So sánh kinh Trung A-hàm
chữ Hán và
kinh Trung Bộ chữ Pàli
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya",
Ph.D. Thesis, Bihar University, India
---o0o---
Bây
giờ
chúng
ta
sẽ
khảo
sát
chi
tiết
những
điểm
giống
và
khác
giữa
hai
bản
dịch,
về
phương
diện
giáo
lý.
Chúng
ta
chọn
cách
phân
loại
của
tác
phẩm
Thanh
tịnh
đạo
thành
Giới,
Định
Tuệ,
mặc
dầu
có
những
pháp
bao
hàm
cả
ba,
như
Bát
chánh
đạo.
A.
GIỚI
Trước
hết
chúng
ta
bàn
đến
sự
huấn
luyện
một
Tỳ-kheo
bao
hàm
trong
giới
bản
Biệt
giải
thoát,
sự
giữ
gìn
sáu
căn,
thanh
tịnh
sinh
mạng,
sự
sử
dụng
bốn
vật
cần
dùng.
Trong
NC68,
đức
Phật
giải
thích
rằng,
trong
pháp
luật
này,
có
sự
huấn
luyện
tuần
tự
một
Tỳ-kheo.
Trước
hết
là
sự
giữ
giới
gồm
năm
giai
đoạn,
rồi
sự
thực
tập
thiền
định
gồm
hai
giai
đoạn,
và
huấn
luyện
trí
tuệ
được
trình
bày
vắn
tắt
trong
bản
C,
bao
gồm
hai
giai
đoạn
trong
bản
P.
Ở
đây
chúng
ta
chỉ
giới
hạn
việc
nghiên
cứu
vào
sự
tu
tập
giới.
1.
Sự
tuân
giữ
giới
luật:
Bản
C144,
Toán
số
Mục-kiền-liên:
Ở
đây
vị
Tỳ-kheo
nói
sau
khi
xuất
gia,
vị
ấy
tuân
giữ
giới
bản
Tỳ-kheo
và
sống
phù
hợp
với
giới
Biệt
giải
thoát.
Vị
ấy
gìn
giữ
uy
nghi
chánh
hạnh,
thấy
nguy
hiểm
ngay
cả
trong
những
lỗi
nhỏ
nhặt
và
tuân
giữ
giới
bản.
Rồi
vị
ấy
kể
ra
20
học
giới
phải
theo.
Bản
P107,
Ganakamoggallàna:
Vị
Tỳ-kheo
được
dạy
phải
tuân
giữ
giới,
chế
ngự
với
sự
chế
ngự
của
giới
bản
Biệt
giải
thoát,
có
chánh
hạnh
và
chánh
hành
xứ,
sợ
hãi
đối
với
những
lỗi
nhỏ.
Và
vị
ấy
tuân
giữ
26
học
giới,
nhiều
hơn
bản
C
6
điều.
Những
học
giới
ấy
như
sau:
C1=P1:
Không
sát
sinh.
C2=P2:
Không
lấy
của
không
cho.
C3=P3:
Không
tà
hạnh.
C4=P4:
Không
nói
dối.
C5=P5:
Không
nói
hai
lưỡi
(P:
phỉ
báng).
C6=P6:
Không
nói
lời
thô
ác.
C7=P7:
Không
nói
lời
phù
phiếm.
C8=P8:
Không
trồng
trọt
để
sống
(C:
chih-shêng
=
P:
bìjagàmabhùtagàma,
gieo
hạt,
trồng
rau).
C9=P16:
Không
nhận
gái
góa
và
con
gái
(P:
phụ
nữ
và
thiếu
nữ).
C10=P17:
Không
nhận
tôi
tớ
và
nữ
tỳ.
C11=P20
và
P18:
Không
nhận
voi,
ngựa,
bò
cái,
cừu
(P:
dê,
cừu,
voi,
bò
cái,
ngựa,
ngựa
cái).
C12=P19:
Không
nhận
gia
cầm
và
heo.
C13=P21:
Không
nhận
đồng
ruộng,
cửa
hàng
(P:
ruộng,
đồng,
đất
đai
phong
cảnh).
C14=P14:
Không
nhận
lúa
sống,
lúa
mạch,
đậu,
(P:
mùa
màng
mới
gặt
hái,
còn
sống).
C15=P
(không
có):
Không
uống
rượu.
C16=P12:
Không
dùng
giường
cao,
rộng.
C17=P11:
Không
dùng
tràng
hoa,
chuỗi
đeo
cổ,
hương
liệu,
dầu
thơm,
phấn
(P:
tràng
hoa,
hương,
dầu
thơm,
đồ
trang
sức,
những
đồ
làm
đẹp).
C18=P10:
Không
hát,
khiêu
vũ,
đóng
tuồng,
không
xem
nghe
múa
hát,
diễn
kịch
(P:
khiêu
vũ,
ca
hát,
âm
nhạc,
xem
trình
diễn)
.
C19=P13:
Không
nhận
sanh
sắc
(P:
Jàtarùpa,
tức
là
vàng),
hương
bao
(P:
rajapa,
bạc).
C20=P9:
Không
ăn
quá
ngọ,
ăn
ngày
một
bữa,
ăn
đúng
thời
(P:
người
ăn
một
bữa,
Không
ăn
ban
đêm).
Bản
P
thêm
P15:
không
nhận
thịt
sống;
P22:
Không
làm
sứ
giả,
gởi
sứ
giả;
P23:
Không
mua
bán;
P24:
Không
lừa
đảo
bằng
cân,
đong
lường;
P25:
Không
hối
lộ
móc
ngoặc,
đánh
tráo
và
lừa
bịp
(uckotanavancananikatisàciyogà);
P26:
Không
làm
què
quặt,
ám
sát,
giam
cầm,
cướp
giật
giữa
đường
(chedanavadhabandhanaviparàmosa).
Ghi
chú:
Bản
P
thêm:
không
nhận
thịt
sống,
do
đó
hàm
ý
rằng
cho
phép
nhận
thịt
đã
nấu
chín.
Nhưng
bản
C
bỏ
học
giới
này,
ngụ
ý
cấm
tất
cả
loại
thịt.
2.
Hỷ
túc:
C:
(vii,40a,
10-11):
Sau
khi
đã
hoàn
tất
thánh
giới
này,
vị
Tỳ-kheo
tu
tập
hạnh
hỷ
túc,
mặc
y
để
che
thân,
ăn
thực
phẩm
để
duy
trì
cơ
thể;
bất
kỳ
đi
đâu,
vị
ấy
cũng
mang
theo
y
và
bát,
không
ràng
buộc,
như
con
ngỗng
trời
bay
trong
hư
không
với
đôi
cánh.
P:
(iii,
34,
22-32):
Gần
như
trên.
C:
duy
trì
cơ
thể
=
P:
duy
trì
lỗ
bụng.
C:
giống
như
con
ngỗng
trời
=
P:
giống
như
con
chim.
3.
Hộ
trì
căn
môn
hay
điều
phục
các
căn:
C:
Rồi
vị
Tỳ-kheo
cần
phải
chế
ngự
các
căn,
đóng
chúng
lại,
khéo
điều
phục
tâm
ý,
luôn
luôn
có
chánh
trí.
Khi
mắt
thấy
sắc,
vị
ấy
không
nắm
giữ
tướng
chung,
không
thích
thú
trong
sắc
pháp.
Chính
vì
để
lắng
dịu
sự
giận
dữ
và
gây
gỗ,
để
đề
phòng
sự
nổi
dậy
của
tham,
sầu,
khổ,
và
các
ác
bất
thiện
pháp,
mà
các
căn
cần
phải
được
chế
ngự.
Cũng
thế
với
tai,
mũi,
lưỡi,
thân
và
ý.
P:
Gần
giống
như
trên.
C:
vị
Tỳ-kheo
cần
phải
chế
ngự
các
giác
quan...
có
chánh
trí
=
P:
căn
môn
cần
phải
được
phòng
hộ.
C:
không
thích
thú
trong
các
sắc
pháp
=
P:
không
nắm
giữ
những
chi
tiết
về
sắc
pháp.
Bản
này
bỏ:
vì
muốn
lắng
dịu
sự
thù
hận
và
gây
gổ.
4.
Chánh
niệm
trong
các
uy
nghi:
C:
(40a,11-14):
Rồi
vị
Tỳ-kheo
cần
phải
tỉnh
giác
khi
đi
ra,
đi
vào,
chánh
niệm
tỉnh
giác
khi
co
tay,
duỗi
tay,
khi
cúi
xuống,
ngước
lên,
có
uy
nghi
chánh
hạnh,
mặc
y
ngoài
một
cách
đúng
pháp,
mang
bát
đúng
pháp.
Khi
đi,
đứng,
nằm,
ngủ,
thức,
nói
hay
im,
vị
ấy
đều
tỉnh
giác.
P:
(35,11-17):
Gần
như
trên.
Về
oai
nghi
của
vị
Tỳ-kheo,
bản
Pàli
thêm:
đến
gần,
đi
xa,
ngước
lên,
nhìn
xuống,
ăn,
uống,
nhai,
thưởng
thức,
tiểu
tiện,
đại
tiện.
Bản
P
bỏ:
đi
ra,
đi
vào,
cúi
xuống,
ngước
lên,
có
oai
nghi
và
chánh
hạnh.
Nhưng
trong
C
144
(75a,11-13)
có
thêm
hai
giai
đoạn
nữa,
quán
chánh
niệm
và
tránh
các
tư
tưởng
liên
hệ
đến
dục
như
sau:
"Khi
vị
Tỳ-kheo
đã
hoàn
tất
giai
đoạn
đầu,
vị
ấy
cần
được
dạy
quán
nội
thân
như
là
thân
thể
cho
đến
quán
cảm
thọ,
quán
tâm
và
quán
pháp,
vị
ấy
không
được
tư
duy
những
tư
duy
liên
hệ
đến
dục
vọng."
Bản
P
không
có.
Nhưng
bản
P(iii,2,26,33)
thêm
hai
giai
đoạn
nữa
ở
sau
chánh
niệm
uy
nghi:
a)
Tiết
độ
trong
ăn
uống,
tỉnh
giác
trong
khi
ăn,
không
phải
để
vui
đùa,
không
phải
để
đam
mê,
không
phải
để
tự
làm
đẹp
mình,
mà
chỉ
để
duy
trì
cơ
thể,
giữ
cho
nó
sống,
không
bị
hại,
để
tuân
giữ
đời
sống
phạm
hạnh,
để
nhổ
tận
gốc
những
cảm
thọ
cũ
và
ngăn
ngừa
những
cảm
thọ
mới,
để
Tỳ-kheo
có
thể
sống
an
ổn,
không
lỗi
lầm;
b)
Rồi
vị
Tỳ-kheo
cần
phải
chú
tâm
cảnh
giác;
trong
lúc
tới
lui
vào
ban
ngày
và
đầu
đêm,
vị
ấy
phải
thanh
lọc
tâm
khỏi
các
chướng
ngại
pháp;
vào
đêm
canh
giữa,
trong
lúc
nằm
xuống
hông
bên
phải
theo
dáng
sư
tử,
hai
chân
chồng
nhau,
vị
ấy
phải
chánh
niệm
nghĩ
đến
lúc
thức
dậy;
vào
canh
cuối,
sau
khi
thức
dậy
đi
tới
đi
lui,
vị
ấy
phải
thanh
lọc
tâm
khỏi
các
pháp
chướng
ngại.
5.
Sử
dụng
các
vật
cần
dùng:
Kinh
C10,
Lậu
tận:
(v,13b,
5-9):
"Tỳ-kheo
sử
dụng
y
phục,
không
phải
vì
lợi
lộc,
không
phải
vì
kiêu
mạn,
không
phải
để
trang
sức,
mà
chỉ
để
che
chở
thân
khỏi
muỗi,
ruồi,
gió,
mưa,
lạnh,
nóng
để
che
đậy
sự
hổ
thẹn.
Khi
dùng
đồ
ăn
uống,
không
phải
vì
lợi
lộc,
kiêu
mạn,
vì
lạc
thú
mập
phì,
mà
chỉ
để
duy
trì
cơ
thể
được
sống
lâu,
để
trừ
khử
ưu,
não,
sầu,
bi,
để
duy
trì
đời
sống
phạm
hạnh,
để
xua
đuổi
cơn
bệnh
cũ
và
đề
phòng
bệnh
mới,
để
được
sống
lâu,
an
ổn,
không
bệnh.
Khi
Tỳ-kheo
sử
dụng
trú
xứ,
phòng,
nhà,
giường,
chiếu,
đồ
nằm,
không
phải
để
lợi
lộc,
không
phải
để
kiêu
mạn,
không
phải
để
trang
sức,
mà
chỉ
để
chấm
dứt
sự
mệt
mỏi
của
việc
tọa
thiền.
Khi
Tỳ-kheo
sử
dụng
dược
phẩm
trị
bệnh,
không
phải
vì
lợi
lộc,
kiêu
mạn,
không
vì
lạc
thú
mập
phì,
mà
chỉ
để
trừ
khử
ưu
não
do
bệnh
gây
nên,
để
duy
trì
mạng
sống,
để
sống
an
ổn,
không
bệnh."
