1.
Những
ẩn
dụ
gần
giống
nhau:
Trong
vài
trường
hợp,
hầu
như
không
có
gì
khác
nhau
giữa
hai
ẩn
dụ
về
phương
diện
nội
dung
cũng
như
hình
thức.
Như
trong
NC4,
Tôn
giả
Đại
Mục-liền-liên
kể
một
ví
dụ
để
nói
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
khéo
biết
tâm
của
người
nghe
để
giảng
pháp
cho
họ
thấm
vào
tim:
C87:
"Tôi
đến
nhà
của
một
khổ
hạnh
lõa
thể
tên
là
Man
Tử,
xưa
là
người
làm
xe.
Vào
lúc
ấy,
cạnh
nhà
ông
ta,
có
một
người
làm
xe
đang
cưa
gỗ
để
làm
trục
xe.
Lúc
ấy
lõa
thể
Man
Tử
xưa
làm
nghề
đẽo
vành
xe,
đi
đến
nhà
ấy
và
trông
thấy
người
làm
xe
đang
bận
đẽo
trục
xe.
Một
tư
tưởng
khởi
lên
trong
ông
ta:
'Nếu
người
ấy
dùng
cưa
cưa
bớt
những
chỗ
khuyết
kia,
thì
trục
xe
sẽ
toàn
hảo'.
Khi
ấy,
đúng
như
những
gì
lõa
thể
Man
Tử
đã
nghĩ,
người
làm
xe
lấy
một
cái
cưa
cưa
đứt
những
chỗ
khuyết.
Rồi
lõa
thể
Man
Tử
hết
sức
vui
mừng
và
nói:
'Ôi,
thợ
làm
xe,
anh
biết
đúng
tim
tôi;
vì
anh
đã
cưa
đúng
những
chỗ
khuyết
để
thành
hình
trục
xe
như
tôi
đã
nghĩ.'
"
P5:
Gần
giống.
C:
một
lõa
thể
ngoại
đạo
tên
Man
Tử
xưa
là
người
làm
xe=P:
purànayànakàraputto
Panduputto
àjìviko.
C:
có
một
người
làm
xe
đang
đẽo
gỗ
để
làm
trục
xe=P:
vào
lúc
ấy
Samìti
một
người
thợ
xe,
đang
đẽo
vành
của
một
bánh
xe.
C:
nếu
người
làm
xe
kia
lấy
cái
cưa
cưa
bớt
những
chỗ
khuyết
kia=P:
mong
người
ấy
đẽo
đường
cong,
đường
méo,
chỗ
khuyết
này.
C:
vậy
là
tâm
anh
biết
được
tâm
tôi=P:
dường
như
là
anh
ta
đang
đẽo
xe
với
cái
tâm
biết
được
tâm
tôi.
Trong
NC13,
đức
Phật
trích
dẫn
một
ví
dụ
về
con
gà
mái
để
hiển
thị
rằng,
bất
cứ
người
nào
có
được
15
đức
tính
thì
chắc
chắn
phải
đạt
toàn
giác.:
C206:
"Cũng
như
một
con
gà
mái
đẻ
10
trứng,
12
trứng,
rồi
đúng
thời
ấp
chúng,
đúng
thời
ủ
chúng,
canh
chừng
chúng
một
cách
đàng
hoàng.
Có
thể
con
gà
mái
không
chú
ý,
nhưng
trong
những
cái
trứng
kia,
những
con
gà
con
với
mỏ,
móng,
sẽ
mổ
cho
thủng
vỏ
trứng
để
an
toàn
chui
ra."
P16:
Tương
tự.
C:
10
trứng
hay
12
trứng=P:
8
trứng
10
trứng
hay
12
trứng.
C:
đúng
thời
ấp
chúng,
đúng
thời
ủ
chúng,
đúng
thời
coi
chừng
chúng=
P:
đúng
thời
ấp
ngồi
trên
chúng,
đúng
thời
ủ
chúng,
chân
chính
chăm
sóc
chúng.
C:
con
gà
mái
có
thể
không
chú
ý=P:
mặc
dù
con
gà
mái
không
lập
ước
nguyện
rằng
mong
gà
con
sẽ
mổ
vỏ
mà
chui
ra
sau
khi
đập
bể
vỏ
trứng
với
móng
và
mỏ.
2.
Nội
dung
giống
nhưng
hình
thức
khác:
Trong
phần
lớn
các
ẩn
dụ,
chúng
ta
nhận
thấy
mục
đích
mà
ẩn
dụ
chuyên
chở
để
làm
sáng
tỏ
một
giáo
lý
nào
đó
là
giống
nhau
trong
cả
hai
bản,
nhưng
cách
trình
bày
ẩn
dụ
không
hoàn
toàn
giống
nhau.
Đa
số
ẩn
dụ
rơi
vào
trường
hợp
này
và
điều
này
chứng
tỏ
những
nhà
biên
tập
hoàn
toàn
tự
do
chọn
lựa
danh
từ
và
cách
diễn
đạt.
Như
trong
NC16,
đức
Phật
trích
dẫn
ví
dụ
đàn
nai
để
hiển
thị
lợi
lạc
mà
giáo
lý
Phật
đem
lại
cho
con
người
nói
chung.
C102:
"Giả
sử
có
một
nơi
an
ổn,
nơi
có
dòng
nước
lớn.
Ở
đấy
có
một
bầy
nai
đang
sống
và
đi
tung
tăng.
Nếu
có
một
người
đến,
không
tìm
lợi
lạc
cho
bầy
nai,
không
tìm
sự
an
ổn
và
hạnh
phúc
cho
chúng.
Người
ấy
ngăn
con
đường
chính,
mở
ra
một
con
đường
nguy
hiểm,
đào
một
cái
hố
và
cho
một
người
canh
chừng
cái
hố.
Như
vậy
toàn
thể
bầy
nai
sẽ
đi
đến
hoại
diệt
và
hoàn
toàn
tử
vong.
Lại
có
một
người
đến
muốn
sự
an
lạc
cho
bầy
nai
ấy,
tìm
sự
an
ổn
hạnh
phúc
cho
bầy
nai,
nên
vị
ấy
mở
ra
con
đường
chính,
làm
cho
nó
bằng
phẳng,
chặn
con
đường
nguy
hiểm
và
đuổi
người
đứng
canh.
Nhờ
vậy
đàn
nai
sống
an
ổn."
P19:
Ẩn
dụ
trong
P
có
vài
dị
biệt
chi
tiết.
Nơi
được
nói
đến
là
một
mảnh
đất
sình
sâu
và
thấp
ở
trong
rừng
bên
cạnh
có
một
đàn
nai
đang
sống.
Con
đường
an
toàn
được
mô
tả
là
khemo
savatthiko
pìtigamanìyo,
con
đường
lừa
bịp
là
kumaggo.
Ở
đây
không
nói
gì
đến
đào
hố
và
đặt
mồi
canh,
mà
nói
một
con
mồi
đực,
một
con
mồi
cái
được
đặt
đấy
để
dụ
đàn
nai.
C:
"Này
các
Tỳ-kheo,
nên
biết
rằng
ta
nói
ví
dụ
ấy
để
hiển
thị
một
vài
ý
nghĩa.
Người
có
trí
nghe
ví
dụ
sẽ
hiểu
nghĩa.
Ví
dụ
này
nói
lên
ý
nghĩa
như
sau:
Dòng
nước
lớn
tượng
trưng
cho
năm
dục
hấp
dẫn,
khả
ái.
Gì
là
năm?
