|
. |
Phật Học
Phổ Thông
PHẬT
HỌC PHỒ THÔNG KHÓA VI
TRIẾT
LÝ ĐẠO PHẬT
hay là
ĐẠI
CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
--- o0o ---
BÀI THỨ
TƯ
--- o0o ---
I.-A-NAN CẦU PHẬT CHỈ CÁI
"ĐIÊN- ĐẢO".
[^]
Khi ấy A-Nan đứng dậy lạy
Phật, kính cẩn bạch rằng:
Nếu cái thấy, nghe, không sanh
diệt này là "Tâm" của chúng con, tại sao trước kia đức
Thế Tôn lại quở chúng con "bỏ mất chơn tâm, làm việc điên
đảo"?
Cúi xin đức Như Lai mở rộng
lòng từ bi hỉ dạy cho chúng con biết cái "Điên đảo" ở
chỗ nào.
II.-PHẬT DẪN TỶ DỤ ĐỂ
CHÆ RÕ CÁI "ĐIÊN ĐẢO".[^]
Khi đó Phật xuôi cánh tay chỉ
xuống đất, hỏi ông A-Nan rằng:
Ông thấy cánh tay của ta như
thế này, là xuôi hay ngược?
A-Nan thưa:-Các người trong
thế gian cho như thế là ngược; còn con thì không biết là
ngược hay xuôi.
Phật lại hỏi ông A-Nan:-Các
người trong thế gian cho như thế là ngược, thì họ cho như
thế nào mới là xuôi?
A-Nan thưa:-Đức Như Lai đưa
cánh tay lên, năm ngón chỉ thẳng lênhư không, như thế là
xuôi.
Phật liền đưa tay lên, rồi
kêu A-Nan mà bảo rằng:- Cũng một cánh tay này chứ không chi
khác, chẳng qua chỉ đổi đầu làm đuôi, đổi đuôi làm
đầu mà thôi, thế mà người thế gian, chấp thế này là
ngược và thế kia là xuôi; điên đảo là đấy! Đấy là
điên đảo.
Đem một cánh tay này mà so
sánh, để chỉ rõ thêm ra: Thân Như Lai gọi là thân Phật
(giác ngộ), thân các ông gọi là thân điên đảo(chúng sanh).
Vậy ông nên chín chắn xem xét: thân ông và thân Phật, cái
"Điên đảo" (chúng sanh) ở chỗ nào?
LƯỢC GIẢI
Ý Phật chỉ: Đồng một thể
tánh chơn tâm, vì vô minh vọng động, chấp đây thật là
Phật , kia thật là chúng sanh. Đó là "điên đảo".
*
III.-PHẬT CHỈ NGAY CÁI "ĐIÊN-
ĐẢO"[^]
Khi ấy A-Nan và đại chúng
ngó Phật sửng sốt, đôi mắt không nháy, vì không biết ở
nơi thân này và tâm này, cái"điên đảo" ở chỗ nào!
Phật thấy vậy thương xót
mới dạy tiếp:
Ta thường nói: "Các pháp đều
duy tâm biến hiện, cho đến thân và tâm ông ngày nay, cũng
đều là vật ở trong chơn tâm hiện ra ". Tại sao các ông
lại bỏ cái bản thể chơn tâm đi. Các ông vẫn ở trong ngộ(chơn
tâm) làm mình (điên đảo là đó), thật đáng buồn thương!
IV.-PHẬT DẠY:VÌ MÊ NÊN CÓ
THẾ -GIỚI VÀ CHÚNG- SANH.[^]
-Này A-Nan, bởi vô minh vọng
động nên biến hiện ra có hư không, thế giới và chúng sanh.
Trong thân chúng sanh vì có vọng tưởng lẫn lộn, nên nó vọng
động leo chuyền bên trong (như vượn, như ngựa); khi các giác
quan mở ra, thì nó rong ruổi theo trần cảnh bên ngoài (như
vượn sút xiềng, ngựa tông chuồng). Rồi các ông cháp cái
tướng vọng tưởng lăng xăng bên trong đó, cho là tâm tánh
của mình. Một phen chấp nó làm tâm, thì không sao khỏi mê
lầm cho rằng "tâm ở trong thân".
Chứ đâu biết rằng: thân
này, tâm này, cho đến núi, sông, thế giới và hư không đều
là vật trong chơn tâm hiện ra cả.
LƯỢC GIẢI
Như người đương thức (dụ
chơn tâm) bổng chốc buồn ngủ (dụ vô minh). Khi ngủ chiêm
bao thấy có hư không, thế giới, chúng sanh và mình (dụ vô
minh sanh ra thế giới và chúng sanh), rồi chấp cái thân và
tâm trong chiêm bao kia là mình, mà bỏ cả cảnh thức tỉnh
rộng lớn này đi v.v...(dụ như vì mê muội nên nhận cái
vọng thân vọng tâm này làm minh, cảnh này là thật, mà bỏ
cái toàn thể chơn tâm sáng suốt rộng lớn kia).
