooOoo-
A. BẢN CHỮ HÁN (C)
I. Theo phẩm hay chương :
Trung a-hàm Hoa ngữ
(CMA) có 222 kinh phân loại thành 18 phẩm (vargas) như sau:
1.
Thất pháp phẩm : 10 kinh
(C: Ch'i-fa-p'in; P: Sattadhammavagga)
2.
Nghiệp tương ưng phẩm : 10 kinh
(C: Yeh-hsiang-ying-p'in; P: Kammasamyuttavagga)
3.
Xá-lợi-tử tương ưng phẩm : 11 kinh
(C: Shê-li-tzu-hsiang-ying-p'in; P: Sàriputtasamyuttav.)
4.
Vị tằng hữu pháp phẩm : 10 kinh
(C: Wei-ts'êng-yu-fa-p'in; P: Abhbhutadammavagga)
5.
Tập tương ưng phẩm : 16 kinh
(C: Hsi-hsiang-ying-p'in; P: Samudayasamyuttavagga)
6.
Vương tương ưng phẩm : 14 kinh
(C: Wang-hsiang-ying-p'in; P: Ràjasamyuttavagga)
7.
Trường thọ vương phẩm : 15 kinh
(C: Ch'ang-shou-wang-p'in; P: Dìghàyuràjavagga)
8.
Uế phẩm : 10 kinh
(C: Wei-p'in; P: Anganavagga)
9.
Nhân phẩm : 10 kinh
(C: Yin-p'in; P: Nidànavagga)
10.
Lâm phẩm : 10 kinh
(C: Lin-p'in; P: Vanavagga)
11.
Đại phẩm : 25 kinh
(C: Ta-p'in; P: Mahàvagga)
12.
Phạm chí phẩm : 20 kinh
(C: Fan-chih-p'in; P: Bràhamanavagga)
13.
Căn bản phân biệt phẩm : 10 kinh
(C: Kên-pên-fên-pieh-p'in; P: Mùlavibhangavagga)
14.
Tâm phẩm : 10 kinh
(C: Hsin-p'in; P: Cittavagga)
15.
Song phẩm : 10 kinh
(C: Shuang-p'in; P: Yamakavagga)
16.
Đại phẩm : 10 kinh
(C: Ta-p'in; P: Mahàvagga)
17.Bổ
lợi đa phẩm : 10 kinh
(C: Pu-li-to-p'in; P: Potaliyavagga)
18.
Lệ phẩm : 11 kinh
(C: Li-p'in; P: Samvidahanavagga)
------------------------------------------
Tổng
cộng : 222 kinh
Chương một, Thất
pháp phẩm (Ch'i-fa-p'in), có 10 kinh, được gọi như vậy
vì 10 kinh này đề cập bảy pháp (dharmas) như kinh C số
1, Thiện pháp kinh (Shan-fa-ching), bài kinh nói về các
việc phước đức, trong đó đức Phật dạy rằng Tỳ-kheo nào
có được bảy thiện pháp thì sẽ dứt các lậu hoặc, và Ngài
giải thích bảy thiện pháp ấy. Trong kinh C số 9, Thất xa
kinh (Ch'i-ch'ê-ching), bài kinh nói về bảy cỗ xe trong đó
đức Phật lấy ví dụ bảy cỗ xe tiếp vận để so sánh
với bảy giai đoạn tu tập của một vị Tỳ-kheo.
Chương hai, Nghiệp tương
ưng phẩm (Yeh-hsiang-yin-p'in), là nhóm kinh liên hệ đến
nghiệp (karma), được gọi như thế vì 10 kinh này đề
cập đến vấn đề nghiệp và quả. Như trong C11,Ví dụ hạt
muối (Yen-yu-ching), đức Phật giải thích rằng con người
sẽ gặt hái hậu quả tùy theo hành độâng của mình. Trong
kinh C 12, Hoà phaù (Ho-p'o-ching), nói về cuộc thảo
luận giữa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên (Ta-mu-chien-lien)
và một Ni kiền tử tên là Hòa Phá (Ho-p'o) về những
nghiệp đưa đến những đời sống tương lai trong một cõi
bất hạnh.
Chương ba, Xá-lợi-tử
tương ưng phẩm (Shê-li-tzu-hsiang-ying-p'in), là nhóm kinh
liên hệ Xá-lợi-tử (Shê-li-tzu) vì trong những kinh
thuộc nhóm này Tôn giả Xá Lợi Phất đóng vai trò chính. Như
trong kinh C 27, Phạm chí Đà nhiên kinh (Fan-chih-t'o-jan-ching),
Tôn giả Xá Lợi Phất giảng cho bà la môn Đà Nhiên (T'o-jan)
những nguy hiểm của sự làm các việc bất thiện. Trong kinh
C 26,Cù ni sư kinh (Chu-ni-shih-ching), Tôn giả Xá Lợi
Phất kể ra 13 học giới của một Tỳ-kheo.
Chương bốn, Vị
tằng hữu pháp phẩm (Wei-ts'êng-yu-fa-p'in), nói về
những việc kỳ diệu, vì những kinh thuộc nhóm này đề
cập những pháp kỳ diệu. Như trong kinh C 32,Vị tằng hữu pháp
kinh, Tôn giả A Nan kể ra 24 đức tính kỳ diệu của đức
Phật. Kinh C 33, Thị giả kinh (Shih-che-ching), đề cập
việc chọn Tôn giả A Nan làm thị giả của đức Phật và
việc Phật khen ngợi những đức tính đặc biệt của Tôn
giả A Nan.