Bản
P2,
Tất
cả
lậu
hoặc:
(i,
10,
4-23):
Không
giống
như
trên.
Về
sự
sử
dụng
y
phục,
bản
P
thêm
như
lý
tác
ý
vào
thái
độ
của
Tỳ-kheo
và
thêm
sirimsapa
vào
trong
danh
sách
muỗi
và
ruồi.
Nó
bỏ:
không
vì
lợi
lộc,
không
vì
kiêu
mạn,
không
vì
trang
sức.
Về
sự
sử
dụng
thức
ăn
uống,
bản
C
nói:
thức
ăn
uống
=
bản
P:
đồ
ăn
khất
thực.
Ở
đây
bản
P
nói
Tỳ-kheo
sử
dụng
đồ
ăn
khất
thực
không
phải
vì
thể
thao
(davà),
không
phải
để
đam
mê
(madàya),
không
phải
để
trang
hoàng,
không
để
làm
đẹp
mình,
mà
để
duy
trì
mạng
sống,
để
mạng
sống
khỏi
bị
hại,
để
duy
trì
đời
sống
phạm
hạnh,
để
diệt
trừ
cảm
thọ
cũ,
ngăn
ngừa
cảm
thọ
mới
khởi
lên,
để
sống
không
lỗi,
được
an
ổn.Về
sử
dụng
trú
xứ,
bản
P
sử
dụng
một
danh
từ
duy
nhất
là
sàng
tọa.
Nó
bỏ:
"không
phải
để
trang
sức.v.v."
và
nói
để
che
chở
khỏi
lạnh
nóng,
tránh
muỗi
ruồi,
gió,
sức
nóng
mặt
trời,
các
loài
bò
sát,
để
tẩy
trừ
sự
khắc
nghiệt
của
mùa,
để
hưởng
sự
độc
cư.
Về
sử
dụng
dược
phẩm
trị
bệnh,
bản
P
dùng
danh
từ
gilàna-paccaya
bhesajjaparikkhàra.
Bản
P
bỏ:
"không
vì..."
nhưng
nói
"để
trừ
diệt
những
cảm
thọ
khởi
lên
phát
sinh
ra
đau
đớn,
để
được
an
lạc
hoàn
toàn."
Ghi
chú:
Về
danh
từ
sirimsapa,
vị
trí
của
nó
ở
đây
khá
lạ
lùng,
vì
nó
đáng
lẽ
đặt
gần
các
từ
damsa,
makasa.
Trong
truyền
thống
P,
chỉ
có
những
nhu
yếu
tích
cực
về
y
phục
được
nói
đến,
nhưng
không
có
trường
hợp
nào
về
sự
sử
dụng
sai
được
kể
ra.
Trong
bản
C,
danh
từ
kiêu
mạn
được
dùng
để
dịch
chữ
màdàya,
chữ
này
trong
tiếng
P
vừa
có
nghĩa
kiêu
mạn,
vừa
có
nghĩa
mê
say,
và
ở
đây
nghĩa
mê
say
thích
hợp
hơn.
Về
sự
sử
dụng
đồ
ăn
khất
thực,
bản
P
nói:
"không
vì
trang
sức
(vibhùsana),
không
vì
trang
hoàng".
Điều
này
có
vẻ
khá
gượng
ép
ở
đây.
Bản
C
có
lẽ
dễ
nghe
hơn.
Nhận
xét
chung:
Như
vậy
về
phương
diện
giới,
không
có
khác
nhau
nhiều
giữa
đạo
đức
thực
hành.
Những
bất
đồng
rải
rác
chỉ
cho
thấy
những
tiểu
dị
giữa
hai
bộ
phái
mà
hai
bản
kinh
tiêu
biểu.
Như
vậy
sự
bỏ
mất
học
giới
"không
nhận
thịt
sống"
ra
khỏi
bản
C
rất
ý
nghĩa,
vì
nó
chứng
tỏ
thái
độ
chủ
trương
ăn
chay
của
các
nhà
Nhất
thiết
hữu
bộ
từ
một
thời
rất
xa
xưa.
B.
ĐỊNH
Trong
đoạn
nói
về
định,
trước
hết
chúng
ta
đề
cập
37
bồ
đề
phần
pháp,
kế
đến
sự
diệt
trừ
năm
triền
cái,
rồi
đến
bốn
thiền
thuộc
sắc
địa,
bốn
phạm
trú,
bốn
thiền
thuộc
vô
sắc
địa,
diệt
thọ
tưởng
và
vô
tưởng,
và
cuối
cùng
là
năm
thắng
trí.
1.
Ba
mươi
bảy
Bồ-đề
phần:
Trong
NC
66,
kinh
Châu
na,
C196
(vii,
56a,13)
đề
cập
những
pháp
bốn
niệm
xứ,
bốn
chánh
đoạn,
bốn
thần
túc,
năm
căn,
năm
lực,
bảy
giác
chi
và
tám
thánh
đạo.
So
sánh
chúng
với
bản
P
tương
đương,
(P104,
Làng
Sàma,)
chúng
ta
thấy
không
có
khác
nhau
giữa
hai
bản
ngoại
trừ
P
đểõ
bốn
chánh
cần
thay
vì
bốn
chánh
đoạn
như
C.
a)
Tứ
niệm
xứ:
Sự
giống
nhau
giữa
bản
C
và
bản
P
được
thấy
rõ
trong
NC8:
(P10=C98:
Niệm
xứ)
ở
đấy
bốn
niệm
xứ
được
mô
tả
dài
dòng
như
dưới
đây:
C98:
Kinh
Niệm
xứ
(vi,18a,13-14):
Bốn
niệm
xứ
là
gì?
Quán
thân
như
thân.
Cũng
thế
đối
với
thọ,
tâm
và
pháp.
P
10:
(i,56,4-11):
Gần
giống.
Bản
P
không
sử
dụng
hình
thức
rút
ngắn
như
bản
C.
i)
Quán
thân:
Bản
C
kể
18
cách
quán
thân
trong
khi
bản
P
chỉ
kể
9
cách.
Những
cách
tương
đương
như
sau:
C1=P2;
C2=P3;
C5=P1;
C12=P4;
C13=P5;
C14=P7.
Bản
C
3,
4,
6,
7,
8,
9,
10,
11,
15
không
có
trong
P.
C1:
(18b,14-15):
"Tỳ-kheo
khi
đi
biết
rằng
mình
đang
đi,
khi
ngồi
biết
mình
đang
ngồi,
khi
nằm
xuống
biết
mình
đang
nằm
xuống,
khi
ngủ
biết
mình
đang
ngủ,
khi
thức
biết
mình
đang
thức,
khi
ngủ
dậy
biết
mình
đang
ngủ
dậy.
Vị
ấy
quán
nội
thân
như
là
thân
thể,
quán
ngoại
thân
như
là
thân
thể,
chú
tâm
trên
thân
thể,
hiểu
biết
sanh,
tri
kiến
sanh,
ánh
sáng
sanh,
chứng
đắc
sanh.
Đây
gọi
là
Tỳ-kheo
quán
thân
thể
như
là
thân
thể."
P2:
(56,11-14;
27-38;
57,1-4):
Tương
tự.
Nói
thêm
trường
hợp
một
Tỳ-kheo
đi
vào
một
khu
rừng,
hay
dưới
gốc
cây,
hay
ngôi
nhà
trống,
ngồi
kiết
già,
lưng
thẳng,
chánh
niệm.
Về
phép
quán
gần
giống
nhau.
Bản
P
bỏ
chi
tiết
về
Tỳ-kheo
ngủ,
thức,
ngủ
dậy,
và
thêm
một
câu
tổng
quát
nói
rằng
bất
cứ
thân
thể
có
vị
trí
nào,
vị
ấy
cũng
biết
rõ.
Về
phần
ở
cuối
mỗi
đoạn,
bản
P
có
nhiều
chi
tiết
hơn.
Nó
thêm:
quán
thân
trên
nội
thân,
quán
thân
trên
ngoại
thân,
quán
tánh
sanh
khởi
của
các
pháp,
tánh
diệt
tận
của
các
pháp,
sự
sanh
và
diệt
của
các
pháp
trong
thân.
Bản
P
không
nói
gì
về
việc
trí
sanh,
nhãn
sanh,
quang
sanh,
minh
sanh,
nó
chỉ
nói:
vị
ấy
chánh
niệm
thân
thể
trên
thân
thể...để
gột
rửa
tham
ưu,
không
nương
tựa
chấp
thủ
bất
cứ
gì
trên
đời.
C2:
(18b,15-17):
"Lại
nữa
vị
ấy
biết
rõ
khi
đi
ra,
đi
vào,
chánh
niệm
tỉnh
giác;
khi
co
tay
duỗi
tay,
cúi
xuống
ngước
lên,
với
uy
nghi
chánh
hạnh,
khi
mặc
thượng
y
và
y
phục,
khi
cầm
bình
bát,
khi
đi,
đứng,
ngồi,
nằm,
ngủ,
thức,
nói,
im,
vị
ấy
đều
biết
rõ."
P3:
(57,
6-13):
Bản
P
bỏ
khi
vị
ấy
đi
ra
đi
vào,
với
oai
nghi
tề
chỉnh,
nhưng
thêm:
khi
vị
ấy
đi
tới,
đi
lui,
nhìn
trước,
ngó
quanh,
khi
ăn,
uống
nhai,
nếm,
khi
đại
tiểu
tiện.
Bản
C:
quán
sát
rõ,
phân
biệt
rõ,
vị
ấy
biết
một
cách
chân
chánh
=
P:
hoàn
toàn
tỉnh
giác.
C3:
(18b,17-19):
"Khi
những
ý
tưởng
ác
bất
thiện
khởi
lên,
vị
Tỳ-kheo
dùng
những
thiện
pháp
để
điều
chỉnh,
cắt
đứt,
dập
tắt,
ngăn
chận
chúng.
Như
một
người
thợ
mộc,
đệ
tử
người
thợ
mộc
dùng
một
dây
mực
để
kẻ
đường
thẳng
trên
gỗ.
Rồi
với
một
cái
cưa
bén,
ông
ta
cưa
đứt
nó
và
làm
cho
nó
thẳng."
Bản
P:
không
có.
C4:
(18b,19-20;
19a,
1-2):
"Vị
Tỳ-kheo
nghiến
răng,
dán
chặt
lưỡi
trên
nóc
họng,
dùng
tâm
chế
ngự
tâm,
cắt
đứt,
dập
tắt,
chặn
đứng,
như
hai
người
đô
vật
tóm
lấy
một
người
ốm
yếu,
nắm
chặt,
xoay
anh
ta
và
đánh
đập
tùy
thích."
bản
P:
không
có.
C5:
(19a,
2-4):
"Khi
Tỳ-kheo
nghĩ
đến
sự
thở
vào,
vị
ấy
biết
mình
đang
nghĩ
đến
thở
vào;
khi
nghĩ
thở
ra,
vị
ấy
biết
mình
đang
nghĩ
thở
ra;
khi
hít
vào
một
hơi
dài,
vị
ấy
biết
mình
đang
hít
vào
một
hơi
dài;
khi
thở
ra
một
hơi
dài,
vị
ấy
biết
mình
đang
thở
ra
một
hơi
dài;
khi
hít
vào
một
hơi
ngắn,
vị
ấy
biết
mình
đang
hít
vào
một
hơi
ngắn;
khi
thở
ra
một
hơi
ngắn,
vị
ấy
biết
mình
đang
thở
ra
một
hơi
ngắn;
vị
ấy
tập
cảm
giác
toàn
thân
khi
thở
vào,
vị
ấy
tập
cảm
giác
toàn
thân
khi
thở
ra;
vị
ấy
tập
an
tịnh
thân
hành
khi
thở
vào;
vị
ấy
tập
an
tịnh
thân
hành
khi
thở
ra."
P1:
(56,
14-32):
Gần
giống.
Một
điểm
khác
là:
C:
Vị
ấy
tập
an
tịnh
ngữ
hành
khi
thở
ra.
P:
Thay
bằng
thân
hành,
và
như
vậy
đúng
hơn.
Để
làm
sáng
tỏ
đoạn
này,
bản
P
thêm
ví
dụ
với
người
thợ
quay
biết
rõ
khi
quay
ngắn
hay
quay
dài.
Ghi
chú:
Trong
đoạn
"Vị
ấy
tập
cảm
giác
toàn
thân
khi
thở
vào",
người
biên
tập
kinh
C
có
ghi
chú
sự
hoài
nghi
của
mình
về
hai
danh
từ
"học"
là
huấn
luyện
học
tập
và
"giác"
có
nghĩa
là
cảm
giác,
và
lưỡng
lự
không
biết
nên
sử
dụng
danh
từ
nào.
Kỳ
thực
người
dịch
kinh
C
sử
dụng
danh
từ
"học"
để
dịch
chữ
sikkhati
và
danh
từ
"giác"
để
dịch
chữ
vedanà.
Những
nhà
phiên
dịch
về
sau
dùng
chữ
"tho"ï
là
nhận
để
dịch
danh
từ
vedanà.