*
Cái chơn tâm rộng lớn như
vậy, các ông lại bỏ đi không nhận, trỡ lại chấp cái
vọng thân, vọng tâm này cho là thật của mình. Cũng như toàn
thể bể cả rộng khơi trong trẻo kia không nhận, trở lại
chấp hòn bọt nhỏ nhen cho là toàn thể bể cả, thật là
điên đảo! Các ông là một trong vô số người mê muội,
thật đáng thương xót !
Như, cũng một cánh tay của
ta, mà chầp thế này là ngược, thế kia là xuôi, cũng đồng
một loại điên đảo!
V.- A-NAN ĐÃ HIỂU ĐƯỢC "CHƠN
TÂM" SONG CHƯA DÁM NHẬN.[^]
Ông A-Nan vì thấy lòng từ
bi tha thiết của Phật thương xót hết sức nồng hậu, chỉ
dạy rất thâm trầm, nên cảm động rơi nước mắt, kính
cẩn bạch Phật rằng:
-Con tuy nhờ Phật chỉ dạy
cho hiểu được chơn tâm, nhưng hiện nay con vẫn còn dùng
"cái tâm phân biệt" (vọng tâm) nghe lời Phật nói, rồi ngộ
suông cái chơn tâm này mà thôi, nên chưa dám nhận chắc là
tâm con. Vậy xin Phật thương xót chỉ dạy cho con hết nghi
ngờ, để trỡ về với đạo vô thượng.
Phật dạy: Nếu các ông lấy
vọng tâm nghe chánh pháp (chơn tâm) thì chánh pháp này cũng
trở thành ra vọng, không thể nghe đặng chánh pháp.
Các ông nên biết: ta cũng như
người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn
ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng,
thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không
biết luôn cả ngón tay. Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không
những không biết ngón tay là gì, mà cũng không biết thế
nào là tối và sáng. Vì mê chấp ngón tay là mặt trăng, thì
tối và sáng làm sao ró được.
Nay nếu các ông chấp cái "phân
biệt" (vọng) làm tâm của mình, thì cái tâm này, khi rời
tiếng nói pháp của ta, cũng vẫn còn phân biệt, thế mới
phải thật là tâm của các ông (chủ). Nếu rời tiếng nói
pháp của ta ra, mà các ông không còn phân biệt nữa, thì đó
là vọng (khách) chớ không phải thật tâm (chủ) của các
ông rồi.
Cũng như người khách, chỉ
ngủ nhờ rồi đi, chớ không ở lại được. Nếu thật là
chủ nhà, thì ở luôn chớ không còn đi đâu nữa.
Cũng thế, nếu thật là tâm
của ông, thì không đi đâu cả. Tại sao khi rời tiếng nói
pháp của ta, thì ông không còn phân biệt nữa?
Không những cái "phân biệt"
về tiếng, cho dến cái "phân biệt" về sắc, hương ,vị ,
xúc và pháp, nếu rời sáu trần cảnh ra, thì nó đều không
còn phân biệt nữa. Thế thì cái tâm của ông đồng là khách,
có chỗ trả về. Vậy cái nào là "chủ", thật là tâm của
ông?
A-Nan hỏi Phật:- Nếu cái tâm
của con có chỗ trả về (trần cảnh qua thì tâm phân biệt
hết) thì tại sao đức Như Lai lại nói: "Cái chơn tâmcủa
con không trả về đâu cả?". Xin Phật mở lòng từ bi chỉ
dạy cho.
IV.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ
TƯ[^]
Phật dạy:- Này A-Nan , tất
cả cảnh vật trong thế gian không ngoài: sáng, tối, trống,
bít, trong, đục v. v...Nay ta đem cá vạt này , cái nào trả
về cho bản nguyên của cái nấy.
Như ánh sáng thì trả về cho
mặt nhựt, vì không mặt hựt thì không sáng; còn tối thì
trả về cho ban đêm, thông thả về cho trống, bít trã về
cho vách, trong trả về cho tịnh, đục trả về cho bụi v.v...Cái
nào trả về cho cái nấy rồi; càn cái "thấy" của ông thấy
các cảnh vật đó, ông muốn nó trở về đâu? Nếu trả về
cho cái sáng, thì khi tối đến đáng lẽ ông không thấy tối.
Nếu trả nó về cho tối, thì khi sáng đến ông cũng phải
không thấy sáng; còn trả về cho trống, bít v.v...cũng thế.