Chương năm, Tập tương
ưng phẩm (Hsi-hsiang-p'in), nói về sự sinh khởi. Như
trong kinh C42, Hà nghĩa (Ho-i-ching), đức Phật giải thích
cho Tôn giả A Nan sự sinh khởi lệ thuộc lẫn nhau của các
pháp, từ việc giữ giới cho đến giải thoát tri kiến. Trong
kinh C 44,Niệm kinh (Nien-ching), đức Phật giảng sự sinh
khởi của các pháp kế tiếp nhau, bắt đầu từ sự thất
niệm của một Tỳ-kheo dẫn đến sự không đạt được chánh
trí và cuối cùng đưa đến sự không chứng Niết-bàn (Nirvàna).
Chương sáu, Vương tương
ưng phẩm (Wang-hsiang-ying-p'in), gồm các kinh nói đến
vua. Như trong kinh C 64, Thiên sưù (T'ien-shih-ching), kinh nói
về sứ giả nhà trời, Diêm Vương (C: Ya-no; P: Yama)
nói đến năm sứ giả của trời báo hiệu cho người ta sự
già chết đang đến để thúc giục họ bắt đầu học pháp.
Kinh C 62,Tần bệ sa la vương nghênh Phật kinh (P'in-pi-so-lo-wang-ying-fo-ching),
kể chuyện vua tiếp đón đức Phật khi Phật đến thăm ông
ta.
Chương bảy, Trường
thọ vương phẩm (Ch'ang-shou-wang-p'in), nói về vua Trường
Thọ, có tên như vậy bởi vì bản kinh đầu tiên của nó,
C72,Trường thọ vương bản ký kinh (Ch'ang-shou-wang-pên-chi-ching),
nói về đời trước của vua Trường Thọ. Kinh C 75,Tịnh
bất động đạo (Ching-pu-tung-tao-ching), nói về đường
lối của sự bất động hoàn toàn, đức Phật giảng cho Tôn
giả A Nan trạng thái hoàn toàn bất động mà một Tỳ-kheo
tinh cần tu tập sẽ đạt được.
Chương tám, Uế
phẩm (Wei-p'in), được gọi như vậy vì các kinh trong
phẩm này đề cập những lỗi lầm làm ô nhiễm tâm. Như
trong kinh C 87, Uế phẩm, Tôn giả Xá-lợi-tử mô tả
bốn hạng người có cấu uế và không cấu uế. Trong kinh C
88,Cầu Pháp kinh (Ch'iu-fa-ching), đức Phật khuyến cáo các
Tỳ-kheo hãy làm những người thừa tự pháp, đừng làm kẻ
thừa tự ăn uống.
Chương chín, Nhân
phẩm (Yin-p'in), đề cập chính yếu đến nguyên nhân.
Như trong kinh C 97,Đại nhân (Ta-yin-ching), đức Phật
giải thích cho Tôn giả A Nan lý duyên sinh. Trong kinh C 106, Tưởng
kinh (Hsiang-ching), đức Phật giải thích cho các Tỳ-kheo
những thái độ khác nhau của các hạng người đối với các
pháp, nguyên nhân định đoạt các thái độ ấy, và mức độ
giải thoát của họ do những thái độ này.
Chương mười, Lâm
phẩm (Lin-p'in), quy tụ những kinh nói về đời sống
ở rừng. Như kinh đầu tiên C 107, Lâm kinh (Lin-ching-ti-i),
đức Phật khuyên các Tỳ-kheo nên ở rừng để có được chánh
niệm, định, giải thoát, diệt trừ lậu hoặc và đạt đến
Niết-bàn. Trong Lâm kinh kế tiếp (Lin-ching-ti-êrh), C
108, đức Phật khuyên các Tỳ-kheo ở rừng để có thể đạt
đến mục đích của Sa-môn hạnh và dễ có được những
vật cần dùng cho đời sống.
Chương mười một,
Đại phẩm (Ta-p'in), gồm đến 25 kinh, có lẽ gọi
"đại" vì số lượng kinh khá lớn. Trong kinh C 117,
Nhu nhuyến kinh (Jou-juan-ching), đức Phật kể lại đời
sống xa hoa của mình trước kia ở trong cung điện, Ngài
ngồi dưới cây Jambu, đắc sơ thiền và sự thiền tư
của Ngài về các pháp của những người ngu và pháp của riêng
Ngài trong ánh sáng của thiền định ấy. Trong kinh C 131,Hàng
ma (Hsiang-mo-ching) , Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đối
trị ma (Màra) quấy nhiễu và cuối cùng đã xua đuổi
được ma vương.
Chương mười hai,
Phạm chí phẩm (Fan-chih-p'in), có tên như vậy vì những
kinh trong phần này đề cập về những bà la môn (bràhmanas).
KinhToán số Mục-kiền-liên (Suan-shu-mu-chien-lien-ching), C
144, nói về bà la môn Toán số Mục Kiên Liên hỏi Phật về
lối dạy tuần tự trong pháp luật (Dharma-vinaya) của Ngài.
Trong kinh C 145, Cù mặc Mục-kiền-liên kinh (Ch'u-mê-mu-chien-lien-ching),
Tôn giả A Nan nói chuyện với bà la môn này về những pháp
điều phục tăng chúng sau khi đức Phật nhập diệt, khiến tăng
già có thể duy trì sự thống nhất.