Nếu
ta
so
sánh
với
đoạn
P:
sabbakàyapatisamvedì
assissàmìti
sikkhati
(cảm
giác
thân
hành
tôi
sẽ
thở
ra,
vị
ấy
tập)
ta
thấy
rằng
cần
sử
dụng
cả
hai
danh
từ
ấy
ở
đây.
C6:
(19a,
4-7):
"Với
hỷ
lạc
do
độc
cư
sanh,
vị
Tỳ-kheo
thấm
nhuần
thân
thể,
tẩm
ướt
toàn
diện
và
cùng
khắp.
Trong
thân
này,
niềm
hỷ
lạc
do
độc
cư
ấy
thấm
lan
khắp,
không
một
nơi
nào
không
thấm.
Như
một
người
hầu
tắm
sau
khi
làm
sạch
bồn
tắm,
bỏ
bột
tắm
vào
quậy
với
nước
làm
thành
một
khối.
Nước
ấy
thấm
khắp,
tẩm
ướt
toàn
thân,
không
chỗ
nào
là
không
thấm."
P:
không
có.
C7:
(19a,7-10):
"Với
hỷ
lạc
thiền
định,
vị
Tỳ-kheo
thấm
nhuần
toàn
thân,
trọn
vẹn
và
cùng
khắp.
Trong
thân
này,
hỷ
lạc
do
thiền
định
sanh
thấm
khắp,
không
một
chỗ
nào
không
thấm.
Như
một
dòng
suối
từ
trên
núi
cao
chảy
xuống
trong
sáng
tràn
đầy.
Nước
từ
bốn
phương
không
thể
chảy
vào.
Nhưng
nước
từ
dưới
đáy
suối
tuôn
lên,
chảy
tràn
và
lan
khắp,
làm
đầy
hồ,
không
một
nơi
nào
không
lan
đến."
P:
không
có.
C8:
(19a,
10-13):
"Ly
hỷ
chỉ
còn
lạc,
vị
Tỳ-kheo
thấm
nhuần
thân
thể
với
lạc
thọ
ấy
cùng
khắp.
Trong
thân
này,
lạc
ấy
lan
khắp,
không
một
nơi
nào
không
lan.
Như
những
hoa
sen
xanh,
hồng,
đỏ,
trắng
sinh
trong
nước,
lớn
lên
trong
nước
và
ở
trong
lòng
nước;
những
rễ,
cọng,
hoa,
lá
của
nó
đều
được
thấm
nhuần
tẩm
ướt
một
cách
trọn
vẹn,
không
một
nơi
nào
không
thấm"
P:
Không
có.
C9:
(19a,13-15)
:
"Với
tâm
thuần
tịnh,
hiểu
biết,
vị
Tỳ-kheo
an
trú
thân
này
;
trong
thân
này,
không
một
chỗ
nào
là
không
được
thấm
nhuần
bằng
cái
tâm
thuần
tịnh
tỉnh
giác.
Như
một
người
trùm
toàn
thân
bằng
một
tấm
vải
rộng
bảy,
tám
sãi
tay,
từ
đầu
đến
chân
không
một
chỗ
nào
thân
thể
không
được
che
trùm."
P:
Không
có.
C10:
(19a,16-18):
"Vị
Tỳ-kheo
quán
sát
tưởng
chói
sáng,
khéo
gìn
giữ
trong
tâm
những
gì
mà
tâm
quán
tưởng.
Lúc
đầu
cũng
như
lúc
cuối,
lúc
cuối
cũng
như
lúc
đầu;
ngày
như
đêm,
đêm
như
ngày;
dưới
như
trên,
trên
như
dưới.
Như
vậy
với
tâm
không
tán
loạn,
không
rối
ren,
vị
ấy
tu
tập
tâm
với
quang
tưởng,
tâm
không
bao
giờ
bị
bao
phủ
trong
bóng
tối."
P:
Không
có.
C11:
(19a,
18-20):
"Vị
Tỳ-kheo
khéo
thu
vào
hình
ảnh
quán
tưởng,
khéo
nhớ
lại
những
gì
mà
tâm
nhận
thức.
Giống
như
một
người
ngồi
nhìn
một
người
đang
nằm,
hoặc
một
người
đang
nằm
nhìn
một
người
đang
ngồi."
P:
Không
có.
C12:
(19a,
20;
19b,
1-4):
"Thân
thể
này,
đang
sống,
theo
những
ưa
và
chán
của
nó,
từ
đầu
xuống
đến
chân,
Tỳ-kheo
quán
sát
và
thấy
nó
đầy
những
thành
phần
bất
tịnh:
'Thân
này
của
ta
gồm
tóc,
lông,
móng,
răng,
da
dày,
da
mỏng,
thịt,
gân,
xương,
tim,
thận,
gan,
phổi,
ruột
già,
ruột
non,
lá
lách,
bao
tử,
phân,
não,
hộp
não,
nước
mắt,
mồ
hôi,
nước
mũi,
đàm,
mủ,
máu,
mỡ,
tủy,
nước
bọt,
mật,
nước
tiểu.
Nó
giống
như
một
thùng
đựng
nhiều
hạt
giống,
một
người
có
mắt
phân
biệt
rõ
ràng
đây
là
lúa,
mè,
cải,
hột
mù
tạt...'
"
P4:
(57,13-34)
:
Trong
bản
P,
những
bất
tịnh
của
thân
thể
gồm
có
31
pháp,
hơn
C
một
pháp.
Mặc
dù
nhiều
bất
tịnh
chiếm
cùng
vị
trí
trong
bảng
kê,
thứ
tự
chúng
có
chỗ
không
đồng.
P
bỏ:
não
và
hộp
não.
C
bỏ:
hoành
cách
mô,
mỡ
da,
nước
khớp
xương.
C:
da
dày,
da
mỏng
=
P:
taco.
Ở
đây
bản
P
có
thứ
tự
như
sau:
tóc,
lông,
móng,
răng,
da,
thịt,
gân,
xương,
thận,
tủy,
tim,
gan,
hoành
cách
mô,
lá
lách,
bao
tử,
phổi,
ruột
non,
ruột
già,
màng
ruột,
mật,
đàm,
mủ
máu,
mồ
hôi,
nước
mắt,
nước
mũi,
nước
khớp
xương,
nước
tiểu.
Trong
ẩn
dụ,
bản
C
nói
đến
một
thùng
chứa,
trong
khi
bản
P
sử
dụng
danh
từ
ubhatomukhà
mutolì
là
một
thứ
bao
có
hai
đáy.
P
kể
sáu
loại
ngũ
cốc:
sàlì,
vìhì,
muggà,
màsà,
tilà,
tandulaø
(gạo,
lúa,
đậu
xanh,
đậu
nành,
mè,
gạo
lứt?).
C13:
(19b,
4-6):
"Lại
nữa
vị
Tỳ-kheo
quán
sát
thân
thể
này
như
là
thân
thể.
Vị
Tỳ-kheo
quán
sát
thân
này
với
các
thành
phần
:
'Thân
thể
này
của
ta
có
địa
giới,
thủy
giới,
hỏa
giới,
phong
giới,
không
giới,
thức
giới.
Như
người
đồ
tể
sau
khi
giết
một
con
bò,
lột
da
đặt
nó
trên
đất
mà
chia
thành
sáu
phần.'
"
P5:
(57,
35-37;
58-18)
:
Bản
P
chỉ
nói
bốn
giới
đầu,
bỏ
không
giới
và
thức
giới.
Trong
ẩn
dụ
của
bản
P,
nói
một
đồ
tể
thiện
xảo
hay
đệ
tử
của
người
đồ
tể
ngồi
ở
ngã
tư
đường
và
trưng
bày
những
thành
phần
của
con
bò
cái
mà
anh
ta
đã
giết.
-
Quán
các
giai
đoạn
tan
rã
của
xác
chết:
Ở
đây
cả
hai
bản
đều
mô
tả
vị
Tỳ-kheo
quán
sát
những
giai
đoạn
tàn
tạ
của
một
thây
chết
bị
ném
ra
nghĩa
địa
(bản
P),
cho
đến
bảy
ngày
(bản
C)
hoặc
cho
đến
ba
ngày
(bản
P).
C1:
(19b,
6-8):
"Lại
nữa
vị
Tỳ-kheo
quán
sát
thân
thể
như
là
thân
thể.
Vị
Tỳ-kheo
quán
sát
thi
thể
kia
đã
chết
một
ngày,
hai
ngày
cho
đến
sáu,
bảy
ngày,
bị
quạ
và
diều
mổ,
bị
chó
sói
và
chồn
hoang
ăn,
bị
lửa
đốt,
bị
chôn
dưới
đất,
phải
tàn
tạ,
hôi
thối,
tan
rã."
P1:
(58,
9-11):
Bản
P
nói
đến
một
thân
thể
bị
ném
ra
nghĩa
địa
một
ngày
hoặc
hai
ba
ngày,
phồng
lên,
xanh
bầm
và
hôi
thối.
C2:
(19b,
8-10):
"...một
bộ
xương
có
màu
xanh
bầm,
hôi
thối,
bị
rữa
ra,
bị
ăn
hết
hơn
một
nửa,
với
những
bộ
xương
còn
liên
kết
nằm
trên
mặt
đất."
P2:
(58,
15-19):
"Thân
này
bị
ném
vào
nghĩa
địa
và
bị
ăn
bởi
những
con
quạ,
diều
hâu,
kên
kên,
chồn
hoang,
bởi
đủ
thứ
sâu
bọ."
C3
và
C4:
(19b,
10-14):
"...bộ
xương
không
có
da,
đã
hết
máu,
còn
thịt,
còn
đường
gân
liên
kết
...
bộ
xương
không
còn
gân
dính
liền,
rải
rác
khắp
mọi
hướng:
một
đốt
xương
bàn
chân,
một
xương
ống
chân,
một
xương
đùi,
một
xương
mông,
một
xương
bả
vai,
một
xương
cổ,
một
xương
sọ
nằm
rải
rác
chỗ
này
chỗ
kia."
P3:
(58,
23-31):
"Một
bộ
xương
còn
thịt
và
máu,
còn
đường
gân
liên
kết,
một
bộ
xương
không
còn
liên
kết
rải
rác
khắp
mọi
hướng,
chỗ
này
chỗ
kia
một
xương
bàn
tay,
một
xương
bàn
chân,
một
xương
ống
chân,
một
xương
đùi,
một
xương
vế,
một
xương
sống
lưng,
một
xương
đầu."
C5:
(19b,
14-17)
:
"...Những
xương
màu
trắng
như
vỏ
ốc,
xanh
như
màu
bồ
câu,
đỏ
như
thể
loang
lổ
máu,
bị
tàn
tạ,
thối
rữa,
rã
rời,
và
tan
thành
bột
phấn."
P4:
(58,
34-37;
59,1):
"Những
cái
xương
trắng
màu
vỏ
ốc,
chất
thành
từng
đống
đã
hơn
một
năm
(terovassikàni),
những
cái
xương
hôi
thối,
tan
rã
thành
đất,
chỉ
còn
là
bột."
-
Sự
quán
tưởng
của
vị
Tỳ-kheo
về
những
nơi
ấy:
C:
(19b,7-8)
:
"Sau
khi
trông
thấy
điều
này,
Tỳ-kheo
so
sánh
với
chính
thân
thể
mình:
'Thân
ta
rồi
cũng
ra
như
thế,
theo
định
luật
ấy,
cuối
cùng
không
thể
nào
thoát
khỏi.'
Như
vậy
vị
Tỳ-kheo
quán
nội
thân
như
là
thân
thể,
quán
ngoại
thân
như
là
thân
thể,
an
trú
tâm
trên
thân,
liên
hệ
đến
trí,
liên
hệ
đến
tri
kiến...
Như
vậy
là
quán
thân
trên
thân."
P:
(59,1-10):
Vị
Tỳ-kheo
quán
sát
thân
này
bản
chất
là
như
vậy,
thân
này
sẽ
trở
thành
như
vậy,
không
thể
nào
khác
hơn,
còn
lại
như
trên.
Nhận
xét:
Ở
đây
bản
P
bỏ
từ
đoạn
sáu
đến
đoạn
chín
của
bản
P.
Nhưng
trong
NC74,
bốn
đoạn
ấy
liên
hệ
đến
sự
chứng
đắc
bốn
thiền
thì
cũng
có
như
trong
bản
P.
Nghiên
cứu
tỷ
giảo
các
đoạn
này
trong
hai
bản
dịch
sẽ
cho
thấy
những
điểm
đồng
và
dị
như
sau:
C6
=
P10:
(P
119,
iii):
Gần
giống.
Bản
P
thêm
sự
chứng
đắc
sơ
thiền
với
năm
thiền
chi.
Ví
dụ
cũng
gần
như
nhau.
Bột
tắm
ở
bản
C
=
P:
nahàniyacunnàni.
Bản
P
thêm:
không
có
trào
ra.
Còn
lại
cũng
giống
nhau.
C7
=
P11:
(P93,
4-23):
Tương
tự.
Ở
đây
P
thêm
sự
chứng
đắc
nhị
thiền
với
các
thiền
chi,
ví
dụ
cả
hai
giống
nhau.
Bản
C:
một
suối
nước
tuôn
từ
trên
núi
xuống,
trong
sáng,
tràn
đầy
=
P:
một
hồ
nước
đầy.
