|
. |
Phật Học
Phổ Thông
PHẬT
HỌC
PHỒ
THÔNG
KHÓA
VI
TRIẾT
LÝ
ĐẠO
PHẬT
hay
là
ĐẠI
CƯƠNG
KINH
LĂNG
NGHIÊM
---
o0o
---
BÀI THỨ
BẢY
--- o0o ---
I.-HƯ KHÔNG TỪ CHƠN TÂM BIẾN
THIỆN[^]
A-Nan, hư không vô hình, nhơn
các hình sắc mà hiện bày ra. Như ở trong thành Thất la này,
khi dân chúng mới cất nhà, thì họ đào giếng để múc nước.
Đào một thước đất, thì thấy có một thước hư không
hiện ra, đào xuống mười thước thì thấy có mười thước
hư không hiện ra; hư không cạn không hay sâu là tùy người
đào nhiều hay ít. Vậy hư không này là do đất sanh, do đào
mà có, hay không do đâu mà tự sanh?
A-Nan, hư không này, nếu không
do đâu mà tự sanh, thì khi chưa đào sao không thấy có hư
không, mà chỉ thấy đất đặc? Còn cái ??hư không do đào
mà có??; thì khi quăng đất ra, đáng lẽ phải thấy hư không
vào. Nếu quăng đất ra trước mà không thấy hư không vào,
thời sao lại nói ??hư không do đào đất mà có??. Nếu hư
không không ra vào, thời đáng lẽ nó cùng với đất không
khác; nếu không khác thời đồng với đất. Vậy khi quăng
đất ra, sao chẳng thấy hư không ra?
Nếu nói ??hư không do đào
đất mới có??, thời khi đào, đáng lẽ phải ra hư không
chớ sao lại ra đất? Còn nói ??hư không chẳng do đào mà
ra ?? thì khi đào ra đất, tại sao thấy có hư không?
Các ông nên chín chắn quan
sát: đào là từ nơi tay người tùy theo chỗ mà đào. Còn
đất cục là nhơn chỗ đất cái dời đi. Đào là việc thật,
còn hư không thì trống không, hai cái không dính líu gì với
nhau, không hòa không hiệp. Vậy hư không từ nơi đâu mà ra
không lẽ không nhơn đâu mà hư không tự có.
Các ông biết trong chơn tâm
tánh (bản thể) của hư không (tâm) là chơn giác (tâm); tánh
(bản thể) của giác (tâm) là chơn không, vốn saün thanh tịnh,
khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm chúng sanh thế nào,
thì nó hiện ra thế ấy. Một chỗ đào giếng, thì một chỗ
có hư không, khắp cả trong thế gian đều đào giếng, thì
khắp cả thế gian có hư không; tùy theo nghiệp của chúng
sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở gì. Người
trong thế gian không biết, khởi tâm phân biệt so đo, chấp
là nhơn duyên sanh hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng
cả.
A-Nan, ông nên biết: hiện tiền
tấn của năm đại: đất, nước, gió, lửa và hư không vốn
viên dung khắp giáp, không lay động, đều là chơn tâm cả,
không có sanh và diệt. Chỉ tại các ông mê muội không biết
mà thôi.
LƯỢC GIẢI
Đất, nước, gió, lửa và
hư không,năm đại này thuộc về phần vật chất, đại diện
cho các cảnh vật. Hai đại diện sau (kiến và thức) là thuộc
về phần tinh thần, đại diện cho các thức.
II.-CÁC GIÁC QUAN TỪ CHƠN TÂM
BIẾN HIỆN[^]
A-Nan, cái ??thấy?? không tự
thể, nhơn đối với cảnh vật và hư không mà có, như ông
ngày nay ngồi trong rừng Kỳ đà, sớm mai thấy sáng, chiều
lại thấy tối, đêm không trăng trời thấy tối, có trăng
lại thấy sáng. Nhơn có tối và sáng, nên ông mới thấy có
phân biệt.
Vậy cái ???thấy?? này cùng
với tối, sáng và hư không là một thể hay không phả một
thể? Đồng hay khác?
Này A-Nan, khi tối thì không
có sáng, khi sáng không có tối. Nếu cái thấy này cùng với
tối đồng một thể thì khi sáng đến, cái thấy phải mất.
Còn cái thấy này cùng với cái sáng đồng một thể, thì
khi tối lại, cái thấy diệt. Nếu cái thấy diệt, thời làm
sao thấy tối và thấy sáng. Lại nữa, tối và sáng khác nhau,
còn cái thấy lại không sinh diệt, như thế thời làm sao nói
đồng một thể được.