Chương mười ba, Căn
bản phân biệt phẩm (Kên-pên-fên-pieh-p'in), phần lớn
đề cập sự phân tích các pháp khác nhau. Như kinh C162, Phân
biệt lục giới (Fên-pieh-liu-chieh-ching), đức Phật nói
về sự phân tích sáu giới. Trong kinh C 163, Phân biệt lục
xứ kinh (Fên-pieh-liu-ch'u-ching), đức Phật phân tích sáu
xứ hay phạm vi của sáu giác quan.
Chương mười bốn,
Tâm phẩm (Hsin-p'in), mượn tên kinh đầu tiên trong nhóm
là C 172,Tâm kinh (Hsin-ching), trong đó đức Phật giải
thích sự dao động của tâm trên bậc hữu học và vô học.
Cũng trong phần này, kinh C 173, Phù di kinh (Fou-mi-ching), đề
cập lý thuyết cho rằng nếu một người sống đời phạm
hạnh với quyết tâm hoặc không, với cả hai hoặc không cả
hai, người ấy chắc chắn được quả báo.
Chương mười lăm,
Song phẩm (Shuang-p'in), có tên ấy do các kinh được nhóm
thành đôi có cùng một nhan đề, như kinhMã ấp (Ma-i-ching),
C182-183, hoặc kinh Ngưu giác sa la lâm
(Niu-chiao-so-lo-lin-ching), C 184-185.
Chương mười sáu, có
tên giống chương mười một, Đại phẩm, nhưng chương này
chỉ có 10 kinh. Trong kinh C 193, Mâu lê phá quần na (Mou-li-p'o-ch'un-na-ching),
đức Phật quở trách vị Tỳ-kheo có tên này vì chơi thân
với ni và bảo ông hãy an trú tâm từ và tâm bi. Trong kinh C
194, Bạt-đà-hòa-lợi (P'o-t'o-ho-li-ching), đức Phật
chỉ cho Tôn giả Bạt Đà Hoà Lợi những nguy hiểm của sự
phá giới luật nhất tọa thực, cách xử phạt những
Tỳ-kheo vi phạm và những lợi ích của sự tôn trọng giới
này.
Chương mười bảy,
Bổ lợi đa phẩm (Pu-li-to-p'in), lấy tên kinh đầu tiên
Bổ lợi đa, C 203, trong đó đức Phật bảo gia chủ
Bổ Lợi Đa rằng theo pháp luật của bậc thánh, người ta không
thể được gọi là tu sĩ khi chỉ từ bỏ những tục sự mà
thôi. Trong kinh C 204, La ma kinh (Lo-mo-ching), đức Phật
giảng về hai loại tầm cầu, là thánh cầu (ariyan) và
phi thánh cầu (unariyan).
Chương cuối cùng
thứ mười tám, Lệ phẩm (Li-p'in), lấy tên của kinh
cuối cùng trong nhóm tức C 222, Lệ kinh (Li-ching), nói
về sự xếp đặt, trong đó đức Phật giảng muốn tận
diệt và hiểu rõ vô minh, già, chết để chấm dứt khổ, ta
cần phải thực hành bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn(66)
, bốn thần túc, bốn thiền (dhyànas), năm căn, năm
lực, bảy giác chi, tám chánh đạo, mười biến xứ, mười
pháp của bậc vô học.
Trước mỗi chương,
có một bài kệ bốn dòng hoặc nhiều hơn, tóm tắt tên kinh
chứa trong phẩm ấy. Ví dụ, trong phẩm đầu, bài kệ như
sau :
"Thiện
pháp, Trú độ thoï (Shan-fa chou-tu-shu)
Thành, Thủy, Mộc
tích duï (Ch'êng, shui, mu-chi-yu)
Thiện nhân vãng,
Thế phước, (Shan-jên-wang, shih-fu)
Nhật, Xa, Lậu
tận kinh.(Jih, ch'ê, lou-chin ch'i). "
Nghĩa là gồm các
kinh sau:
Thiện pháp kinh (Shan-fa-ching),
Trú độ thọ kinh (Chou-tu-shu-ching), Thành dụ kinh (Ch'êng-yu-ching),
Thủy dụ kinh (Shui-yu-ching), Mộc tích dụ kinh (Mu-chi-yu-ching),
Thiện nhân vãng kinh (Shan-jên-wang-ching), Thế gian phước
kinh (Shih-chien-fu-ching), Thất nhật kinh (Ch'i-jih-ching),
Thất xa kinh (Ch'i-ch'ê-ching), Lậu tận kinh (Lou-chin-ching).
II. Theo quyển :
Lại nữa, 222
kinh này được phân loại theo quyển, gồm 60 tất cả:
Quyển
1, 2 : phẩm 1 gồm 10 kinh.
Quyển 3, 4 : phẩm 2 gồm 10 kinh.
Quyển 5-7 : phẩm 3 gồm 11 kinh.
Quyển 8, 9 : phẩm 4 gồm 10 kinh.
Quyển 10 : phẩm 5 gồm 16 kinh.
Quyển 11-16 : phẩm 6 gồm 14 kinh.
Quyển 17-21 : phẩm 7 gồm 15 kinh.
Quyển 22, 23: phẩm 8 gồm 10 kinh.
Quyển 24-26 : phẩm 9 gồm 10 kinh.
Quyển 27, 28 : phẩm 10 gồm 10 kinh.