Trong
khi
bản
C
nói
đến
nước
tuôn
lên
từ
dưới
đáy
và
tràn
ra
ngoài,
thấm
khắp
ngọn
núi,
bản
P
nói
rằng,
mặc
dù
thỉnh
thoảng
trời
không
trút
mưa
xuống,
nhưng
nước
mát
tuôn
từ
dưới
lên
sẽ
làm
đầy
hồ
với
nước
mát
lạnh.
C8
=
P12:
(P
93,
24-33;
94,
1-8):
Gần
giống
nhau.
Ở
đây
bản
P
thêm
sự
chứng
đắc
tam
thiền
theo
thể
thức
thuờng
lệ.
Ví
dụ
cũng
gần
giống
nhau.
Bản
P
thêm:
trong
một
ao
đầy
sen
xanh,
đỏ,
trắng;
và
bỏ:
sen
hồng.
Bản
C:
rễ,
nhánh,
hoa,
lá
của
nó
=
bản
P:
từ
ngọn
cho
đến
rễ.
C9
=
P13:
(P
94,
9-21):
Gần
giống
nhau.
Ở
đây
bản
P
thêm
sự
chứng
đắc
thiền
thứ
tư
theo
công
thức
thường
lệ.
Ví
dụ
cũng
gần
giống
nhau.
Bản
P
nói
thêm
con
người
đang
ngồi.
C:
một
tấm
vải
dài
bảy,
tám
sãi
tay
=
P:
tấm
vải
trắng.
ii)
Quán
thọ:
C:
(19b,17-20)
:
"Thế
nào
là
quán
cảm
thọ
như
là
cảm
thọ?
Tỳ-kheo
khi
cảm
giác
lạc
thọ,
biết
rằng
mình
đang
cảm
giác
lạc
thọ;
khi
cảm
giác
khổ
thọ
biết
mình
đang
cảm
giác
khổ
thọ.
Khi
cảm
giác
bất
khổ
bất
lạc
thọ,
biết
mình
đang
cảm
giác
bất
khổ
bất
lạc
thọ.
Khi
cảm
giác
một
lạc
thọ
về
thân,
một
khổ
thọ
về
thân,
một
bất
khổ
bất
lạc
thọ
về
thân;
một
lạc
thọ
về
tâm,
một
khổ
thọ
về
tâm,
một
bất
khổ
bất
lạc
thọ
về
tâm;
một
lạc
thọ
liên
hệ
đến
thực
phẩm,
một
khổ
thọ
liên
hệ
đến
thực
phẩm,
một
bất
khổ
bất
lạc
thọ
liên
hệ
đến
thực
phẩm;
một
lạc
thọ
không
liên
hệ
đến
thực
phẩm,
một
khổ
thọ
không
liên
hệ
đến
thực
phẩm,
một
bất
khổ
bất
lạc
thọ
không
liên
hệ
đến
thực
phẩm;
một
lạc
thọ
về
dục,
một
khổ
thọ
về
dục,
một
bất
khổ
bất
lạc
thọ
về
dục;
một
lạc
thọ
về
ly
dục,
một
khổ
thọ
về
ly
dục,
một
bất
khổ
bất
lạc
thọ
về
ly
dục.
Khi
ấy,
vị
ấy
biết
mình
đang
cảm
thọ...
một
cảm
thọ
ly
dục
không
lạc
không
khổ."
(Phần
còn
lại
cũng
như
trong
trường
hợp
quán
thân).
P:
(i,
59,
11-28):
Gần
giống
nhau.
P
bỏ:
thân
lạc
thọ,
thân
khổ
thọ,
thân
bất
khổ
bất
lạc
thọ,
tâm
lạc
thọ,
tâm
khổ
thọ,
tâm
bất
khổ
bất
lạc
thọ,
lạc
thọ
về
dục,
khổ
thọ
về
dục,
bất
khổ
bất
lạc
thọ
về
dục,
lạc
thọ
về
ly
dục,
khổ
thọ
về
ly
dục,
bất
khổ
bất
lạc
thọ
về
ly
dục.
Bản
C:
lạc
thọ
liên
hệ
đến
thực
phẩm
=
P:
lạc
thọ
liên
hệ
đến
lợi
lộc
vật
chất.
Nhận
xét
tương
tự
đối
với
hai
cảm
thọ
kia
và
ba
cảm
thọ
không
liên
hệ
đến
thực
phẩm.
iii)
Quán
tâm:
C:
(20a,1-4):
"Vị
Tỳ-kheo
khi
tâm
có
tham
dục
biết
rõ
như
thật
rằng
tâm
có
tham
dục;
khi
tâm
không
tham
dục
vị
ấy
rõ
biết
như
thật
tâm
không
tham
dục."
Tương
tự
với
sân,
không
sân;
si,
không
si;
có
lỗi
không
lỗi;
tâm
tập
trung,
tâm
phân
tán;
tâm
thấp
hèn,
tâm
cao
thượng;
tâm
nhỏ
nhen,
tâm
quảng
đại;
tâm
có
tu
tập,
tâm
không
tu
tập;
tâm
định
tĩnh,
tâm
không
định
tĩnh;
với
tâm
không
giải
thoát
biết
như
thật
tâm
không
giải
thoát,
với
tâm
giải
thoát
vị
ấy
biết
như
thật
rằng
tâm
giải
thoát.
(Còn
lại
cũng
giống
như
những
chương
trước).
P:
(59,
29-37;
60,
1-6):
Gần
giống
nhau.
Bản
P
bỏ:
tâm
có
lỗi,
không
lỗi;
có
tu
tập,
không
tu
tập;
cũng
bỏ:
như
thật.
iv)
Quán
pháp:
C:
(20a,
4
-
15):
"Con
mắt
do
sắc
pháp
khởi
lên
những
nội
kiết
sử.
Vị
Tỳ-kheo
khi
trong
tâm
có
nội
kiết,
như
thật
biết
rằng
mình
có
nội
kết;
khi
trong
tâm
không
có
nội
kiết,
như
thật
biết
rằng
mình
không
có
nội
kiết.
Khi
nội
kiết
chưa
sanh
khởi,
vị
ấy
như
thật
biết
chúng;
khi
những
nội
kết
đã
sanh
được
đoạn
trừ
không
sanh
trở
lại,
vị
ấy
như
thật
biết
chúng.
Cũng
vậy
với
tai,
mũi,
lưỡi,
thân,
ý.
Đây
gọi
là
Tỳ-kheo
quán
pháp
như
pháp
theo
sáu
xứ."
Rồi
bản
C
tiếp
tục
với
phương
pháp
ấy
và
cách
giải
thích
đối
với
năm
triền
cái,
bảy
giác
chi.
P:
(60,
6-37;
61,
1-17):
Gần
giống
nhau,
trừ
các
chỗ
khác
nhau
như
sau:
a)
Những
pháp
được
dùng
để
quán
trong
bản
P
là
năm
triền
cái,
năm
thủ
uẩn,
sáu
nội
ngoại
xứ,
bảy
bồ
đề
phần,
bốn
đế;
Như
vậy
bản
C
bỏ
năm
thủ
uẩn
và
bốn
đế;
b)
Bản
C
chỉ
nói
sáu
nội
xứ
mà
không
nói
đến
sáu
ngoại
xứ;
c)
Bản
C
khởi
đầu
với
sáu
nội
xứ
rồi
đến
năm
triền
cái,
P
khởi
đầu
bằng
năm
triền
cái,
đến
năm
thủ
uẩn,
đến
sáu
nội
ngoại
xứ.
v)
Hai
quả
chứng
nhờ
thực
hành
niệm
xứ:
C:
(20a,
15-19)
=
P:
(62,
34-37;
631-19):
Cả
hai
bản
kinh
đều
mô
tả
hai
quả
chứng
đạt
được
nhờ
tu
tập
niệm
xứ,
đó
là
tối
thượng
tri
kiến
ngay
trong
hiện
tại
(C),
chánh
trí
(P)
hoặc
nếu
còn
dư
y,
thì
quả
Bất
hoàn
(C)
và
sati
và
upàdesese
anàgàmita
(P).
Về
thời
gian
tu
tập
để
đạt
đến
hai
quả
nói
trên,
bản
C
bắt
đầu
bằng
bảy
năm
và
tuần
tự
xuống
đến
sáu,
năm,
bốn,
ba,
hai,
một
năm,
rồi
bảy
tháng,
sáu,
năm,
bốn,
ba,
hai,
một
tháng,
rồi
bảy
ngày,
sáu,
năm,
bốn,
ba,
hai,
một
ngày
một
đêm.
Nó
còn
nói
thêm:
"Vào
buổi
sáng,
vị
ấy
tu
tập
như
vậy,
vào
buổi
chiều
vị
ấy
sẽ
đạt
đến
chứng
đắc,
vào
buổi
chiều
vị
ấy
tu
tập
như
vậy,
sáng
mai
sẽ
chứng
đắc".
Bản
P
khởi
đầu
bằng
bảy
năm,
dần
dần
xuống
đến
sáu,
năm,
bốn,
ba,
hai,
một
năm;
bảy
tháng
rồi
sáu,
năm,
bốn,
ba,
hai,
một
tháng,
nửa
tháng
và
bảy
ngày
chứ
không
ít
hơn,
và
bảy
ngày
được
xem
là
thời
gian
tối
thiểu
để
đạt
đến
Chánh
trí
hay
quả
Bất
hoàn.
Ghi
chú:
Về
sự
tu
tập
niệm
xứ
này
cả
hai
bản
kinh
cho
ta
những
tài
liệu
gần
giống
nhau,
vì
phương
pháp
quán
căn
bản
chỉ
là
một.
Nhưng
những
nhà
kết
tập
hai
tạng
kinh
dường
như
tự
do
thu
thập
những
tài
liệu,
và
điều
này
giải
thích
sự
khác
nhau
về
chi
tiết
mà
ta
sẽ
thấy
ở
đây.
Chúng
ta
có
thể
kết
luận
một
cách
an
toàn
rằng
cả
hai
bản
dịch
đều
xuất
xứ
từ
một
nguồn
gốc,
nhưng
sự
chọn
lựa
những
chi
tiết
thì
do
những
nhà
kết
tập
tùy
tiện.
b)
Bốn
chánh
đoạn
:
Ở
đây
bản
C
sử
dụng
từ
ngữ
Bốn
chánh
đoạn
(Sk.
Samyakprahàna).
C
222:
(vii,
98a-6-9)
:
"...Đối
với
những
ác
bất
thiện
pháp
đã
sanh,
vị
ấy
nỗ
lực
tâm
để
diệt
trừ
chúng.
Đối
với
các
ác
bất
thiện
pháp
chưa
sanh,
vị
ấy
nỗ
lực
tâm
để
diệt
trừ
chúng,
làm
cho
chúng
không
thể
sanh
khởi.
Đối
với
các
thiện
pháp
chưa
sanh,
vị
ấy
nỗ
lực
tâm
làm
cho
nó
có
thể
sanh.
Đối
với
các
thiện
pháp
đã
sanh,
vị
ấy
nỗ
lực
tâm
để
chúng
tồn
tại
lâu
dài,
chúng
không
biến
mất,
mà
tăng
trưởng."
P77:
(ii,
11,
10-22):
Bản
P
dịch
như
sau:
"anuppannànam
pàpakànam
akusalànam
dhammànam
anuppàdàya;
uppannànam
pahànaya;
anuppannànam
kusalànam
dhammànam
uppàdàya;
uppannànam
thìtiyà."
(Những
ác
bất
thiện
pháp
chưa
sanh
không
cho
sanh
khởi;
đã
sanh
thì
trừ
diệt;
những
thiện
pháp
chưa
sanh
làm
cho
sanh
khởi;
đã
sanh
thì
duy
trì.)
c)
Bốn
thần
túc:
C
206:
(vii,
78a,
13-15):
"Vị
Tỳ-kheo
được
dạy
tu
tập
căn
bản
thần
thông
đoạn
tận,
được
hoàn
tất
trong
thiền
định
căn
cứ
trên
dục,
tùy
thuộc
viễn
ly,
ly
dục,
diệt,
xả
ly,
hướng
đến
Niết-bàn.
Cũng
vậy
căn
bản
thần
thông
đoạn
tận,
được
hoàn
tất
trong
thiền
định
căn
cứ
trên
tinh
tấn,
trên
tâm,
trên
sự
phân
biệt,
tùy
thuộc
viễn
ly,
ly
dục
...
hướng
đến
Niết-bàn."
P16:
(i,103,32-37):
Gần
giống.
Bốn
loại
định
được
nói
ở
đây
là
dục,
tinh
tấn,
tâm,
trạch
pháp.
Thuộc
từ
cho
thần
túc
là
chandà
-
samàdhipadhànasankhàrasamannàgatam
(với
chữ
dục
được
thay
thế
bằng
ba
yếu
tố
khác
trong
những
trường
hợp
sau),
nghĩa
là
có
được
thiền
định
dựa
trên
dục,
với
những
hoạt
động
của
sự
nỗ
lực,
trong
khi
bản
C
thay
thế
danh
từ
padhànasankhàra
bằng
chữ
đoạn
có
nghĩa
là
nhổ
tận
gốc.
d)
Năm
căn:
Những
pháp
này
được
đề
cập
trong
NC98,
kinh
C
86:
(vi,
4a,
2-3)
là
các
căn
tín,
tấn,
niệm,
định,
tuệ.