Rõ ràng các cảnh vật tuy có
thiên sai vạn biệt, mà "cái thấy" của ông thật không sai
khác. Như vậy, cái nào có thể trả được, thì cái đó là
khách, tự nhiên không phải là ông rồi; còn cái nào ông không
trả về được, thì cái đó là chủ, quyết định của ông
chớ ai?
Cái tâm của ông mầu nhiệm
sáng suốt và sẳn sàng như vậy, tại sao ông lại tự mê
muội đi, trở lại nhận cái vọng làm mình, đành chịu nổi
chìm trong biển khổ sanh tử, thật đáng thương xót !
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật phân tách các
trần tướng, cái nào trả về cái nấy, để cho rõ "cái thấy"
không trả về đâu được. Đó là cái "chủ", là "tâm" của
chúng ta vậy.
*
VII.- A-NAN CÒN NGHI HỎI PHẬT[^]
A-Nan thưa: Bạch thế tôn, con
tuy biết cái "thấy" này, không trả về đâu được, nhưng
làm sao biết chắc nó là "chơn tâm" của con?
VIII.-PHẬT CHÆ TÂM LẦN THỨ
NĂM[^]
Phật dạy rằng: Này A-Nan,
ông thử xem trước mắt, tất cả các cảnh vật sum la vạn
tượng, nào là núi sông, đất nước v.v...Ông nên lựa riêng
ra cái nào thuộc về cảnh vật, còn cái nào là tâm ông.
Này A-Nan, cùng tột tầm mắt
thấy của ông, ngó lên thì thấy mặt trời, mặt trăng, đó
là vật chớ không phải là ông; xem rộng ra, núi, sông, cây
cối, cỏ hoa, người thú; cho đến gió bụi, chim chóc, cũng
đều là vật chớ không phải ông.
A-Nan, tất cả các cảnh vật,
mặc dù có cao thấp, xa gần, ngàn sai muôn khác, song cũng đều
là "vật bị thấy" của ông cả. Các vật loại tuy có sai
khác, mà cái thấy của ông không khác. Thế thì cái "hấy"
này chính là "tâm" của ông chứ không phải vật.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật chỉ tâm rất
rõ ràng.
*
IX.-PHẬT DẠY THÊM CÁI "THẤY"
LÀ TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI VẬT.[^]
Nếu cái "thấy" này là vật,
thì ông cũng có thể thấy được cái "thấy" của ta.
Nếu ông cùng ta đồng thấy
một vật, (bị thấy) mà ông cho là thấy được "cái thấy"
của ta, thời khi ta không thấy, sao ông chẳng thấy được
cái "không thấy" của ta? (vì cái thấy không phải vật nên
chẳng thấy được nó).
Nếu ông nói: thấy được
cái "không thấy" của ta, thì ông thấy cái gì đó, chớ quyết
định không phải là thấy cái "không thấy" (tâm) của ta.
Nếu ông không thấy được cái "không thấy" của ta, thì quyết
định nó là "tâm", đương nhiên không phải là vật rồi.
Lại nữa, nếu cái thấy là
vật, thì khi ông thấy nó, nó cũng phải thấy được ông.
Như vậy thời tâm, vật lôn lạo; và trong thế gian này, không
thể phân biệt được loài hữu tình (tâm), và loài vô tình
(vật).
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này Phật nói
vật thì bị thấy, còn tâm thì không bị thấy. Bởi cái thấy
là tâm, nên không thể thấy được nó.
*
Này A-Nan, khi ông thấy các
cảnh vật, cái thấy của ông khắp giáp tất cả, cái thấy
đó không phải của ta và của người khác, thì quyết định
của ông chớ ai?
Rất rõ ràng như thế, tại
ông còn nghi "chơn tâm" của ông? Cái "chơn tâm" của ông như
vậy, sao ông không tự nhận lấy, lại đi cầu ta chỉ "chơn
tâm" cho nữa?
LƯỢC GIẢI
Đoạn này, Phật chỉ tâm rõ
ràng hơn hết.
*
X.-ANAN NGHI "CÁI THẤY" CÓ LỚN
NHỎ, ĐỨT NỐI.[^]
A-Nan thưa Phật: -Bạch Thế
Tôn, nếu cái "thấy" này quyết định là tâm của con, chớ
không phải của ai, thì khi con xem vũ trụ bao la, thấy mặt
trời, mặt trăng...lúc bấy giờ cái thấy của con rộng lớn
khắp giáp cả hư không. Khi con trở vào trong nhà, thì chỉ
thấy nội trong nhà thôi.
Vậy cái thấy này nó phải
rút nhỏ lại, chun vào nhà, hay là khi vào nhà, nó bị tường
vách cắt đứt, nên còn nhỏ như thế? Chúng con không biết
nghĩa này thế nào, xin Phật từ bi chỉ dạy.