Các
sắc
đẹp
do
mắt
nhận
thức,
âm
thanh
do
tai
nhận
thức,
mùi
do
mũi,
vị
do
lưỡi,
xúc
do
thân
nhận
thức.
Các
ngươi
nên
biết
dòng
nước
lớn
dụ
cho
năm
dục
này.
Đàn
nai
dụ
cho
các
Sa-môn,
Bà-la-môn.
Người
đi
đến
không
muốn
lợi
ích
cho
đàn
nai
dụ
cho
ma
vương,
kẻ
xấu.
Đóng
con
đường
chính,
mở
con
đường
phụ,
dụ
cho
ba
tư
tưởng
bất
thiện
là
tư
tưởng
về
tham
dục,
tư
tưởng
về
sân
hận
và
tư
tưởng
về
tác
hại.
Con
đường
nguy
hiểm
dụ
cho
ba
tư
tưởng
bất
thiện.
Lại
nữa
con
đường
nguy
hiểm
dụ
cho
tám
tà
đạo,
từ
tà
kiến
cho
đến
tà
định
là
thứ
tám.
Đào
một
hố
lớn
dụ
cho
vô
minh,
đặt
người
đứng
canh
dụ
cho
quyến
thuộc
của
ma.
Lại
nữa
có
một
người
đến
muốn
lợi
lạc
cho
bầy
nai
ấy,
tìm
an
ổn
và
hạnh
phúc
cho
bầy
nai
ấy
là
dụ
cho
đức
Như
lai,
bậc
A-la-hán
chánh
đẳng
giác.
Đóng
con
đường
nguy
hiểm,
mở
con
đường
chính
an
toàn
dụ
cho
ba
thiện
tư
duy
là
tư
duy
ly
dục,
vô
sân
và
bất
hại.
Con
đường
dụ
cho
ba
thiện
tư
duy
và
tám
chánh
đạo,
từ
chánh
kiến
đến
chánh
định
là
thứ
tám."
P:
Mảnh
đất
sình
sâu
là
đồng
nghĩa
với
tham
dục;
đàn
nai
lớn
tiêu
biểu
chúng
sinh;
người
muốn
hại
chúng
tiêu
biểu
ma
vương,
kẻ
xấu
ác.
Con
đường
hiểm
nguy
là
đồng
nghĩa
với
tám
tà
đạo.
Con
mồi
đực
tiêu
biểu
sự
ham
vui
(nandìràga).
Con
mồi
cái
dụ
vô
minh.
Người
muốn
tốt
cho
bầy
nai
là
đồng
nghĩa
với
Như
lai,
đấng
toàn
thiện.
Con
đường
bảo
đảm
an
toàn
tiêu
biểu
đường
bát
chánh.
Trong
NC19,
Phật
dùng
ẩn
dụ
chiếc
bè
để
hiển
thị
rằng
pháp
của
Ngài
dạy
phải
được
từ
bỏ
sau
khi
sử
dụng,
chứ
không
phải
để
mà
đeo
mang,
ôm
giữ:
C200:=P22:
"Ta,
vì
các
ngươi
(không
có
trong
P),
đã
nói
về
ẩn
dụ
chiếc
bè,
trong
một
thời
gian
dài
(không
có
trong
P),
cần
phải
được
từ
bỏ
chứ
không
để
ôm
giữ.
Như
có
một
dòng
nước
từ
trên
núi
xuống,
rất
sâu
và
rất
rộng,
chảy
nhanh
và
có
rất
nhiều
vật
trôi
nổi
trên
đó.
Trên
dòng
này,
không
có
thuyền
cũng
không
có
cầu.
Giả
sử
có
một
người
đến
muốn
vượt
qua
bờ
bên
kia
tìm
một
vài
công
việc.
(Bản
P
nói,
một
người
trên
đường
dài,
trông
thấy
một
dãi
nước
lớn,
bờ
bên
này
đầy
nguy
hiểm
và
hãi
hùng.
Bờ
bên
kia
thì
an
toàn
không
đáng
sợ,
không
có
thuyền
để
vượt
qua,
không
có
cầu
bắt
từ
bờ
này
sang
bờ
kia).
Vì
muốn
qua
sông,
người
ấy
nghĩ:
'Dòng
nước
này
thật
sâu
và
rộng;
chảy
nhanh
và
có
nhiều
vật
trôi
nổi
trên
đó.
Trên
dòng
nước
này
không
có
thuyền
hay
cầu
có
thể
vượt
qua.
Ta
có
việc
muốn
ở
trên
bờ
kia,
muốn
qua
sông.
Ta
phải
dùng
đến
phương
tiện
gì,
cách
gì
để
vượt
qua
bờ
kia
một
cách
an
toàn?'
(P:
Cũng
những
dị
biệt
như
đã
ghi
trong
đoạn
trước;
và
không
có
câu
hỏi
sau
cùng).
Rồi
vị
ấy
nghĩ,
'Nay
ở
bờ
này
ta
nên
thu
nhặt
cỏ,
cây
bó
lại
để
làm
thành
một
chiếc
bè,
rồi
cỡi
bè
ấy
mà
vượt
qua
sông.'
Rồi
người
ấy
thu
nhặt
trên
bờ
này
những
cỏ
và
gỗ,
bó
chúng
thành
một
chiếc
bè,
cỡi
chiếc
bè
này
và
qua
bờ
kia
an
toàn.
(P:
thêm
cọng,
cành,
lá,
nhưng
bỏ
gỗ;
lại
thêm:
nhờ
chiếc
bè
này,
nỗ
lực
chống
chèo
với
tay
và
chân.)
Rồi
người
ấy
nghĩ:
'Chiếc
bè
này
rất
ích
lợi
cho
ta,
vì
nhờ
nó
ta
đã
từ
bờ
kia
sang
bờ
này
một
cách
an
toàn.
Ta
sẽ
vác
nó
lên
vai
phải
hoặc
đội
trên
đầu
mà
đi.'
Rồi
người
ấy
mang
chiếc
bè
trên
vai
phải
hoặc
đội
lên
đầu
mà
đi.
Các
thầy
nghĩ
sao?
Làm
như
vậy
người
ấy
có
được
lợi
ích
(của
chiếc
bè)
không?
Các
Tỳ-kheo
trả
lời:
'Không.'
(P:
Gần
giống,
với
những
dị
biệt
như
đã
nói;
bản
P
chỉ
nói
vai
mà
không
nói
vai
phải).
Đức
Thế
Tôn
hỏi:
'Người
ấy
nên
làm
gì
về
chiếc
bè
để
có
được
sự
ích
lợi
(của
nó)?
Người
ấy
nên
nghĩ:
'Chiếc
bè
này
rất
ích
lợi
cho
ta.
Nhờ
cỡi
nó,
ta
đã
vượt
bờ
kia
sang
bờ
này.
Nay
ta
nên
nhận
chìm
chiếc
bè
này
xuống
nước,
hoặc
đặt
nó
trên
bờ
mà
đi.'
Rồi
người
ấy
nhận
chìm
chiếc
bè
dưới
nước,
hoặc
đặt
trên
bờ
mà
đi.
Các
thầy
nghĩ
sao?
Làm
như
vậy
về
chiếc
bè,
người
ấy
có
được
lợi
ích
(của
chiếc
bè)
không?
Khi
ấy
các
Tỳ-kheo
đáp:
'Thưa
vâng,
có
ích
lợi.'
(P:
Gần
giống,
dị
biệt
như
đã
ghi.