Nếu nói cái thấy cùng với
tối, sáng và hư không chẳng phải một thể, thì rời tối,
sáng và hư không, ông hãy chia riêng cái thấy của ông ra xem
thử hình tướng của nó thế nào. Nếu trời tối, sáng và
hư không thì cái thấy của ông như lông rùa, sừng thỏ; nghĩa
là không có. Khi phân tách ra tối, sáng và hư không, ba cái
đều khác, thì cái thấy của ông ở chổ nào?
Lại nữa, tối sáng trái nhau,
thế nào nói đồng được? Rời tối, sáng và hư không ra,
không có cái ??thấy??, thì làm sao nói khác được? Không thể
chia ranh đây là hư không, kia là cái ??thấy?? được, thời
làm sao lại nói ??không đồng??? tối, sáng chẳng đồng, còn
cái ??thấy?? không biến đổi thì sao lại nói ??không khác???
Ông nên chín chắn suy xét:
cái sáng là từ nơi mặt nhựt, cái tối thuộc ban đêm, chỗ
trống thuộc hư không, nơi bít là thuộc về đất; cái "thấy"
có biết còn hư không không biết, không phải hòa không phải
hiệp. Vậy cái "thấy" từ nơi đâu mà sanh, không phải tự
nhiên có?
Các ông không biết: trong chơn
tâm, cái tánh của "thấy" là tâm (giác minh) tâm là tánh của
thấy; vốn sẳn thanh tịnh khắp cả pháp giới, tùy tâm của
chúng sanh phân biệt như nào, thì hiện ra theo sự hiểu biết
của chúng sanh như thế ấy. Như một con mắt là một cái
thấy. Cho đến tai nghe, mũi ngữi, miệng nếm, thân xúc, ý
biết, sáu giác quan cũng vậy, đều khắp cả pháp giới, tùy
theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng
xứ sở gì.
LƯỢC GIẢI
Như điện, vào đèn thì đèn
cháy, vào quạt quạt lại quay v.v...điện không có phương
hướng xứ sở gì, chỉ tùy duyên phát hiện. Còn tâm cũng
thế, tâm vẫn là một, nếu đến mắt thì thấy, còn đến
tai thì nghe v.v...tùy duyên phát hiện.
*
Thấy, nghe, hay, biết sáu giác
quan kể là một, cùng với hư không và bốn đại, thành ra
sáu đại, tấn có viên dung vốn không lay động, đồng một
thể chơn tâm, không sanh không diệt, thế gian vì mê lầm không
biết, sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự
nhiên có đều không đúng cả.
III.-THỨC (PHÂN BIỆT) TỪ CHƠN
TÂM ĐẾN THIỆN[^]
-Này A-Nan, cái ""thức" (phân
biệt) không có căn nguyên, nhơn sáu căn và sáu trần mà vọng
hiện. Ông nay dùng mắt xem khắp trong hội này, thì con mắt
của ông chẳng khác nào như cái kiếng chiếu cảnh, không
có phân biệt gì riêng khác. Rồi cái "thức" của ông mới
khởi lên, tuần tự phân biệt: đây là ông Văn thù, kia là
ông Phú-Lâu-Na, đó là ông Mục-kiền-liên, nọ là ông Tu-Bồ-Đề
v.v...vậy cái thức hiểu biết phân biệt này, từ cái thấy
sanh, hay từ nơi cảnh vật sanh? Từ hư ra, hay không do đâu
mà tự xuất hiện?
A-Nan, nếu nói "cái thức của
ông từ nơi cái thấy sanh", mà không có tối, sáng, cảnh vật
và hư không bốn món, thì cái "thấy" của ông không có. Cái
thấy còn không có, thời cái thức phân biệt kia làm sao từ
nơi cái thấy mà sanh được.
Còn nói "thức phân biệt này
từ cảnh vật sanh, chớ không phải từ nơi cái thấy". Nếu
không có cái thấy để thấy tối, sáng, cảnh vật và hư
không các tướng, thời cái "thức" của ông từ nơi đâu mà
sanh được.
Còn nói "thức từ hư không
sanh, không phải từ nơi cảnh vật và cái thấy". Nếu không
có cái "thấy" thời không thấy được sáng, tối, cảnh vật
và hư không. Còn nếu không có các cảnh vật thì thấy, nghe,
hay, biết không từ nơi đâu mà có.
Nếu nói "thức không phải
từ cảnh vật và cái thấy sanh" , như thế thì nó đồng với
cái không. Còn nói "nó có mà không phải đồng cảnh vật",
thì dầu cho cái thức của ông có phát sanh ra nữa, cũng không
thể phân biệt cái gì được.