Quyển 29-34 : phẩm 11 gồm 25 kinh.
Quyển 35-41 : phẩm 12 gồm 20 kinh.
Quyển 42-44 : phẩm 13 gồm 10 kinh.
Quyển 45-47 : phẩm 14 gồm 10 kinh.
Quyển 48, 49: phẩm 15 gồm 10 kinh.
Quyển 50-54 : phẩm 16 gồm 10 kinh.
Quyển 55-58 : phẩm 17 gồm 10 kinh.
Quyển 59, 60: phẩm 18 gồm 11 kinh.
III.Phân loại theo ngày tụng đọc
:
Lại nữa, 222 kinh này
được phân loại theo năm ngày tụng đọc:
-Ngày
đầu, từ phẩm 1 đến phần đầu của phẩm 6, gồm 64 kinh.
-Ngày thứ hai, từ nửa phần sau của phẩm 6 cho đến phẩm
10, gồm 52 kinh.
-Ngày thứ ba, từ phẩm 11 đến phần đầu của phẩm 12,
gồm 35 kinh.
-Ngày thứ tư, từ phần hai của phẩm 12 đến phần đầu
phẩm 15, gồm 35 kinh.
-Ngày thứ năm, từ phần hai của phẩm 15 đến phẩm 18, gồm
36 kinh.
Cách phân loại này
chứng tỏ rằng ngày xưa kinh A-hàm này cũng chiếm một vị
trí trong sự tụng đọc hàng ngày của chư Tăng, và họ đã
hoàn tất toàn bộ Trung a-hàm trong năm ngày tụng đọc.
Để khỏi có sự thêm
bớt, người kết tập đã thêm ở cuối mỗi kinh, số lượng
những chữ chứa trong kinh ấy. Ví dụ trong kinh thứ 1, Chánh
Pháp kinh (Shan-fa-ching), ở phần cuối đã ghi rằng có 1423
chữ. Kinh cuối cùng, Li-ching, chứa 4873 chữ. Cũng vậy cuối
mỗi quyển, số chữ được ghi. Ví dụ quyển 1 chứa tất
cả 8109 chữ, quyển cuối cùng phẩm 60 chứa tất cả 11.377
chữ. Vào cuối mỗi phẩm cũng thế, số chữ được nói đến;
bởi vậy chúng ta biết rằng phẩm 1 chứa 16.043 chữ, chương
18 chứa 22.149 chữ.(67)
Trung a-hàm (CMA) được
nói là do Tam tạng Cồ Đàm Tăng Già Đề Bà (C: Chi-pin-san-ts'ang-ch'u-t'an-sêng-chia-t'i-p'o)
(Kashmiri Traipitaka Gautama Sanghadeva) dịch, do Đạo Tổ (Tao-tsu)....
ghi chép, vào triều đại Đông Tấn (Tsin), dưới triều
vua Hiếu Vũ (Hsiao-wu) và vua An Đế (An-ti) thuộc
Lung An...tại chùa Động Đình (Tung-t'ing) (?). Vua Hiếu Vũ
lên ngôi tương đương Tây lịch năm 373 và vua An Đế lên ngôi
vào năm
397 TL.
B. BẢN PÀLI (P)
152 kinh P được phân
thành ba nhóm lớn, nhóm căn bản, Mulà-pannàsa, gồm 50
kinh đầu; nhóm giữa, Majjhimapannàsa, gồm 50 kinh giữa;
và nhóm cuối, Uparipannàsa, gồm 52 kinh cuối. Trung bộ
kinh phân thành 15 phẩm (vaggas) như sau :
1)
Phẩm Căn bản (Mùlapariyàyavagga) : 10 kinh
2) Phẩm Tiếng rống sư tử (Sìhanàdavagga) : : 10
kinh
3) Phẩm 3 (Tatiyavagga) : 10 kinh
4) Đại phẩm song đôi (Mahàyamakavagga) : 10 kinh
5) Tiểu phẩm song đôi (Cùlayamakavagga) : 10 kinh
6) Phẩm Gia chủ (Gahapaivagga) : 10 kinh
7) Phẩm Tỳ-kheo (Bhikkhuvagga) : 10 kinh
8) Phẩm Du sĩ (Paribbàjakavagga) : 10 kinh
9) Phẩm Vua (Ràjavagga) : 10 kinh
10) Phẩm Bà la môn (Bràhmanavagga) : 10 kinh
11) Phẩm Chư thiên (Devadahavagga) : 10 kinh
12) Phẩm Bất đoạn (Anupadavagga) : 10 kinh
13) Phẩm Không (Sunnatavagga) : 10 kinh
14) Phẩm Phân tích (Vibhangavagga) : 10 kinh
15) Phẩm Sáu xứ (Salàyatanavagga) : 12 kinh
Như vậy 152 kinh P
được phân loại thành 15 phẩm, mỗi phẩm 10 kinh trừ phẩm
cuối 12 kinh, trong khi Trung a-hàm C được phân loại thành 18
phẩm. Nhưng số kinh trong mỗi phẩm không đồng. Có bốn
phẩm trong bản C gần trùng tên với năm phẩm trong bản P :
C6 = P9; C12 = P10; C13 = P14; C15 = P4 và P5. Những phẩm còn lại
của hai bản hoàn toàn không giống nhau, và ta có thể nói
rằng những nhà kết tập hai bản kinh này đã tùy tiện phân
loại các kinh, không tuân theo một cách phân loại nào từ
những người đi trước. Chúng ta cũng để ý rằng bản P không
phân thành quyển và không phân theo ngày tụng. Có lẽ sự phân
loại thành quyển là một nét đặc thù của sách Tàu và
những nhà biên tập hay ấn hành đã để vào cho tiện. Còn
về sự phân loại theo ngày tụng, thì dường như là một cách
làm ngày xưa để giúp chư Tăng trong việc tụng đọc hàng ngày,
vì không thể nào đọc hết toàn bộ trong một ngày. Cách phân
loại theo ngày này trong Trung bộ kinh (PMN) không có, nhưng nó
được tìm thấy trong Mahàvagga, với sự phân chia Bhànavàra.