Bản
P
cũng
tương
tự.
e)
Năm
lực:
Những
pháp
này
được
đề
cập
trong
kinh
C86:
(vi,
4a,
3-5)
và
trong
kinh
P77:
(ii,12,73).
Chúng
được
kể
như
là
các
năng
lực
tín,
tấn,
niệm,
định,
tuệ.
f)
Bảy
bồ
đề
phần
hay
bảy
yếu
tố
của
trí
tuệ:
Được
đề
cập
trong
NC2,
49,
66,
72
và
98.
C86:
(vi,4b,15-17):
Chúng
được
kể
như
sau:
tuệ,
niệm,
trạch
pháp,
tinh
tấn,
hỷ,
khinh
an,
định,
xả.
P77
:
(ii,12,14-23):
Cũng
giống
như
trên:
niệm
giác
chi,
trạch
pháp
giác
chi,
tinh
tấn
giác
chi,
hỷ
giác
chi,
khinh
an
giác
chi,
định
giác
chi,và
xả
giác
chi.
g)
Tám
Thánh
đạo:
Tám
thánh
đạo
được
kể
trong
NC31,
48,
65,
73,
93,
95
và
98.
C31:
(43a,9-11):
"Chánh
kiến
là
gì?
Khi
thánh
đệ
tử
nghĩ
về
khổ
là
khổ,
sinh
là
sinh,
diệt
là
diệt,
đạo
là
đạo,
hoặc
khi
vị
ấy
xét
đến
những
hành
vi
trước
của
mình,
hoặc
khi
vị
ấy
tu
tập
và
tư
duy
về
các
nghiệp
đạo,
hoặc
vị
ấy
thấy
nguy
hiểm
trong
các
nghiệp
đạo,
hoặc
khi
vị
ấy
thấy
sự
an
tịnh
của
Niết-bàn,
hoặc
khi
vị
ấy
quán
tâm
giải
thoát
không
chấp
thủ.
Trong
những
lúc
ấy,
vị
ấy
phân
tích,
phân
tích
rộng
rãi,
phân
tích
sâu
xa,
quán
sát,
quán
sát
rộng
rãi,
phân
biệt
rõ
ràng
và
quán
sát,
đạt
đến
một
cách
minh
bạch.
Đây
gọi
là
chánh
kiến."
P141:
(iii,
251,
12-15):
Rất
đơn
giản.
Bất
cứ
gì
là
trí
về
khổ,
trí
về
nguồn
gốc
khổ,
trí
về
sự
diệt
khổ,
trí
về
con
đường
đưa
đến
diệt
khổ,
đây
gọi
là
chánh
kiến.
C:
(43a,
11-13):
"Thế
nào
là
chánh
tư
duy?
Khi
vị
thánh
đệ
tử
tư
duy
về
khổ
là
khổ....
đạt
tâm
giải
thoát.Trong
những
lúc
ấy,
vị
ấy
quán
sát,
quán
sát
rộng
rãi,
quán
sát
một
cách
thích
đáng.
Vị
ấy
nghĩ
về
những
gì
cần
suy
nghĩ,
tư
duy
những
gì
cần
tư
duy.
Đây
gọi
là
chánh
tư
duy."
P:
(251,
16-18):
Không
hẳn
như
trên.
Ở
đây
là
ước
vọng
muốn
từ
bỏ
dục
vọng,
ước
vọng
muốn
tránh
điều
ác,
ước
vọng
tiến
đến
vô
hại.
C:(43a,
13-15):
"Khi
vị
thánh
đệ
tử
nghĩ
về
khổ
là
khổ....
tâm
giải
thoát,
vào
những
lúc
ấy,
trừ
bốn
chánh
ngữ,
vị
ấy
từ
bỏ
những
lời
bất
thiện,
loại
bỏ
chúng,
tẩy
trừ
chúng,
nhổ
tận
gốc,
không
thực
hành,
không
tu
tập,
không
liên
hệ
đến
chúng,
đây
gọi
là
chánh
ngữ."
P:(251,
19-22):
Cũng
gần
giống
như
trên,
chỉ
khác
danh
từ.
Ở
đây
bản
P
nói
từ
bỏ
nói
láo,
nói
hai
lưỡi,
nói
lời
thô,
nói
lời
phù
phiếm,
đây
gọi
là
chánh
ngữ.
C:
(43a,
15-17):
"Khi
vị
thánh
đệ
tử
nghĩ
về
khổ
là
khổ,
...tâm
giải
thoát,
vào
những
lúc
ấy,
trừ
ba
thân
thiện
hành,
vị
ấy
tránh
những
hành
vi
bất
thiện
khác,
gạt
bỏ
chúng,
nhổ
tận
gốc,
tẩy
trừ
chúng,
không
tu
tập,
không
thi
hành,
không
liên
hệ
đến
chúng,
đây
gọi
là
chánh
nghiệp."
P:
(251,
23-25):
Cũng
một
nhận
xét
như
ở
chánh
ngữ.
C:
(43a,
17-19):
"Khi
vị
thánh
đệ
tử......tâm
giải
thoát,
vào
những
lúc
ấy,
vị
ấy
không
tầm
cầu
sai
lạc,
vị
ấy
không
ham
muốn
cũng
không
hoan
hỷ,
không
thi
hành
những
ngón
lừa
bịp,
tụng
chú
thuật,
vị
ấy
không
vướng
vào
tà
mạng.
Vị
ấy
chỉ
tầm
cầu
y
phục
phù
hợp
với
chánh
pháp,
không
trái
chánh
pháp,
chỉ
tầm
cầu
thực
phẩm,
sàng
tọa
phù
hợp
với
chánh
pháp,
không
trái
chánh
pháp.
Đây
gọi
là
chánh
mạng."
P:(251,
26-28):
Rất
đơn
giản.
Vị
thánh
đệ
tử
sau
khi
từ
bỏ
tà
mạng,
sinh
sống
với
chánh
mạng.
C:
(43a,
19-20;
43b,1):
"Khi
vị
thánh
đệ
tử...tâm
giải
thoát,
vào
những
lúc
ấy,
vị
ấy
thi
thố
nỗ
lực
và
phương
tiện,
tuyệt
đối
nỗ
lực,
bằng
sức
mạnh,
tiến
tới
với
sự
hăng
hái
vững
vàng,
không
từ
bỏ,
không
thối
lui,
làm
chủ
tâm
ý
mình.
Đây
gọi
là
chánh
phương
tiện."
P:
(251,
29-34;
252,
1-4):
Không
hẳn
giống
nhau.
Ở
đây
bản
P
dùng
danh
từ
chánh
tinh
tiến,
trong
khi
bản
C
dùng
chánh
phương
tiện.
Ở
đây
vị
Tỳ-kheo
thi
thố
những
ước
muốn,
nỗ
lực,
cố
gắng,
dụng
tâm
và
hướng
đến
sự
không
sinh
khởi
những
ác
bất
thiện
pháp,
nỗ
lực
hướng
đến
sự
khởi
lên
thiện
pháp,
và
nỗ
lực
duy
trì,
bảo
tồn,
tăng
trưởng,
lớn
mạnh,
phát
triển,
hoàn
tất
những
thiện
pháp
đã
sinh.
C:
(43b,
1-3):
"Khi
vị
thánh
đệ
tử...
tâm
giải
thoát,
vào
những
lúc
ấy,
khi
có
chánh
niệm
hướng
về,
chánh
niệm
chống
lại,
hoặc
không
có
chánh
niệm
hướng
về
bất
cứ
gì,
vị
ấy
chú
tâm,
hoàn
toàn
chú
tâm,
duy
trì
sự
tỉnh
giác,
không
quên
lãng,
đây
gọi
là
chánh
niệm."
P:
(252,
5-9):
Không
giống
như
trên.
Ở
đây
vị
Tỳ-kheo
trú
quán
thân
nơi
thân,
quán
thọ
nơi
cảm
thọ,
quán
tâm
nơi
tâm,
và
quán
các
pháp
nơi
các
pháp,
nhiệt
tâm,
tỉnh
giác,
chánh
niệm
để
nhiếp
phục
tham
ưu
ở
đời.
C:
(43b,
3-5):
Khi
vị
thánh
đệ
tử...
tâm
giải
thoát,vào
những
lúc
ấy,
vị
ấy
chứng
trú
các
thiền
chứng,
vững
chắc,
cố
định,
không
lay
chuyển,
không
xao
lãng,
nhất
tâm,
vững
vàng,
tập
trung,
đây
gọi
là
chánh
định.
P:
(252,
10-17):
Không
hẳn
giống.
Ở
đây
bản
P
nói
đến
sự
chứng
đắc
bốn
thiền
từ
thiền
thứ
nhất
đến
thiền
thứ
tư.
Trong
NC31,
có
những
hỏi
đáp
về
tám
thánh
đạo
như
sau:
C210:
(vii,
84a,
4-5):
Hỏi
:
Tám
thánh
đạo
là
gì?
Đáp:
Tám
thánh
đạo
là
chánh
kiến
cho
đến
chánh
định,
đây
gọi
là
Tám
thánh
đạo.
P
44:
(i,
300,
31-34):
Gần
giống.
Bản
P
kể
toàn
thể
tám
thành
phần.
C:
(84a,
6-7):
Hỏi:
Tám
thánh
đạo
có
phải
là
pháp
hữu
vi
không?
Đáp:
Tám
thánh
đạo
là
pháp
hữu
vi.
P:(300,
35-36;
301,1):
Cũng
giống
như
vậy.
C:(84a,
7-8):
Hỏi:
Có
bao
nhiêu
nhóm?
Đáp:
Có
ba
nhóm
-
nhóm
giới,
nhóm
định
và
nhóm
tuệ.
P:
không
có.
C:
(84a,
8-11):
Hỏi:
Tám
thánh
đạo
bao
gồm
cả
ba
nhóm,
hay
ba
nhóm
bao
gồm
Tám
thánh
đạo?
Đáp:
Tám
thánh
đạo
không
bao
gồm
ba
nhóm,
mà
ba
nhóm
bao
gồm
Tám
thánh
đạo.
Chánh
ngữ,
chánh
nghiệp,
chánh
mạng,
ba
thành
phần
này
được
bao
gồm
trong
nhóm
thánh
giới;
chánh
niệm,
chánh
định,
hai
thành
phần
này
được
bao
gồm
trong
nhóm
thánh
định;
chánh
kiến,
chánh
nguyện,
chánh
phương
tiện,
ba
thành
phần
này
bao
gồm
trong
nhóm
thánh
tuệ.
Đây
là
lý
do
Tám
thánh
đạo
không
bao
gồm
ba
nhóm,
nhưng
ba
nhóm
bao
gồm
Tám
thánh
đạo.
P:(301,
1-11):
Có
một
điểm
khác.
Bản
P
bao
gồm
chính
tinh
tấn
trong
nhóm
định,
trong
khi
bản
C
bao
gồm
chánh
phương
tiện
trong
nhóm
tuệ.
Phần
còn
lại
gần
giống
nhau.
Như
vậy,
về
Bát
chánh
đạo,
chỉ
có
một
sự
khác
nhau
chính
yếu
giữa
hai
bản
C
và
P,
đó
là
sự
phân
loại
của
bản
C
về
chánh
phương
tiện
thuộc
nhóm
tuệ,
trong
khi
bản
P
đặt
chánh
tinh
tấn
vào
nhóm
định.
Còn
về
cách
dịch
của
bản
C
thành
"chánh
phương
tiện",
đây
là
một
lối
dịch
hơi
xưa,
những
nhà
phiên
dịch
về
sau
chọn
danh
từ
"chánh
tinh
tiến",
và
danh
từ
này
dịch
đúng
nghĩa
tiếng
Pàli.
2.
Diệt
trừ
các
triền
cái:
NC
23,
28,
68
nói
đến
sự
loại
trừ
năm
triền
cái
với
cách
gần
giống
nhau.
Trong
NC
23,
được
nói
như
sau:
C146:
(vi,
79b,
6-9):
"Sau
khi
hoàn
tất
tu
tập
thánh
giới,
sau
khi
đã
tu
tập
sự
hỷ
túc,
điều
phục
căn,
chánh
niệm
tỉnh
giác
khi
đi
ra
đi
vào,
vị
Tỳ-kheo
lại
độc
cư,
viễn
ly,
tại
một
nơi
nhàn
tịnh
hay
dưới
gốc
cây,
hoặc
ở
một
nơi
thoáng
khí
và
yên
tĩnh,
trên
mỏm
núi
hay
trong
hang
đá,
giữa
trời
hay
trên
một
đống
rơm,
hoặc
vị
ấy
đi
đến
một
khu
rừng
hay
một
nghĩa
địa.