Nếu nói "thức không nhân đâu,
thoạt nhiên xuất hiện", thì sao khi ban ngày, ông không thể
phân biệt được mặt trăng?
Ông nên chín chắn suy xét:
cái thấy thì nó gá nơi con mắt của ông, còn các hình tướng
là ở nơi cảnh vật. Những gì có hình tướng thời có, còn
không hình tướng là không. Cái "thức" thì động (có phân
biệt), còn cái ??thấy?? lại yên lặng (không phân biệt),
không phải hòa không phải hiệp. Vậy thì cái thức phân biệt
của ông từ đâu sanh ra? Không lẽ không do đâu mà tự có?
Các ông không biết trong chơn
tâm, tánh của thức là tâm, tâm mới thật là thức (chơn
thức), nó nhiệm mầu yên lặng, sáng suốt, khắp giáp cả
pháp giới , hàm chứa và sanh ra mười phương hư không thế
giới, chỉ tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không
có phương hướng xứ sở. Thế gian không biết, khởi thức
tâm phân biệt chấp trước, cho là nhân duyên sanh hoặc tự
nhiên có v.v...đều không đúng cả.
Các ông nên biết: đất, nước,
gió, lửa hư không, cái thấy và thức tâm gọi chung là bảy
đại, tánh của nó đều là chơn tâm viên mãn khắp giáp tất
cả, vốn không sanh diệt. Các ông vì mê muội nên không biết.
LƯỢC GIẢI
Chúng ta nên phân biệt rõ ràng:
"thức" và cái "thấy".
Cái "thấy" là thuộc các giác
quan, về phần trực giác. Nó cũng như cái kiếng chiếu cảnh,
không có phân biệt tính toán. Còn "thức??thì có phân biệt
tốt, xấu, hay, dở v.v...so theo Duy thức tôn, để nói cho dể
hiểu: trong đây nói "thức" là chỉ cho thức thứ Sáu; còn
nói cái "thấy" là chỉ về năm thức trước.
Tóm lại, nói đất, nước,
gió, lửa, hư không , cái thấy và thức, cộng là bảy đại,
gồm cả vật chất cả tinh thần.
Đất, nước, gió, lửa, hư
không là thuộc về vật chất, còn thấy các thức là thuộc
về phần tinh thần. Trong vũ trụ tuy có thiên hình vạn trạng,
nhưng tóm lại thì không ngoài vật chất và tinh thần.
Đoạn này là cả nói về vật
chất lẫn tinh thần đều từ nơi chơn tâm, tùy theo nghiệp
của chúng sanh mà hiện ra như thế này, hoặc như thế kia,
ngàn sai muôn khác. Như người chiêm bao thấy hiện ra các cảnh
vật (đât, nước v.v...)
Về bản thể (tâm) của bảy
đại thì chơn, không có sanh diệt. Còn về hiện tượng (các
hình tướng) thì vọng. Vì chúng sanh mê muội không biết,
chấp thế này hoặc thế kia, (như người đương chiêm bao
chấp các cảnh chiêm bao là thật). Một phen ngộ được chơn
tâm, thì bảy đại này đều trở về thể tánh chơn tâm (như
người thức giấc, thì cảnh chiêm bao liền hết; lúc bấy
giờ mới biết các cảnh vật trong chiêm bao đó, đều do tâm
chiêm bao hiện ra).
IV.- A-NAN VÌ NGỘ ĐƯỢC CHƠN
TÂM NÊN ĐỨNG DẬY PHÁT LỜI THỀ NGUYỆN RỘNG LỚN[^]
Khi ấy A-Nan và đại chúng
nhờ Phật chỉ dạy rất cặn kẽ, nên mỗi người đều ngộ
được chơn tâm của mình rộng lớn khắp cả mười phương
hư không. Lúc bấy giờ ông lại thấy cả mười phương thế
giới rất nhỏ hẹp và rõ ràng cũng như một lá cây cầm
trong tay. Tất cả các cảnh vật sum-la vạn-tượng trong thế
gian này, đều ở trong chơn tâm; chơn tâm bao trùm khắp giáp
cả mười phương thế giới. Khi ấy ông xem trở lại cái
thân do cha mẹ sanh đây, thật nhỏ nhen làm sao! Như một hạt
bụi nhỏ ở trong mười phương hư-không, dù còn, dù mất
cũng không thấm vào đâu và cũng như một hòn bọt nhỏ, nỗi
ở trong bể cả rộng khơi, dầu sanh dầu diệt cũng không
nhằm gì.