Ở
đây
P
chỉ
nói
đưa
chiếc
bè
lên
bờ
hay
nhận
chìm
nó
trong
nước).
Đức
Thế
Tôn
nói:
'Như
vậy
trong
một
thời
gian
dài
ta
đã
giảng
cho
các
thầy
ẩn
dụ
về
chiếc
bè
là
để
từ
bỏ
chứ
không
phải
để
ôm
giữ.
Nếu
các
thầy
đã
hiểu
ẩn
dụ
về
chiếc
bè
mà
từ
lâu
nay
ta
đã
dạy,
thì
pháp
các
ông
còn
phải
từ
bỏ,
huống
là
phi
pháp.'
"
Trong
NC32,
Phật
lấy
ví
dụ
cái
hột
của
một
cây
leo
tăng
trưởng
và
trở
thành
nguy
hiểm
cho
một
cây
lớn,
để
hiển
thị
mối
nguy
của
dục:
C174:=P45:
Như
vào
tháng
cuối
xuân,
vào
những
ngày
hết
sức
nóng
(P:
vào
tháng
cuối
mùa
hạ),
một
hột
của
cây
leo
chih-i
(?)
nẻ
ra
rơi
xuống
đất
dưới
chân
một
cây
sàla.
(P:
hạt
của
một
cây
leo
nứt
ra
rơi
xuống
dưới
chân
một
cây
sàla).
Khi
ấy
vị
thần
cây
vì
việc
này
đâm
ra
sợ
hãi
(bản
P
thêm:
vị
thần
ở
trong
cây
sàla
sợ
hãi,
dao
động,
run
rẩy.
Nó
bỏ:
do
việc
này).
Rồi
các
vị
thần
làng,
những
vị
thần
ở
những
cây
lân
cận,
ở
hàng
trăm
loại
cây
lúa,
cây
thuốc
(?)vốn
là
quyến
thuộc
bằng
hữu
của
thần
cây
này,
thấy
được
sự
đáng
sợ
và
mối
nguy
của
cái
hột
ấy
trong
tương
lai,
đi
đến
nơi
thần
cây
này
mà
an
ủi
rằng:
(Bản
P
bỏ:
các
vị
thần
làng,
những
vị
thần
ở
những
cây
lân
cận,
ở
hàng
trăm
loại
cây
lúa,
cây
thuốc
nhưng
nói:
các
thần
rừng,
thần
rú,
thần
cây,
thần
ở
trong
các
cây
có
thuốc
và
rừng
rú.
Nó
bỏ:
thấy
được
sự
đáng
sợ
và
mối
nguy
của
cái
hột
ấy
trong
tương
lai)
"Hỡi
thần
cây,
đừng
sợ!
Hỡi
thần
cây,
đừng
sợ!
Cái
hột
này
có
thể
bị
con
nai
ăn,
có
thể
bị
chim
công
ăn,
hoặc
bị
gió
thổi,
hoặc
bị
đám
cháy
trong
làng
đốt
tiêu,
hoặc
bị
một
ngọn
lửa
hoang
thiêu
đốt,
hoặc
bị
thối
không
còn
là
hạt
giống."
(P
bỏ:
Hỡi
vị
thần
cây,
...
hay
bị
gió
thổi,
hoặc
bị
đám
cháy
trong
làng
đốt.
Nó
thêm:
hoặc
có
thể
nó
bị
những
người
thợ
rừng
nhặt
lên,
hoặc
có
thể
nó
bị
kiến
trắng
ăn.
C:
hoặc
nó
có
thể
bị
thối
không
còn
là
hạt
giống=P:
hoặc
nó
có
thể
trở
thành
phi
hạt
giống).
Bạn
sẽ
được
an
ổn
(P:
không
có
câu
này).
Nhưng
hạt
giống
ấy
không
bị
nai
ăn,
không
bị
chim
công
ăn,
không
bị
gió
thổi,
không
bị
đám
cháy
đốt,
không
bị
ngọn
lửa
hoang
đốt
cháy,
không
bị
thối
để
không
còn
là
hạt
giống.
Hạt
giống
ấy
không
thiếu
điều
gì,
nó
không
bị
đâm
thủng,
không
bị
cắt
ngang,
không
bị
hư
hỏng
vì
gió,
mưa
và
nắng.
Nó
gặp
được
mưa
lớn
và
trổ
mầm
rất
nhanh.
(P
bỏ:
hạt
giống
này
không
thiếu
gì....
gió
mưa
và
nắng).Thần
cây
này
nghĩ:
"Vì
lý
do
nào
những
thần
cây
trong
làng,
những
thần
cây
lân
cận...
(như
trên,
cho
đến
không
bị
hỏng
vì
gió,
mưa
và
nắng)."
Nó
trở
thành
cọng,
cành,
lá,
mềm
mại,
khả
ái
để
sờ.
(P
trước
hết
nói
hạt
giống
lớn
thành
một
cây
leo
mềm
mại,
dịu
dàng,
có
lông
và
bám
lấy
cây
sàla.
Khi
ấy
vị
thần
cây
nghĩ
tại
sao
các
thần
cây
bạn
lại
kéo
đến
an
ủi
mình
trong
khi
chính
mình
thấy
sự
xúc
chạm
với
dây
leo
này
rất
dễ
chịu).
Những
cọng,
cành,
lá
mềm
mại
khi
chạm
đến
đem
lại
những
cảm
giác
êm
dịu.
Cây
leo
phụ
thuộc
vào
cây
lớn
này,
trở
thành
những
cọng
lớn,
có
mắc
và
có
lá
chằng
chịt
bao
quanh
cây
lớn,
làm
thành
một
mái
che
trùm
lên
nó.
Khi
cây
leo
đã
phủ
lên
trên
ngọn
cây
lớn,
vị
thần
cây
nghĩ:
"Những
thần
cây
trong
làng...
nó
gặp
được
mưa
lớnvà
nẩy
mầm
rất
nhanh.
Vì
hạt
giống
này,
do
hạt
giống
này,
ta
cảm
thọ
đau
đớn
khốc
liệt,
sự
thống
khổ
cực
kỳ
gắt
gao."
(P:
Cây
leo
bao
trùm
lấy
cây
sàla,
làm
thành
một
cái
lọng
ở
trên
nó,
nảy
sanh
thêm
vô
số
cây
nhỏ,
và
mỗi
cành
lớn
của
cây
sàla
đều
bị
phá
hủy.
Khi
ấy
vị
thần
cây
nghĩ
rằng,
bạn
bè
quyến
thuộc
của
ông
đã
đúng
khi
báo
cho
ông
biết
về
mối
nguy
của
hột
giống
này).
3.
Ẩn
dụ
trong
bản
P
đơn
giản
hơn:
Có
nhiều
trường
hợp
những
ẩn
dụ
trong
P
đơn
giản
hơn
trong
C,
như
các
trường
hợp
sau:
Trong
NC4:
C87:
"Như
một
thiếu
nữ
dòng
Sát
đế
lợi,
dòng
Bà-la-môn,
thiếu
nữ
của
gia
chủ,
thợ
thuyền,
một
thiếu
nữ
đoan
chính,
xinh
đẹp,
sau
khi
tắm
rửa
tẩy
tịnh,
thân
mình
xông
hương
phấn,
mặc
y
phục
sạch
sẽ
trong
trắng.
Nàng
mang
nhiều
đồ
nữ
trang
để
tăng
thêm
sắc
đẹp.
Nếu
có
một
người
nghĩ
đến
cô
gái
ấy,
mong
cho
cô
được
lợi
ích,
an
lạc,
bảo
đảm
và
hạnh
phúc.