A. NHAN ĐỀ (68)
So sánh các nhan đề
98 kinh P và những kinh C tương đương, ta thấy có 45 kinh có cùng
nhan đề, 15 kinh có đề gần giống nhau, và 38 kinh có nhan đề
hoàn toàn khác nhau.
1. Bốn mươi lăm
kinh có đề giống nhau :
Các NC số 5, 8, 9,
10, 11, 13, 14, 19, 23, 24, 28, 29, 32, 33, 35, 36, 37, 38, 39, 43, 46,
49, 51, 52, 54, 56, 57, 58, 60, 62, 68, 69, 71, 72, 74, 76, 77, 78, 79,
80, 81, 84, 85, 90, 91.
2. Mười lăm kinh
có nhan đề gần giống nhau :
NC số 2, 3, 4, 15, 20,
25, 26, 40, 55, 61, 63, 67, 86, 94, 95.
3. Ba mươi tám
kinh hoàn toàn khác nhan đề nhưng nội dung gần giống :
Có 38 kinh nhan đề
hoàn toàn khác giữa hai bản C và P. Đôi khi bản C chọn tên
của nhân vật chính trong kinh làm nhan đề, trong khi bản P
lại chọn tên của pháp được giảng. Ví dụ :
NC 7 : C 91,Châu na
vấn kiến (Chou-na-wên-chien-ching) = P8, Kinh Đoạn giảm (Sallekhasutta)
.
NC 22: C204,La ma kinh (Lo-mo-ching)
= P26, Kinh Thánh cầu (Ariyapariyesanasutta) .
Đôi khi bản P chọn
ví dụ để đặt tên, trong khi bản C lấy tên nhân vật, ví
dụ :
NC 6 : C93, Thủy
tịnh Phạm chí kinh (Shui-ching-fan-chih-ching) = P7, Kinh Ví
dụ tấm vải (Vatthùpamasutta) .
NC 18: C193, Mâu lê phá
quần na kinh (Mou-li-p'o-chun-na-ching) = P21, Kinh Xà dụ
(Kakacùpamasutta) .
Một đôi khi ta
thấy điều ngược lại là kinh P dùng nhân vật và kinh C dùng
ví dụ hay pháp, ví dụ:
NC 41 : C 221, Tiễn
dụ kinh (Chien-yu-ching) = P63, Tiểu kinh Màlunkya (Cùlamàlunkyasutta).
NC số 42 : C205,Ngũ
hạ phần kết kinh (Wu-hsia-fên-chieh-ching) = P64 Đại kinh
Màlunkya (Mahàmàlunkyasutta) .
NC số 82 : C79, Hữu
thắng thiên kinh (Yu-shêng-t'ien-ching) = P127,Kinh Anuruddha.
Nhưng sự chọn tên
nhân vật để đặt đề kinh được tìm thấy khá nhiều
trong kết tập S hơn là trong bản P. Như trong NC số 6, 7, 12,
18, 21, 22, 27, 30, 31, 44, 45, 52, 65, 66, 83 và 96, trong tất cả 16
kinh ấy, bản C dùng nhân vật trong khi bản P dùng thí dụ hay
pháp để đặt nhan đề. Nhưng chỉ có bảy trường hợp ngược
lại, đó là NC số 41, 42, 64, 82, 87, 88, và 97.
Chúng ta thấy rằng
trong bản P khi hai kinh dài, ngắn có cùng một nhan đề thì
chữ Tiểu (Cùla) và Đại (Mahà) được thêm vào
nhan đề để phân biệt; nhưng bản C bỏ cách phân biệt ấy
và dùng một nhan đề cho cả hai kinh. Ví dụ:
NC 10 , 11 : C99, 100
Khổ uẩn kinh (K'u-yin-ching) = P13, Đại kinh khổ uẩn (Mahàdukkhakkhandhasutta)
và P14, Tiểu kinh khổ uẩn (Cùladukkhakkhandhasutta).
NC 25, 26 : C184,185, Ngưu
giác sa la lâm kinh (Niu-chioh-so-lo-lin-ching) = P31, Tiểu
kinh rừng sừng bò (Cùlagosingasutta) và P32, Đại kinh
rừng sừng bò (Mahàgosingasutta).
NC 28, 29 cũng vậy,
hoặc NC 31, 32 và NC 49, 51. Trừ NC 76, 77 trong đó bản C phân
biệt giữa hai kinh bằng cách thêm chữ Tiểu (Hsiao) và
Đại (Ta). Lại có một trường hợp trong đó bản C có
cùng một nhan đề cho hai kinh trong khi bản P lại có hai nhan
đề khác nhau. Như trong
NC 64 : C152, Anh vũ
kinh (Ying-wu-ching) = P 99,Kinh Subha (Subhasutta).