Vì ông A-Nan hiểu lộ được
chơn tâm của mình còn không diệt và rộng lớn như vậy,
nên ông đứng trước Phật chắp tay kính lạy, và xứng theo
chơn tâm rộng lớn, mà nói bài kệ phát nguyện như vầy:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Diệu trạm, Tổng trì, Bất
động tôn
Thủ Lăng-Nghiêm vương, thế
hi-hữu,
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo
tưởng,
Bất lịch tăng-kỳ hoạch pháp
thân.
Nguyện kim đắc quả thành
bảo vương,
Hườn độ như thị hằng sa
chúng,
Tuơng thử thâm tâm phụng trần
sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục chỉnh Thế-Tôn vị chứng
minh:
Ngũ trược ác thế hệ tiên
nhập,
Như nhất chúng sanh vị thành
Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn.
Đại hùng, đại lực, đại
từ bi,
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
Lĩnh ngã tảo đăng vô thượng
giác,
Ư thập phương giới tọa đạo
tràng
Thuấn-nhã-da tánh khả tiêu
vong,
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển.
DỊCH NGHĨA
Kính lạy Pháp thân, Báo-thân,
Hóa-thân Phật, và kinh Thủ-Lăng-Nghiêm vương là ngôi Pháp-bảo
rất hi hữu trên đời. Tiêu trừ cho con các vọng tưởng điên
đảo từ ức kiếp, khiến con chẳng cần trải qua vô số
kiếp tu hành mà vẫn đặng pháp-thân Phật.
Hôm nay con nguyên mau đặng
thành quả Phật, để trở lại độ chúng sanh nhiều như hằng
sa. Con nguyện đem thân-tâm này, phụng sự các Đức Phật
nhiều như vi trần. Thế mới gọi là đền ơn chư Phật.
Cúi xin Đức Thế-Tôn chứng
minh cho lời nguyện của con: "trong đời ngũ trược tội ác
này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh ". Nếu còn
một chúng sanh nào chưa được thành Phật, thì con thề chẳng
lãnh quả vui Niết-bàn.
Phật là đấng Đại-lực và
Đại-từ-bi. Cúi xin Ngài tiêu trừ các điều mê lầm vì tế
cho con, khiến cho con sớm đặng thành quả Phật, để hóa
độ chúng sanh khắp cả mười phương thế giới. Giả sử
hư không kia có thể tiêu diệt hết, chớ chí nguyện của
con đây chẳng hề lay động.
LƯỢC GIẢI
Ngài A-Nan vì ngộ được chơn
tâm của mình rộng lớn bao hàm cả vũ trụ: vô biên thế
giới vô tận chúng sanh đều ở trong chơn tâm cả. Lúc bấy
giờ, Ngài thấy mười phương thế giới rất rõ ràng và rất
nhỏ hẹp cũng như cái lá cây nằm ở trong tay, còn thân này
nhỏ nhen như hạt bụi bay trong hư không, dầu còn dầu mất
cũng chẳng thấm vào đâu.
Bởi Ngài ngộ được chơn
tâm rộng lớn, cùng với chúng sanh đồng một thể không hai,
cho nên Ngài mới xứng theo chơn tâm rộng lớn, khởi ra đồng
thể đại bi, phát lời thề nguyện rộng sâu như thế.
Xem như câu:
Trong đời ngũ trược tội
ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh. nếu
còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì con thề chẳng
lãnh quả Niết-bàn ...
Và câu:
Giả sử hư không kia có thể
tiêu hết, mà chí nguyện của con đây chẳng hề lay động.
Trong kinh nói:"thế giới vô
biên, chúng sanh vô tận", biết bao giờ độ cho hết tất cả
chúng sanh, mà Ngài lại thề nguyện xung phong vào đời ngũ
trược tội ác trước hết, để cứu độ chúng sanh. Nếu
còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì Ngài chẳng chịu
an vui ở cảnh Niết-bàn.
Thật là lòng từ bi rộng lớn
vô cùng, chie nguyện cao thượng huyền diệu sinh độ đời
của Ngài như thế, đáng cho chúng ta trọn đời bái phục...
Trông lên Ngài rồi ngó lại
ta...thấy rõ tâm chí và hành vi của mình, thật cũng quá ư
hẹp hòi và thấp thỏi!
---*^*---
Mục
Lục Khóa VI
| |
Bài Thứ
1 |
|Bài Thứ
2|
|Bài Thứ
3|
|Bài Thứ
4|
|Bài Thứ
5|
|Bài Thứ
6|
|Bài Thứ
7|
Mục
Lục Toàn Bộ || Khóa I
|| Khóa II|| Khóa
III | |Khóa
IV ||Khóa V|
|Khóa
VI || Khóa VII ||Khóa
VIII ||Khóa IX ||Khóa
X - XI ||Khóa XII
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn
Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức,
02/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
|
|