Người
ấy
lấy
một
vòng
hoa
sen
xanh,
hoa
chiêm
bặc,
hoa
tu
ma
na
(hoa
lài),
hay
hoa
bà
sư,
hoa
a
đề
mâu
ca
(đào
hoa
tâm)
và
tặng
nàng
tràng
hoa
ấy.
Cô
gái
kia
vui
mừng
nhận
tràng
hoa
với
cả
hai
tay,
để
đội
lên
đầu
mà
trang
sức."
P5:
Ẩn
dụ
ở
đây
đơn
giản
hơn.
Nó
nói
trường
hợp
một
phụ
nữ
hay
một
nam
nhi,
một
thanh
niên
thích
trang
sức
sau
khi
đã
gội
đầu.
Nếu
người
ấy
có
được
một
tràng
hoa
sen
hay
hoa
lài,
hay
hoa
atimuttaka
(đào
hoa
tâm),
thì
người
con
trai
hay
con
gái
ấy
sẽ
cầm
tràng
hoa
với
cả
hai
tay
mà
đặt
lên
đầu.
Trong
NC18:
C193:
"Như
một
rừng
sàla
trên
một
thửa
đất
tốt,
người
thợ
rừng
thông
minh,
thiện
xảo,
không
lười
biếng,
tùy
theo
mùa
mà
nuôi
dưỡng
gốc
các
cây
sàla.
Người
ấy
thường
xuyên
xới
đất,
bón
phân,
và
tưới
nước
cho
chúng.
Nếu
nó
quá
cao,
anh
ta
đào
xuống
cho
sâu,
nếu
nó
quá
thấp,
anh
ta
thêm
đất.
Nếu
có
cỏ
hoang
mọc
gần
cây,
anh
ta
nhổ
đi.
Nếu
những
cây
mọc
chung
mà
cong
quẹo,
đầy
gút
mắc
và
không
thẳng,
anh
ta
nhổ
quăng
ra
ngoài.
Nếu
có
vài
cành
cong
quẹo,
anh
ta
cưa
bớt.
Nếu
gần
những
cây
ấy,
có
những
cây
sàla
mới,
mạnh
mẽ,
thẳng
tắp,
anh
ta
sẽ
nuôi
dưỡng
chúng
tùy
theo
mùa,
thường
xuyên
xới
đất
thêm
phân
và
tưới
nước.
Như
vậy,
rừng
sàla
trên
mảnh
đất
tốt
sẽ
tăng
trưởng
xanh
tốt
và
dồi
dào."
P21:
Không
giống
hẳn.
Nó
nói
một
rừng
sàla
lớn
ở
phụ
cận
một
ngôi
làng
của
một
thị
trấn.
Rừng
sàla
này
bị
những
cây
leo
ăn
bám,
xâm
chiếm.
Một
số
người
vì
muốn
tốt
cho
khu
rừng
này,
muốn
nó
được
an
ổn,
nên
chặt
những
cành
bị
cây
leo
ăn,
kéo
ra
khỏi
rừng.
Nhưng
những
người
ấy
sẽ
săn
sóc
cẩn
thận
những
cành
cây
thẳng
và
lành
mạnh.
Nhờ
vậy
rừng
sàla
sẽ
tăng
trưởng
xanh
tốt
dồi
dào.
4.
Ẩn
dụ
ở
bản
C
đơn
giản
hơn:
Trong
vài
trường
hợp
chúng
ta
thấy
ẩn
dụ
trong
C
giản
dị
hơn.
Như
trong
NC18:
C193:
"Như
một
chiếc
xe
ngựa
với
người
đánh
xe
ngồi
trên.
Ông
ta
cầm
cương
với
bàn
tay
trái,
bàn
tay
phải
nắm
một
cây
roi
da.
Người
ấy
điều
khiển
chiếc
xe
theo
tám
con
đường
chính
và
đạt
đến
bất
cứ
nơi
nào
mình
muốn."
P21:
Nó
nói
đến
một
chiếc
xe
thắng
với
những
con
ngựa
giống
tốt,
đứng
trên
ngã
tư
đường,
trên
đất
bằng
phẳng,
và
một
người
đánh
xe
lão
luyện
sẵn
sàng
con
roi.
Một
người
đánh
xe
chuyên
luyện
ngựa,
leo
lên
xe
ấy,
cầm
cương
trong
bàn
tay
trái,
và
con
roi
trong
bàn
tay
phải,
người
ấy
có
thể
điều
khiển
chiếc
xe
đi
xuôi
đi
ngược,
đến
bất
cứ
hướng
nào
tùy
thích.
5.
Những
ẩn
dụ
không
có
trong
bản
P:
Đôi
khi
có
một
vài
ví
dụ
có
trong
C
nhưng
thiếu
trong
P.
Như
trong
NC90
Trong
C171:
"Có
bốn
hạng
người,
một
số
không
có
dị
thục
báo
mà
như
có,
một
số
người
có
báo
mà
như
không,
một
số
không
có
báo
và
cũng
có
vẻ
không
có
báo,
một
số
có
báo
và
cũng
có
vẻ
là
có
báo.
Cũng
như
có
bốn
hạng
quả
mít,
một
hạng
không
chín
nhưng
bề
ngoài
như
đã
chín,
một
số
ngoài
sống
trong
chín,
một
số
ngoài
sống
trong
sống,
một
số
ngoài
chín
trong
chín."
P136:
Bản
P
nói
đến
nghiệp
nhưng
không
nói
đến
người.
Có
những
nghiệp
vô
hành
và
cũng
có
vẻ
vô
hành;
có
nghiệp
vô
hành
nhưng
có
vẻ
như
có
hành;
có
những
nghiệp
có
hành
và
cũng
mang
vẻ
có
hành;
có
nghiệp
có
hành
nhưng
có
vẻ
như
vô
hành.
Ẩn
dụ
ở
đây
không
có.
6.
Những
ẩn
dụ
không
có
trong
bản
C:
Đôi
khi
trường
hợp
xảy
ra
ngược
lại,
là
bản
C
không
có
ẩn
dụ,
mà
bản
P
tương
đương
thì
có.
Như
trong
NC8:
C98:
Ở
đây
C
nói
đến
giai
đoạn
trong
việc
quán
thân
khi
vị
Tỳ-kheo
rõ
biết
hơi
thở
vào
và
thở
ra.
Nó
bỏ
ví
dụ.
P10:
Ở
đây
bản
P
thêm
ví
dụ
một
người
thợ
quay,
rõ
biết
khi
quay
dài
hay
khi
quay
ngắn.
Trong
NC74,
P119
tiếp
tục
nói
thêm
rằng
thân
hành
niệm
lại
được
tu
tập
với
tâm
muốn
đạt
đến
nhờ
thắng
trí,
một
thiền
chứng
này
hay
khác,
thì
vị
ấy
có
thể
đạt
đến
điều
này
và
thân
chứng
bất
cứ
cảnh
giới
nào.
Rồi
bản
P
đưa
ra
ba
ví
dụ
để
làm
rõ
lời
giải
thích
của
Phật:
a)
Như
một
bình
nước
đầy
tràn
đến
nỗi
một
con
quạ
có
thể
uống
được,
và
bình
này
được
đặt
trên
một
cái
giá;
nếu
một
người
mạnh
khỏe
đi
đến
lay
chiếc
bình,
có
thể
làm
vãi
nước
ra
ngoài.
b)
Như
một
cái
đê
trên
một
mảnh
đất
bằng,
bốn
bờ
được
vây
quanh
bằng
bờ
đê.