Vị
ấy
sau
khi
đi
đến
khu
rừng,
hay
dưới
gốc
cây,
một
nơi
trống
vắng,
trải
tọa
cụ
ngồi
kiết
già
với
thân
thẳng,
nguyện
chân
chính,
với
tư
tưởng
khéo
kiểm
soát,
không
tán
loạn,
vị
ấy
diệt
trừ
tham,
với
tâm
không
tranh
chấp,
vị
ấy
thấy
những
tài
sản
vật
dụng
của
người
khác
mà
không
ham
muốn
đem
về
cho
mình,
thanh
lọc
tâm
khỏi
tham
lam.
Cũng
vậy
với
sân,
hôn
trầm,
trạo
cử,
vị
ấy
đã
diệt
trừ
nghi,
vượt
qua
do
dự,
hướng
đến
các
thiện
pháp,
vị
ấy
không
nghi
ngờ,
thanh
lọc
tâm
khỏi
hoài
nghi."
P27:
(i,
181,
9-24):
Đơn
giản
hơn.
Nó
bỏ:
khi
đi
ra
đi
vào
tại
một
nơi
thoáng
khí
và
yên
tĩnh,
trải
tọa
cụ,
với
chính
nguyện,
với
tư
tưởng
khéo
kiểm
soát,
không
xao
lãng,
vị
ấy
diệt
trừ
tham,
tâm
không
tranh
chấp,
vị
ấy
thấy
những
tài
sản
và
vật
dụng
của
người
khác
mà
không
tham
đem
về
cho
mình.
Bản
P
thêm:
khi
đi
khất
thực
về
ăn
xong;
vị
ấy
giữ
chánh
niệm
trước
mặt.
Năm
triền
cái
giống
nhau
trong
hai
bản;
nhưng
trong
khi
bản
C
chỉ
nhắc
đến
bốn
triền
cái
còn
lại
một
cách
rất
vắn
tắt,
thì
bản
P
cho
nhiều
chi
tiết
hơn.
3.
Bốn
thiền
sắc
giới:
Bốn
thiền
thuộc
sắc
giới
được
đề
cập
trong
NC
5,
7,
21,
23,
25,
28,
30,
31,
32,
37,
42,
43,
44,
64,
65,
hoặc
vắn
tắt
hoặc
dông
dài.
Trong
NC
23,
những
pháp
ấy
được
nói
đến
như
sau:
a)
Sơ
thiền:
C146:
(vi,
79b,
9-10):
"Vị
Tỳ-kheo
sau
khi
diệt
trừ
năm
triền
cái,
diệt
trừ
tâm
lỗi
lầm
và
liệt
tuệ,
tránh
xa
dục,
các
bất
thiện
pháp,
vị
ấy
chứng
và
trú
sơ
thiền
đầy
đủ
tầm,
tứ,
hỷ,
lạc
do
ly
dục
sinh."
P27:(i,
181,
25-28):
Gần
giống.
P:
có
tầm
=
C:
hữu
giác,
nghĩa
là
có
ý
thức,
có
nhận
thức;
những
dịch
giả
về
sau
dùng
hữu
tầm,
nghĩa
là
có
tra
tầm.
P:
có
tứ
=
C:
hữu
quán,
nghĩa
là
có
tư
duy
quán
sát;
những
dịch
giả
về
sau
dùng
hữu
từ,
nghĩa
là
tư
tưởng
đang
tra
tầm.
b)
Thiền
thứ
hai:
C:
(79b,
10-12):
"Sau
khi
bỏ
giác
và
quán,
nội
tâm
tịch
tĩnh,
nhất
tâm,
vị
ấy
chứng
và
trú
thiền
thứ
hai,
không
giác
không
quán,
có
hỷ
và
lạc
do
định
sinh."
P:(181,
32-35):
Giống
như
vậy.
c)
Thiền
thứ
ba:
P:
(79b,
13-14):
"Vị
ấy
từ
bỏ
hỷ
và
lạc,
trú
xả,
không
khao
khát,
với
chánh
niệm,
chánh
trí,
thân
cảm
thọ
lạc
thọ
mà
các
bậc
thánh
gọi
là
xả
niệm
lạc
trú,
vị
ấy
chứng
và
trú
thiền
thứ
ba."
P:
(182,
2-6):
Gần
giống.
Hai
tiểu
dị:
bản
P
bỏ:
không
khao
khát.
C:
lạc
trú
=
P:
sukhavihàrì.
d)
Thiền
thứ
tư:
C:
(79b,
14-15):
"Vị
ấy
sau
khi
xả
lạc,
xả
khổ,
diệt
hỷ
và
ưu,
chứng
và
trú
thiền
thứ
tư,
không
khổ
không
lạc,
xả
niệm
thanh
tịnh."
P:
(182,
10-14):
Giống
nhau.
Trong
NC30,
có
một
đoạn
ba
câu
hỏi
đáp
chỉ
có
trong
bản
P,
đề
cập
sơ
thiền
thuộc
sắc
giới.
Hai
câu
hỏi
đáp
đầu
cũng
có
trong
bản
C,
nhưng
trong
NC31,
P44:
(i,
294,
24-28):
Hỏi:
Sơ
thiền
là
gì?
Đáp:
Khi
một
vị
Tỳ-kheo
ly
dục,
ly
bất
thiện
pháp,
thì
vị
ấy
chứng
và
trú
sơ
thiền
với
giác,
quán,
hỷ
và
lạc
do
ly
dục
sinh.
P:
(i,
294,
28-32):
Hỏi:
Sơ
thiền
có
mấy
thiền
chi?
Đáp:
Sơ
thiền
có
năm
thiền
chi.
Khi
một
Tỳ-kheo
đạt
đến
sơ
thiền,
thì
có
tầm,
tứ,
hỷ,
lạc
và
nhất
tâm.
P:
(i,
294,
32-37;
295,
1-4):
Hỏi:
Sơ
thiền
từ
bỏ
bao
nhiêu
pháp,
có
được
bao
nhiêu
pháp?
Đáp:
Ở
sơ
thiền,
năm
pháp
được
đoạn
trừ,
và
năm
pháp
được
chứng
đắc.
Đối
với
Tỳ-kheo
nhập
sơ
thiền,
thì
tham,
sân,
hôn
trầm,
trạo
cử,
nghi,
được
trừ
diệt
và
khởi
lên
tầm,
tứ,
hỷ,
lạc,
nhất
tâm.
Trong
NC37,
các
thiền
thuộc
sắc
giới
được
kể
như
sau:
C217:
(vii,
95a,
6-8):
Nói
đến
sự
chứng
đắc
bốn
thiền
thuộc
sắc
giới
bởi
một
vị
thánh
đệ
tử
trú
trong
các
thiền
này,
quán
pháp
phù
hợp
với
pháp.
Sau
khi
trú
bốn
thiền,
quán
pháp
như
pháp,
vị
ấy
hoặc
đạt
đến
lậu
tận,
hoặc
nếu
sự
trừ
diệt
lậu
hoặc
chưa
được
hoàn
toàn
vì
có
tham
ái,
hoan
hỷ
trong
pháp
này,
vị
ấy
sẽ
đoạn
trừ
năm
hạ
phần
kết
sử
và
tự
nhiên
được
hóa
sinh
vào
trong
cõi
này,
và
từ
đó
vị
ấy
sẽ
chứng
Niết-bàn,
vị
ấy
đắc
quả
Bất
hoàn.
P52:
(i,
349,
29-30;
350,
351,
1-17):
Gần
giống
như
trên.
Bốn
thiền
được
mô
tả
dài
dòng
như
thường
lệ
chứ
không
ngắn
gọn
như
trong
bản
C.
Sau
khi
chứng
đắc
một
thiền,
vị
Tỳ-kheo
nghĩ
rằng
thiền
ấy
do
suy
tư
tác
thành,
và
bất
cứ
gì
được
tạo
tác,
do
suy
tư
tác
thành
đều
vô
thường
và
phải
hoại
diệt.
Khi
an
trú
trong
điều
này,
vị
ấy
đạt
đến
lậu
tận
và
nếu
không,
do
tham
ái,
hoan
hỷ
đối
với
pháp
này,
vị
ấy
sẽ
đạt
đến
sự
đoạn
trừ
năm
hạ
phần
kiết
sử
và
tự
nhiên
hóa
sinh,
nhập
Niết-bàn
tại
đấy,
không
trở
lui
đời
này.
Tất
cả
những
đoạn
kinh
trên
cho
chúng
ta
thấy
rằng
về
phương
diện
các
thiền
chứng,
không
có
khác
nhiều
giữa
hai
bản
dịch.
4.
Bốn
phạm
trú
hay
bốn
vô
lượng:
Những
pháp
này
được
đề
cập
trong
NC
số,
18,
21,
24,
25,
29,
36,
37,
63,
64,
82,
98.
Chúng
ta
chọn
NC6
để
khảo
sát
tỉ
mỉ
những
pháp
này.
C93:
(vi,
13a,
15-17):
"Vị
Tỳ-kheo
trú,
biến
mãn
một
phương
với
tâm
từ,
cũng
vậy
phương
thứ
hai,
thứ
ba,
thứ
tư,
bốn
phương
trung
gian,
trên,
dưới,
biến
mãn
cùng
khắp,
với
tâm
câu
hữu
với
từ,
không
trói
buộc,
không
hận,
không
sân,
không
tranh,
vô
cùng
quảng
đại,
lớn
rộng,
vô
lượng,
biến
mãn
tâm
từ
khắp
thế
giới,
vị
ấy
khéo
tu
tập
và
an
trú
tâm
từ.
Cũng
vậy
với
bi,
hỷ
và
xả...".
P7:(i,
38,
20-30):
Gần
giống.
C:
bốn
phương
trung
gian
=
P:
tiriyam.
C:
không
trói
buộc,
không
hận,
không
sân,
không
tranh
=
P:
averena
abyàbajjhena
-
không
hận
thù,
không
ác
ý.
C:
vô
cùng
quảng
đại,
lớn
rộng,
vô
lượng
=
P:
gần
giống,
bỏ:
vô
cùng.
C:
vị
ấy
khéo
tu
tập
=
P:
không
có.
Cả
hai
bản
C
và
P
đều
đồng
ý
rằng
sự
tu
tập
bốn
vô
lượng
sẽ
đưa
người
ta
tái
sinh
vào
cõi
Phạm
thiên
như
được
thấy
trong
NC63:
C27:
(v,
34b,
1-5):
Thượng
tọa
Xá-lợi-tử
giảng
bốn
phạm
trú
cho
Bà-la-môn
Đà
Nhiên;
sự
thực
hành
các
pháp
này
sẽ
đưa
đến
sự
nhổ
tận
gốc
tham
dục
và
sau
khi
chết
sẽ
đưa
đến
tái
sinh
ở
cõi
trời
Phạm
thiên.
P97:
(ii,
195,
1-17):
Gần
giống.
Ở
đây
Thượng
tọa
Xá
Lợi
Phất
giảng
cho
Bà-la-môn
Dhànanjàni
về
bốn
phạm
trú
được
xem
là
con
đường
cộng
trú
với
Phạm
thiên.
Sự
tu
tập
bốn
vô
lượng
thường
đặt
giữa
sự
tu
tập
bốn
thiền
sắc
giới
và
sự
tu
tập
bốn
thiền
vô
sắc,
như
được
thấy
trong
NC37,
kinh
C217:
(vii,
95a,8-13)
và
P52:
(i,
351,
18-36;
352,1-2).
Nhưng
trong
NC25,
21,
64,
trong
khi
bản
C
trung
thành
với
truyền
thống
này,
nghĩa
là,
để
sự
tu
tập
bốn
vô
lượng
ở
giữa
sự
tu
tập
các
thiền
sắc
giới
và
các
thiền
vô
sắc
giới,
thì
bản
P
không
theo.
Đôi
khi
sự
tu
tập
bốn
vô
lượng
được
đặt
ngay
trước
sự
chứng
đắc
quả
A-la-hán,
do
vậy
ngụ
ý
rằng
sự
tu
tập
bốn
vô
lượng
này
có
thể
đưa
đến
quả
A-la-hán,
như
được
thấy
sau
đây:
C183:
(vii,
33b,
17-20):
"Vị
ấy
nghĩ,
bất
cứ
tư
tưởng
gì,
thô
hay
tế,
nổi
lên
và
biến
mất,
vị
ấy
như
thật
biết
rõ.
Khi
biết
rõ
như
vậy,
tâm
vị
ấy
thoát
khỏi
dục
lậu,
thoát
khỏi
hữu
lậu,
thoát
khỏi
vô
minh
lậu.
Khi
giải
thoát,
vị
ấy
biết
mình
đã
giải
thoát.
Sanh
đã
tận;
đời
sống
phạm
hạnh
đã
được
hoàn
tất;
việc
cần
làm
đã
làm
xong;
không
còn
sinh
trở
lại.
Tri
kiến
ấy
đúng
như
thật."
P7:
(i,
38,
31-36):
Bản
P
sau
khi
đề
cập
bốn
phạm
trú
còn
nói
đến
sự
chứng
đắc
A-la-hán
quả,
với
tri
kiến
về
idam
(A-la-hán
quả),
về
hìnam
(ô
nhiễm,
nghĩa
đen
là
thấp
kém),
và
panìtam
(phương
pháp
diệt
trừ
ô
nhiễm,
nghĩa
đen
là
thù
thắng).