NC 89 : C170, Anh vũ =
P135, Kinh Tiểu nghiệp phân biệt kinh (Cùlakammavibhangasutta).
Nhìn chung ta thấy
trong 98 kinh có 45 kinh có nhan đề giống nhau, và 15 kinh có
nhan đề gần giống nhau. Điều này có ý giải thích rằng 45
kinh này rất nổi tiếng vào thời kết tập, hoặc do tầm
quan trọng của những kinh ấy, hoặc do các nhà kết tập quan
tâm và nhớ rõ các kinh ấy. Khối lượng kinh này cống hiến
một nguồn gốc chung từ đó những nhà kết tập rút tài
liệu, và điều này giải thích tỷ số cao những điểm tương
đồng giữa hai bản dịch, về phương diện nhan đề.
B. ĐỊA ĐIỂM NÓI KINH :
Trong số 98 kinh được
khảo sát so sánh, có 62 kinh C và P có địa điểm giống nhau,
15 kinh có địa điểm gần giống, 21 kinh hoàn toàn khác địa
điểm.
1. Kinh có địa
điểm giống nhau:
-
Tại Xá Vệ (C: Shê-wei; P: Sàvatthi), Thắng lâm (C:
Shêng-lin; P: Jetavana); Cấp Cô Độc viên (C:
Kei-ku-tu; P: Anàthapindikàràma) gồm 37 kinh : NC số 5,
10, 13, 14, 16, 17, 18, 19, 23, 24, 27, 32, 33, 35 , 41, 42, 43, 50, 52,
56, 57, 61, 70, 71, 72, 75, 78, 82, 84, 85, 86, 88, 89, 91, 92, 97, 98.
-
Tại Vương Xá (C: Wang-shê; P: Ràjagaha), Trúc Lâm (Veluvana),
vườn Ca Lan Đà (C: Chia-lan-to; P: Kalandakanivàpa)
gồm 7 kinh : NC 46, 51, 63, 79, 80, 81, 90.
-
Giữa dân chúng Kuru (Chu-lou-shou), Kammàsadamma
(Chien-mô-sê-t'an) gồm 3 kinh : NC 8, 48, 67.
-
Tại Thích Sí Sấu (C: Shih-chi-shou; P: Sakka), Ca Tỳ
La Vệ (C: Chia-wei-lo-wei; P: Kapilavatthu), rừng Ni Câu
Luật (C: Ni-chu-lei; P: Nigrodha) gồm 3 kinh : NC 11,
77, 96.
-
Tại Xá Vệ (C: Shê-wei; P: Sàvatthi), Lộc Mẫu (C: Lu-tzu-mu;
P: Migàramàtu) giảng đường gồm 2 kinh : NC 68, 76.
-
Tại Ma-kiệt-đà (C: Mo-chieh-t'o; P: Magadha), thành Vương
Xá (C: Wang-shê; P: Ràjagaha), một kinh : NC 94.
-
Tại Xá Vệ, An Đà lâm (C: An-t'o-lin; P: Andhavana),
một kinh : NC 20.
-
Giữa dân chúng Bhagga (P'o-ch'i-shou), núi T'o (Sumsumàragiri),
trong rừng Khủng Bố (Bhesakalàvana), vườn Nai, một kinh
: NC 36.
-
Tại Na Lan Đà (C: Na-nan-t'o; P: Nàlandà), trong
rừng Pàvàri-kamba, một kinh : NC 39.
-
Tại Kosambi (Chu-shê-mi), Ghositaràma (Ch'u-shih-lo),
một kinh : NC 83.
-
Giữa bộ tộc Thích Sí Sấu (C: Shih-chi-shou; P: Sakkas),
tại Devadaha (T'ien-i), một kinh : NC 65.
-
Giữa bộ tộc Thích Sí Sấu, ở Medalumpa (Mi-lou-li),
một kinh : NC 58.
-
Giữa dân chúng Kosala (Chu-so-lo), một kinh : NC 53..
-
Tại Na Đề Ca (C: Na-mo-t'i-shou; P: Nàdikà), tu
viện Chien-ch'i (Ginjakàvasatha), một kinh : NC 25.
-
Tại Videha (Pei-t'o-t'i), một kinh : NC 60.
2- Kinh có địa
điểm gần giống nhau :
Hai
bản kinh có địa điểm gần giống nhau gồm 15 kinh như sau, có
khi thêm hoặc bớt hoặc thay đổi một địa điểm :
-
NC 15 : C115, Mật hoàn dụ : Khi ở giữa dân chúng Thích
Ca , tại Ca Tỳ La Vệ, sau khi khất thực và dùng bữa, đức
Phật đi đến một vườn trúc trong môt tu viện của dòng
họ Sakya. Ngài đi vào một khu rừng rậm và ngồi
xuống một gốc cây. P18, kinh Mật hoàn, thêm Ni Câu
Luật, bỏ rừng Trúc, bỏ tu viện Sakya.
-
NC 22 : C204, kinh La ma: Ở Xá Vệ, Lộc Mẫu giảng đường;
P26, Thánh cầu: Trước Phật ở Xá Vệ, vườn Kỳ thọ
Cấp Cô Độc. Rồi Ngài đi đến Đông Viên (Pubbàràma),
Lộc Mẫu giảng đường để nghỉ ban ngày.