Con
đê
này
đầy
nước
đến
miệng,
khiến
một
con
quạ
có
thể
uống
nước.
Nếu
một
người
mạnh
đi
đến,
có
thể
làm
tràn
nước
ra.
c)
Như
tại
ngã
tư
đường,
trên
một
mảnh
đất
bằng,
có
một
cỗ
xe
được
thắng
những
con
ngựa
giống
tốt.
Một
người
đánh
xe
thiện
xảo
leo
lên
xe,
tay
trái
cầm
cương,
tay
phải
cầm
roi,
có
thể
lái
cỗ
xe
đi
bất
cứ
nơi
nào
tùy
thích.
7.
Ẩn
dụ
trong
bản
P
đúng
hơn:
Trong
vài
trường
hợp,
chúng
ta
thấy
ẩn
dụ
bản
P
chính
xác
và
minh
bạch
hơn
bản
C.
Điều
này
là
do
sự
dịch
sai
của
bản
C
hoặc
do
giải
thích
sai
nguyên
bản
tiếng
Phạn.
Như
trong
NC17,
muốn
chứng
minh
phương
pháp
thứ
nhất
xoay
tâm
nghĩ
đến
một
đặc
tính
này
thành
ra
một
đặc
tính
khác,
để
trừ
khử
những
tư
tưởng
bất
thiện,
đức
Phật
đã
dùng
đến
ẩn
dụ
như
sau,
trong
đó
ta
thấy
cách
giải
thích
của
bản
P
chính
xác
hơn:
C101:
"Như
một
người
thợ
mộc
hay
người
học
nghề
thợ
mộc,
dùng
một
dây
mực
để
kẽ
một
đường
trên
gỗ,
rồi
người
ấy
dùng
một
cái
cưa
bén
để
cưa
đứt
gỗ
làm
cho
nó
thẳng."
P20:
Không
giống,
bản
P
cũng
nói
đến
người
thợ
mộc
hay
người
học
nghề
thợ
mộc
nhưng
thêm
chữ
dakkho.
Ở
đây
nó
nói
rằng
người
thợ
mộc
hay
người
học
nghề
thợ
mộc
dùng
một
cái
nêm
để
đánh
bật
một
cái
nêm
khác.
Cũng
thế
trong
ẩn
dụ
của
NC43,
về
sự
huấn
luyện
một
con
ngựa:
C194:
Phật
hỏi
Bạt
Đà
Hòa
Lợi
có
nhớ
ngày
xưa
Ngài
đã
kể
ví
dụ
về
con
ngựa
thuần
chủng.
Bạt
Đà
Hòa
Lợi
trả
lời,
vì
ông
không
tuân
giữ
giới
ăn
một
bữa,
trong
khi
những
Tỳ-kheo
khác
tuân
giữ,
nên
ông
không
nhớ.
Phật
dạy
không
phải
chỉ
vì
lý
do
ấy
mà
thôi.
Khi
Ngài
kể
ẩn
dụ
về
con
thuần
chủng
mã,
Bạt
Đà
Hòa
Lợi
đã
không
nhất
tâm,
không
kính
cẩn,
không
chú
ý
lắng
nghe.
Đây
là
một
lý
do
nữa.
Rồi
theo
yêu
cầu
của
Bạt
Đà
Hòa
Lợi,
Phật
kể
lại
ẩn
dụ
ấy.
Có
một
người
luyện
ngựa,
có
được
một
con
ngựa
thuần
chủng.
Lúc
đầu
anh
ta
huấn
luyện
con
ngựa
về
tiếng
hý.
Trong
khi
huấn
luyện,
con
ngựa
có
thể
không
ưa
được
huấn
luyện,
nó
có
thể
muốn
hoặc
không
muốn,
vì
con
ngựa
ấy
chưa
quen
được
huấn
luyện.
Sau
khi
đã
xong
giai
đoạn
huấn
luyện
đầu
tiên,
người
ấy
luyện
con
ngựa
về
dây
cương
để
làm
cho
nó
chạy.
Ở
đây
bản
C
hơi
lộn
xộn
về
các
giai
đoạn
huấn
luyện
con
ngựa
trở
thành
hoàn
toàn
thuần
thục,
xứng
đáng
cái
tên
là
ngựa
của
vua.
P65:
Bản
P
rất
rõ
ràng
về
các
giai
đoạn
của
sự
huấn
luyện.
Trước
hết,
con
ngựa
được
luyện
mang
dây
cương,
và
trong
khi
được
huấn
luyện,
nó
có
thể
dằng
co
vì
chưa
quen.
Khi
nó
đã
tập
quen
với
dây
cương,
con
ngựa
lại
được
luyện
để
quen
với
yên,
để
đi
thẳng,
đi
vòng
tròn,
đi
bằng
đầu
gót,
tập
phi,
tập
hý,
tập
một
trò
chơi
đơn
giản,
tập
lộn
nhào,
tập
phi
nước
đại,
tập
phi
ở
tốc
lực
tối
thượng
và
có
những
cung
cách
lịch
sự
nhất.
Rồi
người
luyện
ngựa
cho
con
ngựa
đeo
đồ
trang
sức
đẹp
đẽ.
Khi
con
ngựa
được
đầy
đủ
mười
đức
tính
này,
nó
trở
thành
xứng
đáng
được
vua
sử
dụng.
8.
Cả
hai
bản
đều
có
ẩn
dụ
không
giống
nhau:
Chúng
ta
cũng
nhận
thấy
rằng
một
đôi
khi
hai
bản
có
ẩn
dụ
không
giống
nhau,
như
trong
NC
19,
23,
39.
Như
trong
NC19,
ẩn
dụ
sau
được
đức
Phật
dùng
khi
Ngài
khuyến
khích
các
đệ
tử
hãy
bất
động
trước
khen
chê:
C200:
"Như
trong
rừng
Kỳ
Viên
này,
bên
ngoài
cổng
có
nhiều
lá
khô,
củi
khô.
Giả
sử
có
người
đến
đem
chúng
đi
để
đốt
và
sử
dụng
tùy
thích.
Các
thầy
nghĩ
sao,
những
lá
khô,
củi
khô
kia
có
nghĩ
rằng,
người
kia
đem
chúng
ta
đi,
đốt
chúng
ta
trong
lửa
và
sử
dụng
chúng
ta
tùy
thích.
Các
Tỳ-kheo
đáp:
Bạch
Thế
Tôn,
không.
Cũng
thế,
nếu
có
người
mạ
lÿ
các
ông,
đánh
đập
các
ông,
giận
dữ,
bất
mãn
với
các
ông,
luôn
luôn
khiển
trách
các
ông;
và
nếu
có
những
người
khác
kính
trọng,
cúng
dường,
tôn
trọng
đảnh
lễ
các
ông,
các
ông
cũng
không
nên
ôm
lòng
giận
dữ,
thù
ghét,
ác
ý,
không
ưa,
tác
hại;
các
ông
cũng
không
nên
vui
mừng
hoan
hỷ,
các
ông
cũng
đừng
để
cho
tâm
mình
như
lên
mây."
P22:
Không
giống.
Ở
đây
đức
Phật
khuyên
các
Tỳ-kheo
hãy
dẹp
sang
một
bên
những
gì
không
thuộc
về
của
mình,
vì
như
vậy
sẽ
đem
lại
hạnh
phúc,
an
lạc
lâu
dài
cho
các
Tỳ-kheo.