Một
tri
kiến
như
vậy
đưa
đến
sự
tận
trừ
ba
lậu
hoặc,
sự
chấm
dứt
sinh,
sự
an
lập
đời
sống
phạm
hạnh,
sự
hoàn
tất
công
việc
và
diệt
trừ
tái
sinh.
Như
vậy,
nghiên
cứu
tỷ
giáo
về
sự
tu
tập
bốn
vô
lượng
trong
hai
bản
dịch
cho
thấy
sự
gần
giống
nhau
giữa
hai
truyền
thống
mà
các
bản
kinh
ấy
tiêu
biểu.
Nhưng
truyền
thống
C
dường
như
thích
pháp
tu
này
hơn
truyền
thống
P.
Khuynh
hướng
này,
một
khuynh
hướng
đã
tiềm
tàng
trong
những
bản
kinh
cổ
của
Phật
giáo
Sanskrit,
có
thể
giải
thích
sự
đặt
nặng
tâm
từ
bi
của
các
nhà
Đại
thừa,
những
người
đặt
từ
bi
ngang
hàng
với
trí
tuệ,
và
nhấn
mạnh
việc
ăn
chay.
5.
Bốn
thiền
vô
sắc:
Sự
tu
tập
bốn
thiền
vô
sắc
được
đề
cập
trong
NC
21,25,30,37,42,67,75.
Trong
NC42,
sự
tu
tập
này
được
đề
cập
như
sau:
C205:(vii,
77a,
12-18):
"Khi
ấy,
nhờ
vượt
qua
tất
cả
sắc
tưởng,
diệt
trừ
tất
cả
chướng
ngại
tưởng,
không
tác
ý
các
tưởng,
vị
ấy
chứng
trú
Không
vô
biên
xứ...
Sau
khi
vượt
qua
Không
vô
biên
xứ,
vị
ấy
chứng
trú
Thức
vô
biên
xứ
...
Sau
khi
vượt
qua
Thức
vô
biên
xứ,
vị
ấy
chứng
Vô
sở
hữu
xứ
...
Khi
cảm
thọ
lạc,
khổ,
hay
bất
khổ
bất
lạc,
vị
ấy
quán
sát
cảm
thọ
ấy
là
vô
thường,
vị
ấy
quán
sát
sự
sinh
diệt,
quán
ly
dục,
quán
diệt,
quán
đoạn
tận,
quán
từ
bỏ.
Sau
khi
quán
những
cảm
thọ
ấy
là
vô
thường,
quán
sự
sinh
diệt
của
chúng,
sau
khi
quán
vô
dục,
quán
diệt,
quán
đoạn
tận,
quán
từ
bỏ,
vị
ấy
không
phải
sinh
lại
vào
cuộc
đời
này.
Vì
không
còn
phải
tái
sinh
vào
đời
này,
vị
ấy
sẽ
không
có
sợ
hãi,
do
không
sợ
hãi,
vị
ấy
nhập
Niết-bàn.
Sinh
đã
tận,
phạm
hạnh
đã
thành,
việc
cần
làm
đã
làm
xong,
không
còn
tái
sinh
nữa,
vị
ấy
biết
như
thật."
P64:(i,
436,
18-26;
437,
1-6):
Gần
giống.
C:
Khi
ấy
nhờ
vượt
qua
mọi
sắc
tưởng,
nhờ
tận
trừ
mọi
chướng
ngại
tưởng,
không
tác
ý
tất
cả
tưởng,
vị
ấy
chứng
trú
không
vô
biên
xứ
=
P
:
Bhikkhu
sabbaso
rùpa
sađđànam
samatikkamà
patigha
sađđàna
atthagamà
nànattasađđàna
amanasikàrà
ananto
àkàso
ti
àkàsanađcàyatanam
upasampajja
viharati.
Như
vậy
cũng
giống
như
bản
C.
Ở
đây
pháp
quán
có
hơi
khác.
Vị
ấy
quán
bất
cứ
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức
nào
cũng
là
vô
thường,
khổ,
như
bệnh,
như
cục
bướu,
như
mũi
tên,
như
một
vật
xấu
xa,
một
ách
vận,
xem
là
xa
lạ,
là
hư
hỏng,
là
trống
rỗng,
không
tự
ngã,
vị
ấy
không
để
tâm
đến
các
pháp
này,
tập
trung
vào
bất
tử
giới,
nghĩ
rằng:
"Đây
là
thiện,
đây
là
thù
thắng,
sự
tịnh
chỉ
tất
cả
hành,
sự
diệt
trừ
mọi
chấp
thủ,
sự
dập
tắt
khát
ái,
ly
dục,
diệt,
Niết-bàn".
Nếu
vững
trú
ở
đây,
vị
ấy
sẽ
đạt
đến
sự
tận
trừ
lậu
hoặc.
Nếu
vị
ấy
không
đạt
đến
lậu
tận,
do
tham
ái
pháp
ấy,
do
thích
thú
trong
pháp
ấy,
thì
nhờ
diệt
trừ
năm
kiết
sử
trói
buộc
vào
hạ
giới,
vị
ấy
sẽ
hóa
sinh
và
từ
đấy
sẽ
đạt
Niết-bàn,
không
còn
trở
lui
đời
này.
Ở
đây
ta
nhận
thấy
bản
P
và
C
bỏ
cảnh
giới
thứ
tư
là
Phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ,
vì
cảnh
giới
này
được
xem
gần
như
là
một
chướng
ngại
cho
giải
thoát
tối
hậu,
và
vì
đề
tài
của
kinh
này
chỉ
giới
hạn
vào
sự
từ
bỏ
năm
hạ
phần
kiết
sử.
Thông
thường,
bản
C
mô
tả
sự
tu
tập
bốn
thiền
dưới
hình
thức
ngắn
gọn,
trong
khi
bản
P
thì
đề
cập
đầy
đủ
tất
cả
bốn
thiền,
như
được
thấy
trong
NC
25:
C185:
(vii,
37b,
2-5):
"Chúng
ta
đã
vượt
qua
các
tưởng
về
hình
sắc
cho
đến
sự
chứng
đắc
Phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ
và
trú
trong
đó."
P31:
(i,
208,
31-37):
Gần
giống.
Ở
đây
bản
P
giải
thích
đầy
đủ
bốn
thiền
vô
sắc
giới.
Nhận
xét:
Như
vậy,
về
bốn
thiền
vô
sắc,
không
có
nhiều
dị
biệt
giữa
hai
bản
kinh.
6.
Diệt
tận
định
và
vô
tưởng
định:
Sau
khi
tu
tập
bốn
thiền
vô
sắc,
bản
P
thường
nói
đến
một
định
khác
gọi
là
diệt
thọ
tưởng,
định
này
thường
bị
bỏ
trong
bản
C,
như
được
thấy
trong
P66,
kinh
Ví
dụ
con
chim
cáy:
(i,
456,
3-6)
và
trong
P113,
kinh
Chân
nhân:
(iii,
45,
1-5).
Trong
NC30
và
31,
có
một
loạt
hỏi
đáp
liên
hệ
đến
Diệt
tận
định
và
Vô
tưởng
định.
C211:(vii,
86b,
4-6):
H:
Gì
là
sự
khác
biệt
giữa
cái
chết
và
nhập
diệt
thọ
tưởng
định?
Đ:
Trong
sự
chết,
thọ
mạng
đã
tắt,
hơi
ấm
đã
dứt,
và
các
giác
quan
đều
hư
hoại.
Nhưng
nơi
Tỳ-kheo
nhập
diệt
định,
thọ
mạng
chưa
tắt,
hơi
ấm
chưa
dứt,
và
các
căn
chưa
hư
hoại.
P43:(i,
296,11-23)
:
H:
Gì
là
sự
khác
nhau
giữa
một
vật
đã
chết
và
Tỳ-kheo
nhập
diệt
thọ
tưởng
định?
Đ:
Nơi
một
người
chết,
thân
hành
chấm
dứt,
lắng
xuống,
ý
hành
chấm
dứt,
lắng
xuống,
thọ
mạng
đã
tắt,
hơi
ấm
đã
nguội
lạnh,
các
căn
hư
hoại.
Về
Tỳ-kheo
nhập
định
diệt
thọ
tưởng,
thân
hành
đã
chấm
dứt,
ngữ
hành
vị
ấy
chấm
dứt,
lắng
xuống,
ý
hành
vị
ấy
chấm
dứt,
lắng
xuống,
nhưng
thọ
mạng
không
tắt,
hơi
ấm
không
nguội
lạnh,
các
căn
còn
sáng.
C:
(vii,
86b,
6-8):
H:
Gì
là
sự
khác
nhau
giữa
nhập
diệt
định
và
nhập
định
vô
tưởng?
Đ:
Khi
vị
Tỳ-kheo
nhập
diệt
định,
thì
thọ,
tưởng
đã
tắt.
Khi
vị
Tỳ-kheo
nhập
định
vô
tưởng,
thì
thọ
và
tưởng
chưa
tắt.
P:
không
có.
C:
(vii,
86b,
8-11)
:
H:
Gì
là
khác
nhau
giữa
người
xuất
diệt
định
và
xuất
vô
tưởng
định?
Đ:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
định,
vị
ấy
không
nghĩ
như
sau:
"Ta
đang
xuất
diệt
định."
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
khỏi
định
vô
tưởng,
vị
ấy
nghĩ
như
sau:
"Ta
có
tưởng,
ta
không
tưởng."
P:
không
có.
C:(vii,86b,11-12):
H:
Khi
một
Tỳ-kheo
nhập
diệt
định,
vị
ấy
từ
bỏ
pháp
nào
trước,
thân
hành,
ngữ
hành
hay
ý
hành?
Đ:
Khi
một
Tỳ-kheo
nhập
diệt
định,
trước
hết
vị
ấy
từ
bỏ
thân
hành,
kế
đến
là
ngữ
hành,
và
cuối
cùng
là
ý
hành.
P:
Không
có
ở
đây,
nhưng
có
trong
P44:
(i,301,36,
362,1-5).
Bản
P
nói
rằng
ngữ
hành
chấm
dứt
trước,
rồi
đến
thân
hành,
rồi
đến
ý
hành.
C:
(vii,86b,12-14):
H:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
định,
pháp
nào
khởi
lên
trước,
thân
hành,
ngữ
hành
hay
ý
hành?
Đ:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
định,
ý
hành
khởi
lên
trước,
rồi
đến
ngữ
hành,
và
cuối
cùng
là
thân
hành.
P:
Không
có
ở
đây,
nhưng
có
trong
P44:
(i,302,13-18):
Ở
đây
bản
P
nói
rằng,
ý
hành
xuất
hiện
trước,
rồi
thân
hành,
rồi
ngữ
hành.
C:(vii,
86b,
14-16)
:
H:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
định,
có
bao
nhiêu
loại
xúc
vị
ấy
cảm
xúc
đầu
tiên?
Đ:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
định,
vị
ấy
cảm
ba
loại
xúc:
vô
tham,
vô
thực
chất
và
vô
tướng.
P:
Không
có
ở
đây,
nhưng
có
trong
P44:
(i,302,18-22).
Ở
đây
bản
P
nói
đến
không
xúc,
rồi
vô
tướng
xúc
và
vô
nguyện
xúc.
Trong
NC31,
lại
có
một
loạt
hỏi
đáp
liên
hệ
đến
hai
loại
định
này:
C210:
(vii,
84b,5-7):
H:
Khi
một
người
nhập
diệt
định,
vị
ấy
có
nghĩ
rằng
ta
đang
nhập
diệt
định?
Đ:
Khi
một
người
nhập
diệt
định,
vị
ấy
không
nghĩ
ta
đang
nhập
diệt
định.
Do
sự
tu
tập
và
luyện
tâm
của
vị
ấy
nên
đưa
đến
sự
chứng
đắc
ấy.
P44:
(I,301,
30-36):
Tương
tự:
H:
Thế
nào
là
sự
chứng
đắc
diệt
thọ
tưởng?
Đ:
Vị
Tỳ-kheo
chứng
đắc
diệt
thọ
tưởng
không
nghĩ
rằng
ta
sẽ
chứng
đắc
diệt
thọ
tưởng,
hoặc
ta
đang
chứng
diệt
thọ
tưởng,
hoặc
ta
đã
chứng
diệt
thọ
tưởng.
Do
vị
ấy
tu
tập
về
trước
nên
đưa
đến
sự
chứng
đắc
ấy.
C:(84b,7-9):
H:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
định,
vị
ấy
có
nghĩ
ta
xuất
diệt
tận
định?
Đ:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
tận
định,
vị
ấy
không
nghĩ
ta
xuất
diệt
tận
định.
Nhưng
do
thân
thể
và
sáu
giác
quan
tương
ưng
với
mạng,
vị
ấy
xuất
khỏi
định
ấy.
P:(302,
6-13):
Cũng
sự
khác
nhau
như
đã
thấy
trong
câu
hỏi
trước.
Một
điểm
khác
nữa:
C
nói:
nhưng
do
thân
thể
này...
=
P:
do
trước
kia
vị
ấy
đã
tu
tập
tâm
theo
cách
ấy
nên
đưa
đến
trạng
thái
này.