-
NC54 : C132, Lại-tra-hòa-la kinh : Giữa dân chúng Câu Lâu
Sấu, trong làng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) ở phía bắc làng
Thi Nhiếp Hòa (T'i-shê-ho). = P82 Ratthapàla : Ở
giữa dân chúng Kuru, tại Thullakotthita.
-
NC 37 : C217, Bát thành kinh : Tại Tỳ Xá Ly (C:Pei-shê-li;
P: Vesàli) bên bờ sông Di Hầu, trên giảng đường một
ngôi lầu = P52, Bát thành : Tại Vesàli, ở Beluvagàmaka.
-
NC 55 : C 67, Đại thiên nại lâm : Phật đang du hành ở
nước Bệ Đà Đề (Pei-t'o-ti), đi đến Di Tát La (Mi-sa-lo),
trú trong rừng Đại Thiên (Ta-t'ien) = P83, Makhàdeva: Tại
Mithilà, rừng Makhà-devamba.
-
NC 26: C: Giữa bộ tộc P'o-ch'i-shou tại rừng Niu-chioh-so-lo.
= P: Tại Gosingasàlavanadàya.
-
NC 28 và 29: C: Giữa dân chúng Ying-ch'i, tại thị trấn
Ma-i, ở tu viện Ma-lin. = P: Giữa dân chúng Angas tại
Assapura.
-
NC 40: C: Đức Phật đang trú ở Vương Xá, trong Rừng Trúc,
tại công viên Chia-lan-to. Ngài đi đến gặp Thượng
tọa Lo-yun đang trú ở Vương Xá tại khu rừng có suối
nước nóng. P: Hầu hết là giống ngoại trừ đề cập đến
trưởng lảo Ràhula không phải đang trú tại khu rừng có
suối nước nóng mà tại Ambalatthikà.
-
NC 49: C: Đức Phật đang trú ở Vương Xá, trong Rừng Trúc,
tại công viên Chia-lan-to. Rồi Ngài đi đến rừng con Công.
P: Tương tự nhưng có thêm: tại Paribbàjakàràma.
-
NC 69: C: Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, Tỷ kheo A-nan đang
trú tại thành Vương Xá = P: Giống nhau nhưng có thêm: Veluvana,
Kalandakanivàpa.
-
NC 44: C: Giữa dân chúng Ying-chia, ở A-ho-na, tại
tu viện Chien-jo = P: Hầu hết là giống nhưng không có
thêm Chien-jo.
-
NC 47: C: Tại Chia-shih, Chia-lo-lai, làng phía bắc
rừng T'i-shê-ho = P: Kàsi- Kitàgiri và thị trấn Kàsi.
-
NC 59: C: Tại Yu-t'ou-sui-jo, ở rừng P'u-chi-tz'u = P:
Ujunnà, Kannakatthala, ở vừơn nai.
-
NC 66: C: Giữa dân chúng P'o-ch'i, tại làng Shê-mi =
P: Giữa những ngừơi Sakkas, tại Sàmagàma.
3. Hai mươi mốt kinh
có địa điểm khác nhau :
21
kinh có địa điểm khác nhau là: NC số 1, 2, 3, 4, 6, 7, 9, 12,
21, 30, 31, 34, 38, 45, 62, 64, 73, 74, 87, 93, và 95.
Trong số 21 kinh này
ta thấy bản P thiên về các địa điểm Xá Vệ, Kỳ Đà lâm,
vườn Cấp Cô Độc. Trong số 21 kinh thì 14 kinh Pali chọn các
địa điểm này như kinh số 2, 3, 5, 7, 8, 11, 25, 43, 47, 96, 99,
117, 119, 139, trong khi bản chử Hán đề cập chỉ 3 kinh là
kinh số 106, 210 và 141. Ngược lại, chúng ta thấy rằng bản
chử Hán thiên về các địa điểm Vương xá thành, Trúc lâm,
công viên Chia-lan-to. Và 6 kinh đề cập những địa điểm
này là những kinh số 89, 178, 211, 150, 152, 165, trong khi chỉ
một kinh Pali đề cập những địa điểm này là kinh số 44.
Bản chữ Hán cũng thiên về Chu-lou-shou,
Chien-mo-se-t'an như kinh số 10, 103, 186 và 189.
Như vậy trong số 98
kinh nghiên cứu so sánh, có 21 kinh có địa điểm khác nhau,
trong khi có đến 62 kinh địa điểm giống nhau, và 15 kinh có
địa điểm gần giống; cho thấy gần 80 phần trăm tương đồng
giữa hai bản dịch và điều này chứng tỏ cả hai bản lấy
nội dung từ một nguồn duy nhất hoặc gần giống nhau, có
lẽ là tạng kinh xưa đã mất, và cũng chứng tỏ vào lúc
kết tập bằng tiếng Sanskrit và Pàli, truyền
thống khẩu quyết còn sống động trong ký ức những nhà
kết tập. Nhưng chúng ta cũng nên cố giải thích sự khác
nhau về địa điểm trong 21 kinh. Trước hết có thể rằng cũng
kinh ấy được đức Phật giảng tại nhiều nơi khác nhau.