Những
gì
không
thuộc
của
Tỳ-kheo
ở
đây
là
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức.
Tất
cả
những
thứ
này
không
phải
là
tự
ngã,
không
thuộc
về
tự
ngã,
bởi
thế
các
Tỳ-kheo
nên
dẹp.
Rồi
Phật
cũng
lấy
ví
dụ
ấy
để
làm
sáng
tỏ
giáo
lý
của
Ngài.
Bản
P
bỏ
khô
và
củi,
nhưng
thêm
cỏ,
cọng
cành.
Trong
khi
ở
bản
C,
Phật
hỏi
các
Tỳ-kheo
những
lá
khô,
củi
khô
này
có
nghĩ
người
này
đã
mang
chúng
đi,
ở
bản
P,
Phật
hỏi
các
Tỳ-kheo
có
nghĩ
rằng
người
kia
đã
mang
chúng
đi
hay
không.
Trong
NC39,
một
loạt
những
ẩn
dụ
có
những
dị
biệt
giữa
hai
bản
được
thấy
như
sau.
Ở
đây
Ưu
Ba
Ly
kể
ra
bốn
ví
dụ
để
chứng
minh
ông
ta
sẽ
lôi
kéo
Sa-môn
Cồ
Đàm
như
thế
nào
trong
cuộc
tranh
luận.
C133:
"Như
một
người
mạnh
nắm
lấy
một
con
cừu
đực
bằng
cái
bờm
dài
của
nó
và
kéo
lôi
tùy
thích."
P56:
C:
kéo
lôi
tùy
thích
=
P:
àkaddheyya
parikaddheyya
samparikaddheyya
(kéo
tới
giật
lui
quay
vòng
tròn).
Phần
còn
lại
giống
nhau.
C:
"Như
một
người
mạnh
cầm
một
tấm
áo
lông
cừu,
đập
nó
để
giũ
bụi."
P:
Không
giống:
"Như
một
người
bán
rượu
(sondikàkammakàro)
nhận
chìm
một
vò
đựng
rượu
(?
sondikàkilanjam)
trong
một
hồ
sâu,
nắm
lấy
một
góc
mà
kéo
nó."
C:
"Như
một
người
bán
rượu
nhận
một
bao
đựng
rượu
vào
nước
sâu
và
kéo
nó
tùy
thích."
P:
Không
giống:
"Như
một
người
say
rượu
đi
chếch
choáng
(sondikàdhuto),
nắm
lấy
một
cái
vàlam
nơi
góc
và
lắc
nó,
tung
nó
lên
nhiều
lần."
C:
"Như
một
con
voi
chúa
60
tuổi,
một
con
voi
lớn
có
ngà,
chân
và
thân
đã
trưởng
thành,
đầy
đủ
sức
mạnh,
được
một
người
mạnh
dẫn
đi
tắm,
rửa
mông,
lưng,
bụng,
ngà,
đầu
của
nó
và
làm
cho
nó
giỡn
chơi
trong
nước."
P:
Nó
nói
đến
một
con
voi
Kunjaro
60
tuổi
nhảy
xuống
ao
nước
sâu
và
chơi
trò
chơi
tung
nước.
Cũng
vậy
trong
NC39,
Kiền
Tử
khiển
trách
Ưu
Ba
Ly
đã
đến
Sa-môn
Cồ
Đàm
cốt
để
luận
bại
ông
ta
nhưng
cuối
cùng
chính
mình
đã
bị
đánh
bại,
và
Kiền
Tử
dùng
hai
ví
dụ
để
khiển
trách
Ưu
Ba
Ly:
C:
"Như
một
con
người
đi
vào
rừng
để
được
mắt,
nhưng
rốt
cuộc
trở
về
mất
cả
2
con
mắt;
như
một
người
đến
hồ
uống
nước
để
giải
khát
nhưng
trở
về
vẫn
còn
khát."
P:
Ví
dụ
thứ
nhất
không
giống.
Nó
nói
đến
một
người
đi
thiến
súc
vật
nhưng
khi
trở
về
lại
bị
thiến.
Ví
dụ
thứ
hai
giống
như
ví
dụ
đầu
trong
bản
C.
Nhận
xét:
Như
vậy
một
nghiên
cứu
tỷ
giảo
về
các
ví
dụ
trong
hai
bản
kinh
chứng
tỏ
cả
hai
bản
đều
rút
tài
liệu
từ
một
nguồn
chung,
như
ta
thấy
những
dữ
kiện
mà
hai
bản
sưu
tập
giống
nhau.
Nhưng
mặc
dù
những
ẩn
dụ
này
chuyên
chở
những
thuyết
minh
giống
nhau,
cách
trình
bày
những
ẩn
dụ
ấy,
sự
chọn
lựa
những
chi
tiết,
có
vài
dị
biệt
đáng
kể,
và
điều
này
chứng
tỏ
các
nhà
biên
tập
đã
có
sự
rộng
rãi
trong
việc
chọn
lựa
tài
liệu.
Nếu
trong
vài
ví
dụ
có
một
số
điểm
bất
đồng,
ấy
là
do
sự
giải
thích
sai
ví
dụ,
hoặc
do
lỗi
phiên
dịch.
Nhìn
chung,
khảo
sát
các
ẩn
dụ
trong
hai
bản
kinh
giúp
ta
thấy
rõ
các
điểm
đồng
và
dị
giữa
hai
bản.
Cuối
mỗi
bài
kinh
trong
bản
C
hay
P
thường
thường
có
một
phần
kết
để
chứng
tỏ
bản
kinh
đã
chấm
dứt
và
để
diễn
tả
sự
vui
mừng
của
những
người
lắng
nghe
bài
kinh
do
Phật
nói
hay
do
một
trong
những
đệ
tử
của
Ngài
nói.
Một
nghiên
cứu
tỷ
giảo
về
phần
kết
trong
98
kinh
cho
thấy
những
điểm
sau
đây:
1)
36
kinh
có
phần
kết
giống
nhau;
2)
26
kinh
có
phần
kết
hơi
khác,
trong
đó
bản
C
có
thêm
các
Tỳ-kheo
hoặc
vài
đệ
tử
hoặc
vài
nhân
vật;
3)
13
kinh
có
phần
kết
không
giống
nhau;
4)
23
kinh
trong
bản
P
không
có
phần
kết.
1.
36
kinh
có
phần
kết
giống
nhau:
Những
nghiên
cứu
tỷ
giảo
sau
đây
cho
thấy
các
bản
kinh
có
phần
kết
giống
nhau:
NC
2,
5,
8,
9,
10,
12,
13,
14,
từ
16-19,
21,
24,
26-29,
32-34,
44,
47,
49,
58,
65,
70,
71,
73-75,
84,
91-93,
95.
Trong
NC2,
phần
kết
như
sau:
C10:
Đức
Phật
nói
như
vậy,
các
Tỳ-kheo
sau
khi
nghe
lời
đức
Phật
dạy
đều
hoan
hỷ
phụng
hành.
P2:
Đức
Thế
Tôn
nói
như
vậy,
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
tín
thọ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Trong
NC12,
chính
Tôn
giả
Mục-liền-liên
giảng
pháp
và
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
tín
thọ
lời
Tôn
giả
Mục-liền-liên.
Trong
NC21,
chính
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
nói
và
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ,
tín
thọ
lời
Tôn
giả
Xá-lợi-tử.
2.