XI.- PHẬT DẠY: TRẦN CẢNH
CÓ LỚN NHỎ, CÁI "THẤY" KHÔNG LỚN NHỎ[^]
Phật dạy: Này A-Nan, trong thế
gian tất cả cảnh vật có lớn nhỏ trong ngoài, tốt xấu
v.v...đều thuộc về trần cảnh hiện tiền cả, chớ không
phải cái thấy của ông có lớn nhỏ, tóp lại hay nới ra.
Cũng như trong cái hộp vuông,
thì thấy hư-không vuông, trong cái chén tròn thấy hư không
tròn. Vì chén tròn, hộp vuông, nên thấy hư không có vuông
và tròn, chớ không phải cái hư không thật có tướng vuông
tròn.
Nếu hư không quyết định
là vuông, thì khi để cái chén tròn, đáng lẽ không thấy
hư không tròn.
Trái lại, Nếu hư không quyết
định là tròn, thì khi để hộp vuông, đáng lẽ không thấy
nó vuông.
Vậy nên biết: vuông, tròn
là tại đồ vật, chớ không phaiû hư không có vuông, tròn.
Nếu phá hết các đồ vuông, tròn thì ông sẽ thấy hư không
không có tướng vuông, tròn. Không phải bỏ hư không vuông
mà có hư không tròn, hay trừ hư không tròn mà có hư không
vuông.
Cái "thấy" của ông cũng thế,
không có vuông tròn hay lớn nhỏ, mà lớn nhỏ, vuông tròn
là tại cảnh vật.
Nếu ông cho khi vào nhà, cai
ty
Nếu ông cho khi vào nhà, cái
"thấy" quyết định phải tóp nhỏ lại, thì ông ra ngoài sân
xem mặt nhựt, ông phải kéo giản cái tyquyết định phải
tóp nhỏ lại, thì ông ra ngoài sân xem mặt nhựt, ông phải
kéo giản cái "thấy" ra đến mặt nhựt hay sao?
Lại nữa, khi vào nhà, nếu
ông cho cái thấy bị cắt đứt đi, thì khi xoi vách trống
ra một lỗ, thấy được bên ngoài, sao cái thấy của ông
không có dâùu nối?
Nghĩa đó rất rõ ràng như
vậy, chớ có chi lạ mà ông nói không biết.
A-Nan, tất cả chúng sanh từ
vô thỉ đến giờ vì mê mình (tâm) làm vật, bỏ mất chơn
tâm của mình, bị cảnh vật xoay chuyển ( chi phối) nên tấy
có lớn nhỏ, rộng hẹp, tốt xấu v.v...Nếu ai chuyển xoay
được cảnh vật, thân tâm đặnh sáng suốt viên mãn, thì
đồng với chư Phật. Lúc bấy giờ không rời nơi đạo tràng
(chổ nầy) mà ở trên đầu một mảy lông, có thể chứa
đựng khắp cả mười phương thế giới.
LƯỢC GIẢI
Từ nơi thể tánh chơn tâm,
vì vô minh vọng động, sanh ra có hư không thế giới, chúng
sanh cùng các cảnh vật, nên gọi "mê mình là vật".
Khi có cảnh vật rồi, cứ
thro đó mà phân biệt xấu tốt, lớn nhỏ, mừng giận v.v...nên
nói "bị vật chuyển xoay".
Đến khi hết vô minh vọng
động, trở lại với thể tánh chơn tâm, thì các cảnh vật
ấy không còn; như người thức giấc chiêm bao, thì cảnh chiêm
bao kia hết, nên nói "xoay chuyển vật" là thế.
Lúc bấy giờ, một sợi lông
hay mười phương thế giới cũng đều là chơn tâm cả. Đã
đồng là chơn tâm, thì không còn thấy thế giới lớn hơn
sợi lông, hay sợi lông nhỏ hơn thế giới , vì đồng một
thể tánh, nên nói: "Trên đầu một sợi lông, có thể chứa
đựng mười phương thế giới".
Đoàn này lý thâm, phải suy
nghĩ nhiều mới hiểu.
---*^*---
Mục
Lục Khóa VI
| |
Bài Thứ
1 |
|Bài Thứ
2|
|Bài Thứ
3|
|Bài Thứ
4|
|Bài Thứ
5|
|Bài Thứ
6|
|Bài Thứ
7|
Mục
Lục Toàn Bộ || Khóa I
|| Khóa II|| Khóa
III | |Khóa
IV ||Khóa V|
|Khóa
VI || Khóa VII ||Khóa
VIII ||Khóa IX ||Khóa
X - XI ||Khóa XII
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn
Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức,
02/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
|
|