C:(84b,
9-10):
H:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
tận
định,
tâm
vị
ấy
thích
thú
gì,
thiên
về
cái
gì,
khuynh
hướng
về
gì?
Đ:
Khi
một
Tỳ-kheo
xuất
diệt
tận
định,
tâm
vị
ấy
thích
thú
việc
đi,
thiên
về
việc
đi,
khuynh
hướng
việc
đi.
P:
(302,
22-27):
Tương
tự:
C:
độc
cư
=
P:
viễn
ly.
Nhận
xét:
Như
vậy,
về
phương
diện
định
diệt
thọ
tưởng,
giữa
hai
bản
C
và
P
không
khác
nhau
nhiều.
Mặc
dù
bản
C
dùng
danh
từ
định
diệt
tận,
bản
P
diệt
thọ
tưởng,
định
nghĩa
cũng
giống
nhau.
Về
sự
khác
nhau
giữa
hành
nào
khởi
trước
hay
diệt
trước,
thật
khó
mà
phân
biệt
giữa
thân
hành
và
ngữ
hành,
vì
nếu
miệng
cử
động
để
thốt
lên
một
âm
thanh,
thì
điều
này
bao
hàm
cả
ngữ
hành
và
thân
hành.
Bởi
thế
sự
khác
nhau
giữa
hành
nào
khởi
trước
hay
diệt
trước
trong
hai
bản
C
và
P
không
phải
là
một
điều
quan
trọng.
7.
Năm
thắng
trí
hay
thần
thông:
Năm
thắng
trí
được
đề
cập
trong
NC5,
25,
74.
Như
trong
NC74,
các
pháp
được
nói
đến
như
sau:
C81:(v,
114b,
15-17):
"Vị
Tỳ-kheo
có
thể
đắc
như
ý
túc,
thiên
nhĩ,
tha
tâm
thông,
túc
mạng
thông,
và
sanh
tử
trí;
rồi
với
sự
đoạn
trừ
các
lậu
hoặc,
vị
ấy
tự
mình
chứng
đắc
ngay
trong
hiện
tại
vô
lậu
tâm
giải
thoát,
tuệ
giải
thoát,
chứng
quả
A-la-hán."
P119:
(iii,
98,
2-28):
Tương
tự.
Nhưng
ở
đây
bản
P
nói
dông
dài
như
thường
lệ
với
cả
năm
thắng
trí.
Trong
NC5,
vị
Tỳ-kheo
lập
nguyện
đắc
năm
thần
thông
như
được
thấy
sau
đây:
C105:
(vi,
29b,
12-13):
"Mong
ta
chứng
đắc
các
thần
thông,
thiên
nhĩ,
tha
tâm,
túc
mạng,
sanh
tử
trí."
P6:
(i,
34,
10-37):
Ở
đây
bản
P
cũng
đề
cập
vấn
đề
này
nhưng
chia
thành
sáu
nguyện,
thứ
12
là
thần
túc,
thứ
13
là
thiên
nhĩ,
thứ
14
là
tha
tâm,
thứ
15
là
túc
mạng,
16
là
thiên
nhãn
và
17
là
lậu
tận.
a)
Thần
túc
thông:
Trong
NC26,
thần
thông
này
được
nói
như
sau:
C184:
(vii,35a,
14-19):
"Vị
Tỳ-kheo
có
đại
thần
thông,
đại
công
đức,
đại
oai
thần
lực,
làm
chủ
vô
số
thần
thông,
thi
triển
vô
số
thần
thông,
từ
một
vị
ấy
biến
thành
nhiều,
từ
nhiều
vị
ấy
trở
thành
một;
vị
ấy
trở
thành
một
người
có
tri
kiến;
vị
ấy
đi
ngang
qua
vách
đá,
qua
tường
không
bị
chướng
ngại
như
ngang
qua
hư
không;
vị
ấy
độn
thổ
và
trồi
lên
như
đi
trong
nước;
vị
ấy
đi
trên
nước
không
chìm
như
đi
trên
đất;
vị
ấy
bay
trên
trời
và
ngồi
xếp
bằng
như
con
chim.
Những
vật
có
đại
oai
thần
như
mặt
trăng,
mặt
trời,
vị
ấy
với
bàn
tay
sờ
chạm
thân
của
mặt
trời
mặt
trăng
cho
đến
phạm
thiên
giới."
P32:
(ii,214,
18-28):
Ở
đây
bản
P
hoàn
toàn
khác,
khi
đề
cập
sự
trả
lời
của
Trưởng
lão
Ca
Chiên
Diên
về
luận
thuyết
(A-tỳ-đàm).
Nhưng
trong
P108
Gopakamoggallana
(tập
3),
thì
tương
đương
với
bản
C,
nhưng
bỏ:
có
thần
thông
lớn,
công
đức
lớn,
phước
lớn,
đại
oai
thần,
làm
chủ
vô
số
thần
thông
và
thi
triển
vô
số
thần
thông;
từ
một
biến
thành
một,
có
tri
kiến.
C:
Vị
ấy
đi
xuyên
qua
đá,
qua
tường
không
chướng
ngại
như
qua
hư
không
=
P:
Hiện
rõ
hoặc
không
ai
thấy,
vị
ấy
đi
ngang
qua
tường,
qua
thành,
qua
núi
như
ngang
qua
hư
không.
C:
thần
thông
lớn,
công
đức
lớn,
phước
lớn,
đại
oai
thần
=
P:
có
thần
lực
như
vậy,
đại
oai
thần
như
vậy.
Bản
P
thêm
:
vị
ấy
thi
triển
năng
lực
bằng
thân
thể
của
mình.
b)
Thiên
nhĩ:
Trong
NC74,
C81:
(v,114b,
15-17)
chỉ
nói
thiên
nhĩ
trong
khi
P
19
nói:
"Với
thiên
nhĩ
thuần
tịnh
siêu
nhân,
vị
ấy
nghe
được
tiếng
của
chư
thiên
và
loài
người,
ở
xa
cũng
như
gần."
c)
Tha
tâm:
Lại
nữa
trong
NC74,
C81:
(v,
114b,
15-17)
chỉ
nói
tha
tâm
thông
trong
khi
P
119
nói
dài
như
sau:
"Với
tâm
mình
vị
ấy
biết
tâm
của
những
hữu
tình
khác,
của
người
khác.
Tâm
có
tham
vị
ấy
biết
tâm
có
tham;
tâm
không
tham
vị
ấy
biết
tâm
không
tham;
cũng
vậy,
có
sân,
không
sân,
có
si,
không
si,
có
định,
không
định,
quảng
đại,
không
quảng
đại,
hữu
thượng,
vô
thượng,
tập
trung,
không
tập
trung,
giải
thoát,
không
giải
thoát."
d)
Túc
mạng
trí:
Trong
NC43,
trí
biết
đời
trước
được
nói
như
sau:
C194:
(vii,
51b,
14-17):
"Vị
ấy
với
tâm
định
tĩnh,
thuần
tịnh,
không
lỗi
lầm,
không
ưu
não,
nhu
nhuyến,
tập
trung,
không
giao
động,
vị
ấy
nhớ
lại
những
đời
trước,
sau
khi
thực
chứng
với
trí
tuệ,
vị
ấy
có
một
đời
như
thế,
dáng
vẻ
như
thế,
nhớ
lại
vô
số
đời
trước,
một
đời,
hai
đời,
trăm
đời,
ngàn
đời,
thành
kiếp,
hoại
kiếp,
vô
số
thành
và
hoại
kiếp,
những
hữu
tình
kia
có
tên
như
vậy,
chúng
đã
trải
qua
những
đời
trước
như
vậy:
Ta
sinh
ra
tại
đấy
với
tên
như
vậy,
họ
như
vậy,
dòng
dõi
như
vậy,
ăn
uống
như
vậy,
thọ
khổ
lạc
như
vậy,
thọ
mạng
như
vậy,
mạng
chung
như
vậy;
sau
khi
mạng
chung
tại
đấy
ta
đã
tái
sinh
ở
đây.
Khi
tái
sinh
ở
đây
ta
đã
có
tên
như
vậy,
họ
như
vậy,
ăn
đồ
ăn
uống
như
vậy,
thọ
khổ
lạc
như
vậy,
thọ
mạng
như
vậy,
sau
khi
sống
lâu
như
vậy,
đã
chết
như
vậy."
Đoạn
kinh
C
này
có
thể
so
sánh
với
kinh
P
trong
NC28
:
P39:
Tương
tự.
Về
những
tĩnh
từ
chỉ
tâm,
bản
P
thêm
pariyodàte-
"thuần
tịnh",
kammaniye-
"dễ
sử
dụng"
.
C
:
không
sầu
não
=
P:
không
cấu
uế.
C:
với
tâm
không
dao
động
=
P:
ànenjjappatte.
P
bỏ:
sau
khi
chứng
đắc
với
trí
tuệ,
vị
ấy
có
một
đời
như
vậy,
dáng
dấp
như
vậy.
C:
vị
ấy
nhớ
vô
số
đời
trước
=
P:
nhớ
lại
nhiều
đời
trước.
C:
một
đời,
hai
đời,
trăm
đời,
ngàn
đời
=
P:
một
đời,
hai
đời,
ba,
bốn,
năm,
mười,
20,
30
40,50,
100,
1000,
một
trăm
ngàn
đời.
Bản
P
bỏ:
sống
lâu
như
vậy,
đã
chết
như
vậy,
nhưng
thêm:
với
tất
cả
đại
cương
và
chi
tiết.
e)
Thiên
nhãn
hay
sinh
tử
trí:
Trí
này
được
đề
cập
trong
NC26,28,38,43.
Như
trong
NC43,
trí
này
được
nói
như
sau:
C194:
(vii,
51b,
18-20):
"Với
tâm
định
tĩnh,
thuần
tịnh,
không
lỗi
lầm,
không
lo
lắng,
nhu
nhuyến,
tập
trung,
không
dao
động,
vị
ấy
chứng
đắc
sinh
tử
trí.
Với
thiên
nhãn
thuần
tịnh
siêu
nhân,
vị
ấy
thấy
những
chúng
sinh
này
chết
và
tái
sinh,
đẹp,
xấu,
thanh,
thô,
hạnh
phúc
hay
bất
hạnh
tùy
theo
nghiệp
của
chúng.
Vị
ấy
thấy
phù
hợp
với
chân
lý.
Nếu
những
chúng
sinh
này
làm
các
ác
hành
về
thân,
lời,
ý,
phỉ
báng
các
bậc
thánh,
có
tà
kiến,
theo
tà
hạnh;
do
những
nghiệp
này
sau
khi
chết,
chúng
sẽ
sanh
vào
các
nơi
đau
khổ,
vào
địa
ngục.
Nếu
những
chúng
sanh
này
thực
hành
các
thiện
hành
về
thân,
lời,
ý,
không
phỉ
báng
bậc
thánh,
có
chánh
kiến,
chánh
hạnh;
do
những
nghiệp
này
sau
khi
chết,
chúng
sẽ
sanh
vào
các
thiện
thú,
cõi
trời."
Đoạn
kinh
C
này
có
thể
so
với
đoạn
P
trong
NC28:
P39:
Tương
tự,
nhưng
bỏ:
vị
ấy
tu
tập,
chứng
ngộ
và
chứng
đắc
nhờ
trí,
và
thêm:
vị
ấy
khuynh
hướng
tâm
về.
C:
đẹp,
xấu,
thanh,
thô,
hạnh
phúc,
bất
hạnh
tùy
theo
nghiệp
của
chúng
=
P:
hìne
panìte
suvanne
dubbanne
sugate
duggate
yathàkammùpage
(hạ
liệt,
cao
sang,
đẹp,
xấu,
sanh
thiện
thú,
ác
thú,
tùy
theo
hành
nghiệp).
Bản
P
bỏ:
vị
ấy
thấy
như
thật.
C:
có
tà
hạnh
=
P:
làm
ác
nghiệp
do
tà
kiến.
C:
trong
đọa
xứ,
địa
ngục
=
P:
cõi
dữ,
ác
thú,
đọa
xứ,
địa
ngục.
C:
có
chánh
hạnh
=
P:
sammàditthikammasamàdànà.
Nhận
xét:
Như
vậy
nghiên
cứu
tỷ
giảo
về
năm
thắng
trí
giữa
hai
bản
C
và
P
cho
ta
thấy
không
có
gì
khác
nhau
nhiều
giữa
hai
truyền
thống,
trừ
thêm
bớt
một
vài
tĩnh
từ
hoặc
hơi
khác.
Chúng
ta
có
thể
nói
rằng
về
phương
diện
định
uẩn,
quan
điểm
của
hai
bản
C
và
P
gần
giống
nhau.
Ngoại
trừ
vài
dị
biệt
trong
cách
trình
bày
bốn
niệm
xứ,
cả
hai
bản
dường
như
rút
tài
liệu
từ
một
nguồn
chung,
và
điều
này
giải
thích
sự
tương
đồng
giữa
hai
bản
dịch
C
và
P
khi
nói
về
định
uẩn.
---o0o---
Mục
lục | 1.1
| 1.2 | 2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4 | 2.5
| 2.6 | 2.7
| 3.1 | 3.2 | 3.3
| 3.4 | 3.5 | 3.6
| 4.1 | 4.2 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002