26
kinh
có
phần
kết
hơi
khác:
Những
NC
sau
đây
có
phần
kết
hơi
khác:
7,
11,
15,
22,
25,
40,
42,
43,
45,
50,
53,
55,
57,
60,
66,
67,
72,
76,
77,
80,
81,
83,
86,
87,
88
và
90.
Trong
những
kinh
này,
trong
số
những
người
vui
mừng
về
lời
dạy
của
Phật
hay
của
một
đệ
tử
Ngài,
bản
C
thêm
"những
Tỳ-kheo
ấy"
hoặc
một
vài
nhân
vật.
Như
trong
NC67,
bản
P
chỉ
nói
Mahàcundo
vui
mừng
về
lời
dạy
của
Phật,
nhưng
trong
bản
C
tương
đương,
ngoài
Tôn
giả
Đại
Chu
Na
còn
có
các
Tỳ-kheo
khác
nữa.
Trong
NC25,
bản
P
chỉ
nói
Dìgho
parajano
yakkho
vui
mừng
về
lời
dạy
của
đức
Thế
Tôn,
bản
C
ngoài
Trường
Khổ
Hạnh
còn
thêm
"ba
thiện
gia
nam
tử".
Trong
NC57,
bản
P
chỉ
nói
những
Tỳ-kheo
ấy,
nhưng
bản
C
thêm
tên
Tôn
giả
A
Nan.
Trong
NC60,
bản
P
chỉ
nói
những
Tỳ-kheo
ấy,
bản
C
thêm
Phạm
Ma.
Điều
này
hơi
lạ,
vì
Phạm
Ma
đã
được
nói
đã
chết
trong
đoạn
trước.
Trong
NC83,
P
nói
chỉ
có
mình
Tôn
giả
A
Na
Luật
Đà
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn,
nhưng
bản
C
thêm
các
Trưởng
lão
Nan
Đề
và
Kim
Tỳ
La.
3.
13
kinh
không
có
phần
kết
giống
nhau:
Các
NC
sau
đây:
1,
3,
4,
20,
30,
31,
41,
78,
85,
94,
96,
97,
98.
Trong
NC1,
Phần
kết
như
sau:
C106:
Đức
Phật
dạy
như
vậy,
các
Tỳ-kheo
sau
khi
nghe
lời
Phật
dạy,
hoan
hỷ
phụng
hành.
P1:
Đức
Thế
Tôn
dạy
như
vậy;
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
tín
thọ
lời
Thế
Tôn
(theo
bản
in
Roman
script).
Nhận
xét:
Theo
truyền
thống
Tích
Lan,
và
bản
kinh
Tích
Lan,
các
Tỳ-kheo
không
hoan
hỷ
với
bản
kinh
này,
Na
te
bhikkhù
Bhagavato
bhàsitam
abhinandunti.
Bản
kinh
Miến
Điện
ấn
hành
trong
kỳ
kết
tập
thứ
sáu
cũng
theo
truyền
thống
Tích
Lan.
Kinh
sớ
(M.A.ii,
46
ff)
nói
500
Tỳ-kheo
không
hoan
hỷ
khi
nghe
kinh
này.
Khi
nhận
thấy
điều
này,
Phật
đã
giảng
cho
họ
truyện
tiền
thân
Mùlapariyàya
jàtaka
(Căn
bản
pháp
môn).
Nhờ
vậy
sự
kiêu
mạn
của
họ
tiêu
tan,
và
họ
xin
đức
Thế
Tôn
một
đề
tài
thiền
quán.
Về
sau
khi
Phật
ở
Gotamacetiya
tại
Tỳ
Xá
Ly,
Ngài
giảng
cho
họ
kinh
Gotamakasuttam
và
họ
đắc
quả
A-la-hán
(D.P.P.N.
ii,
p.649).
Nhưng
bản
in
của
hội
Văn
bản
Pàli
và
bản
Hoa
ngữ
thì
theo
phần
kết
thông
thường,
đều
nói
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Từ
phần
kết
bất
thường
của
bài
kinh
này,
sự
phân
biệt
giữa
Như
lai
và
A-la-hán,
và
tư
tưởng
không
nên
thủ
trước
cả
đến
Niết-bàn,
phải
chăng
ta
có
thể
xem
kinh
này,
một
bản
kinh
mang
ít
nhiều
tinh
thần
đại
thừa,
là
một
trong
những
bản
kinh
hiếm
hoi
đã
thoát
khỏi
sự
xoi
mói
của
các
nhà
biên
tập
thuộc
truyền
thống
Thượng
tọa
bộ,
và
đã
được
đặt
vào
tạng
Pàli
có
lẽ
chỉ
do
sơ
ý.
Có
thể
đã
có
thêm
chữ
Na
để
đánh
dấu
loại
bỏ
kinh
ấy
ra
khỏi
tạng
Pàli,
nhưng
những
nhà
biên
tập
kinh
Pàli
về
sau
đã
quên
làm
việc
này.
Trong
NC3,
bản
C
nói
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
hoan
hỷ
chấp
nhận
lời
dạy
của
Thế
Tôn,
nhưng
trong
bản
P
nói
những
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
chấp
nhận
lời
dạy
của
Tôn
giả
Xá
Lợi
Phất.
Sự
khác
biệt
này
là
do
bản
C
có
thêm
một
đoạn
trong
đó
đức
Phật
khen
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
và
kết
thúc
bài
kinh,
trong
khi
ở
bản
P,
chính
Tôn
giả
Xá
Lợi
Phất
kết
thúc
bản
kinh.
Trong
NC4,
hai
đoạn
kết
như
sau:
C87:
Hai
vị
Tôn
giả
ấy
sau
khi
luận
thuyết
và
ca
tụng
nhau,
đã
từ
chỗ
ngồi
đứng
dậy.
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
đã
nói
như
vậy,
Tôn
giả
Đại
Mục-liền-liên
cùng
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
tín
thọ
những
lời
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
đã
nói.
P5:
Như
vậy
hai
vị
đại
long
tượng
ấy
cùng
nhau
vui
mừng
về
sự
biện
thuyết
của
họ.
Trong
NC20,
những
đoạn
kết
như
sau:
C9:
Như
vậy
hai
Tôn
giả
cùng
nhau
thảo
luận,
và
sau
khi
ca
tụng
lẫn
nhau,
họ
hoan
hỷ
tín
thọ.
Rồi
họ
đứng
lên
khỏi
chỗ
ngồi
và
trở
về
chỗ
trú.
P24:
Như
vậy
hai
vị
đại
long
tượng
cùng
nhau
hoan
hỷ
về
bài
pháp.
Trong
NC30,
sự
khác
nhau
giữa
hai
đoạn
kết
như
sau:
C211:
Như
vậy
hai
vị
Tôn
giả
ca
tụng
lẫn
nhau,
nói:
"lành
thay,
lành
thay",
họ
cùng
nhau
hoan
hỷ
tín
thọ.
Rồi
họ
từ
chỗ
ngồi
đứng
dậy
và
ra
đi.
P43:
Tôn
giả
Xá
Lợi
Phất
đã
nói
như
vậy.
Tôn
giả
Ma
Ha
Câu
Thi
La
hoan
hỷ
tín
thọ
lời
Tôn
giả
Xá
Lợi
Phất
nói.
Trong
NC31,
bản
C
nói
đến
Tỳ-kheo
ni
Pháp
Lạc
và
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy;
còn
bản
P
lại
nói
cư
sĩ
Visàkha
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Sự
khác
nhau
này
là
do
trong
bản
C,
Tỳ-kheo
ni
Pháp
Lạc
thuật
lại
với
đức
Phật
cuộc
đàm
thoại,
còn
trong
bản
P,
nam
cư
sĩ
Visàkha
đi
đến
đức
Thế
Tôn.