Trong 45 năm thuyết pháp của Ngài, điều chắc chắn là cùng
một kinh ấy được lặp lại tại nhiều nơi. Và điều này
cũng giải thích sự khác nhau về địa điểm của một số
kinh. Như trong NC 95, kinh C 31, Phân biệt Thánh đế, nói
đến địa danh Câu Lâu Sấu (Chu-lou-shou), Chien-mo-sê-t'an
là địa điểm thuyết kinh, trong khi kinh tương đương, P
141, nói địa điểm thuyết kinh là vườn Nai (Migadàya),
Chư thiên đọa xứ (Isipatana), Dàrànasì. Lại
nữa, chúng ta nhận thấy những nhà kết tập kinh Pali thích các
địa điểm như Xá Vệ, Kỳ Viên, vườn Cấp Cô Độc trong
khi những nhà kết tập kinh C thích để Vương Xá thành, và Câu
Lâu Sấu, Chien-mo-sê-t'an. Vậy đối với những kinh này,
mà ký ức về chúng đã khá mờ nhạt trong trí nhớ của người
kết tập, thì họ thích để những địa danh đã từng là căn
cứ địa của tông phái họ, hoặc là quê hương của họ.
Một lý do khác giải thích sự khác biệt về địa điểm
của một số kinh có lẽ là do lỗi lầm của những nhà biên
tập. Như chúng ta tìm thấy trong NC 37, C217, Bát thành kinh,
nói đến miền Bắc của thành Thi Nhiếp Hòa (T'i-shê-ho)
thuộc nước Câu Tát La (Chu-so-lo), nhưng trong NC 54,
miền bắc của Thi Nhiếp Hòa được nói là thuộc nước Câu
Lâu Sấu (Chu-lou-shou). Trong nhiều kinh, như NC 2, NC 9, NC
34,... Chien-mo-sê-t'an được nói là thuộc nước Câu Lâu
Sấu nhưng trong NC 93 thành ấy được nói là thuộc nước Bà
Kỳ Sấu (P'o-ch'i-shou). Trong NC 40, C14 nói Tôn giả La Vân
(Lo-yun) trú tại rừng Suối Nóng, nhưng P61 nói ở Ambalatthikà.
Vậy một trong hai nhà kết tập đã nhầm. Trong NC 66, C196 nói
thôn Xá Di (Shê-mi) thuộc xứ Bạt Kỳ (P'o-chi), nhưng
P104 nói thôn này, Sàmagàma, tức Xá Di, thuộc về dân
chúng Kuru. Trong số những kinh có địa điểm khác nhau,
có hai kinh đáng chú ý. Trong NC 6, C93 nói kinh này được
giảng khi đức Phật vừa thành đạo không lâu, và địa điểm
là Yu-pei-lo trên bờ sông Ni Liên (Mi-lien-jan) dưới
cây Ni Câu Luật (A-yeh-ho-lo-ni-chu-lei). Theo truyền
thống, đức Phật đến thành Ba La Nại (Bàrànasì) để
chuyển bánh xe pháp và độ năm Tỳ-kheo làm những đệ tử
đầu tiên của Ngài. Rồi Ngài trở về Uruvelà để hóa
độ ba anh em Ca Diếp (Kassapa). Vậy nếu kinh này được
giảng trước khi đức Phật đi đến thành Ba La Nại, thì
sẽ khó giải thích được sự hiện hữu của các Tỳ-kheo nói
trong kinh. Bởi thế sự bất đồng này có lẽ là do sự
nhầm lẫn của những nhà kết tập, hoặc do sự khác nhau
giữa các tông phái Phật giáo khi nói về những nơi Phật đi
đến sau khi vừa giác ngộ. Trong NC 95, bản P nói đến Ba La
Nại, Chư thiên đọa xứ, vườn Nai là địa điểm thuyết
kinh P141, Đế phân biệt (Saccavibhangasutta). Trong kinh này
Tôn giả Xá Lợi Phất giải thích bốn chân lý cao cả theo cách
tương tự như kinh Chuyển Pháp luân (Dhammacakkapavattanasutta);
bởi thế những nhà kết tập P để địa điểm giống nhau,
nghĩa là Ba La Nại, Chư thiên đọa xứ và vườn Nai. Sự
chọn lựa địa điểm Chien-mo-sê-t'an trong Chu-lou-shou
trong kinh C ở đây rất có ý nghĩa. Một nét đặc sắc đáng
chú ý trong NC 31: kinh C nói về Tỳ Xá Khư (Pi-shê-ch'u),
một nữ cư sĩ nổi danh đặt những câu hỏi về pháp với
Tỳ-kheo ni (bhiksunì) Phác Lạc (Fa-lo), bởi thế địa
điểm của kinh này là Xá Vệ (Shê-wei) nơi Tỳ Xá Khư
ở. Nhưng bản P nói Tỳ Xá Khư (Visàkha) là chồng trước
kia của Tỳ-kheo ni Pháp lạc (Dhammadinnà), người xuất
gia và cư trú tại Vương Xá (Ràjagaha). Bởi thế bản P
nói kinh này thuyết tại Vương Xá. Nhưng cả hai bản kinh đều
có nội dung giống nhau. Sự bất đồng này chứng tỏ những
nhà kết tập không chú ý lắm đến địa điểm thuyết kinh.
(65)
Xem phụ lục.
(66)
Ở đây bản Hoa ngữ dịch nhầm từ pahana nghĩa là tên
chỗ không phải đoạn tận. Xem Abhidharmakosa, karika.
(67)
Xem phụ lục4.
(68)
Phụ lục 5.
---o0o---
Mục
lục | 1.1
| 1.2 | 2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4 | 2.5
| 2.6 | 2.7
| 3.1 | 3.2 | 3.3
| 3.4 | 3.5 | 3.6
| 4.1 | 4.2 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002