Trong
NC41,
trong
bản
C,
những
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
còn
trong
P,
Tôn
giả
Man
Đồng
Tử
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Trong
NC78,
Tôn
giả
A
Nan
và
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
còn
trong
P,
phần
cuối
của
bài
kinh
là
do
Tôn
giả
A
Nan
thuyết
nên
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
của
Tôn
giả
A
Nan.
Trong
NC85,
trong
bản
C,
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn,
trong
khi
ở
bản
C,
bài
kinh
được
chấm
dứt
bằng
một
bài
kệ
do
đức
đạo
sư
đọc
lên,
không
có
phần
kết
như
thường
lệ.
Trong
NC94,
trong
bản
C,
Tôn
giả
Fu-chia-lo-so-li
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
còn
trong
bản
P,
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Trong
NC96,
bản
C
nói
Tôn
giả
A
Nan
và
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy;
trong
bản
P,
đức
Thế
Tôn
tụng
lên
một
bài
kệ
để
kết
thúc
kinh.
Trong
NC97,
theo
bản
C,
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
theo
bản
P,
chính
là
Tôn
giả
A
Nan.
Trong
NC98,
bản
C
nói
Tôn
giả
A
Nan
và
các
Tỳ-kheo
trẻ
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
trong
khi
bản
P
chỉ
nói
các
Tỳ-kheo.
Bản
P
thêm
rằng
trong
khi
kinh
này
được
giảng,
có
60
Tỳ-kheo
đạt
đến
sự
giải
thoát
lậu
hoặc,
không
còn
chấp
thủ.
4.
23
kinh
bản
P
thiếu
phần
kết:
Đó
là
các
kinh
số
6,
23,
35,
36,
37,
38,
39,
46,
48,
51,
52,
54,
56,
59,
từ
61-64,
68,
69
,79
,82
,89.
Như
trong
NC6,
bản
C
nói
Bà-la-môn
Hảo
Thủ
Thủy
Tịnh
và
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
nhưng
bản
P
chấm
dứt
ngang,
với
việc
Bà-la-môn
đắc
quả
A-la-hán.
Trong
NC23,
bản
C
nói,
Bà-la-môn
Sheng-wen
và
người
thuộc
ngoại
đạo
tên
Pilu
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
còn
bản
P
bỏ
phần
kết
sau
khi
Bà-la-môn
Jànussonì
xin
quy
y
Tam
bảo,
làm
một
cư
sĩ.
Trong
NC35,
Bà-la-môn
và
tùy
tùng
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Trong
NC36,
bản
C
nói
ác
ma
hoan
hỷ
lời
Tôn
giả
Mục-liền-liên.
Điều
này
khá
lạ
lùng,
khi
ma
mà
lại
hoan
hỷ
bài
pháp
của
Đại
Mục-liền-liên,
vì
bài
giảng
của
Tôn
giả
cốt
để
hàng
phục
ma.
Lại
nữa
trong
bài
kinh
này,
trước
đấy
đã
nói
là
ác
ma
đã
biến
mất.
Sự
im
lặng
trong
bản
P
về
vấn
đề
này
có
lý,
và
cho
thấy
sự
kết
tập
bản
kinh
P
có
nhiều
chính
xác
hơn.
Trong
NC39,
theo
bản
C,
Ưu
Ba
Ly
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
còn
trong
bản
P,
chỉ
nói
Ni
Kiền
Tử
bị
thổ
huyết.
Trong
NC59,
trong
bản
C,
vua
Ba
Tư
Nặc,
Tôn
giả
A
Nan
và
hội
chúng
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy;
nhưng
trong
bản
P,
vua
Ba
Tư
Nặc
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
đứng
lên
khỏi
chỗ,
đảnh
lễ
đức
Thế
Tôn,
nhiễu
quanh
Ngài
rồi
ra
đi.
Trong
NC63,
bản
C
nói
Tôn
giả
Xá-lợi-tử
và
vô
số
trăm
ngàn
người
trong
chúng
hội
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Nhưng
bản
P
chỉ
nói
đức
Thế
Tôn
bảo
Xá
Lợi
Phất
rằng
Bà-la-môn
Đà
Nhiên
đã
chết
và
được
sinh
lên
Phạm
thiên
giới.
Trong
NC79,
bản
C
nói
ngoại
đạo
và
các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
lời
Tôn
giả
Bạc
Câu
La.
Nhưng
không
có
phần
kết
trong
bản
kinh
P,
nói
rằng
Tôn
giả
Bạc
Câu
La
trong
khi
ngồi
giữa
chúng
hội
đã
nhập
Niết-bàn.
Trong
NC89,
bản
C
nói
thanh
niên
Anh
Vũ,
con
trai
của
Đô
Đề
và
vô
số
người
trong
chúng
hội
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy;
nhưng
bản
P
bỏ
qua
phần
kết
và
chỉ
nói
Todeyyaputta
xin
đức
Thế
Tôn
nhận
ông
làm
một
đệ
tử
cư
sĩ.
Nhận
xét:
Như
vậy
một
cuộc
nghiên
cứu
tỷ
giảo
về
phần
kết
của
98
kinh
tương
đương
cho
thấy
rằng
những
nhà
biên
tập
kinh
C
hơi
quá
theo
hệ
thống
khi
biên
tập
kinh,
vì
trong
222
kinh
không
có
một
kinh
nào
là
không
có
phần
kết;
trong
khi
bản
P
có
23
kinh
không
có
phần
kết;
36
kinh
có
kết
luận
gần
giống
nhau;
26
kinh
có
kết
luận
hơi
khác,
đã
cho
thấy
có
một
nguồn
gốc
chung,
từ
đó
các
nhà
biên
tập
hai
tạng
kinh
thu
thập
tài
liệu.
Nhưng
sự
bỏ
bớt
phần
kết
trong
một
số
kinh
P
chứng
tỏ
bản
P
có
độ
đáng
tin
cậy
khá
cao.
Như
vậy,
thật
khá
lạ
lùng
khi
ác
ma
hoan
hỷ
lời
Tôn
giả
Mục-liền-liên
như
được
thấy
trong
NC36;
và
chúng
ta
cũng
không
kém
ngạc
nhiên
khi
bản
C
thêm
Phạm
Ma
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy,
khi
ông
ta
được
báo
cáo
là
đã
chết
trong
đoạn
trước
như
đã
thấy
trong
NC60.
Chúng
ta
cũng
thấy
bản
C
đã
nói
trong
NC63
rằng
có
đến
vô
số
trăm
ngàn
người
trong
chúng
hội
hoan
hỷ
lời
Thế
Tôn
dạy.
Điều
này
dường
như
mang
màu
sắc
tư
tưởng
Đại
thừa,
và
chứng
tỏ
đây
là
một
sự
biên
tập
khá
muộn.
Nhưng
chúng
ta
phải
nhận
rằng,
có
thể
những
nhà
biên
tập
về
sau
đã
thêm
phần
kết
để
đem
lại
tính
đồng
nhất
cho
toàn
thể
tạng
kinh
A-hàm,
do
đó
khiến
cho
một
vài
bất
ổn
len
lỏi
vào.
---o0o---
Mục
lục | 1.1
| 1.2 | 2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4 | 2.5
| 2.6 | 2.7
| 3.1 | 3.2 | 3.3
| 3.4 | 3.5 | 3.6
| 4.1 | 4.2 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002