|
. |
Phật
Học
Phổ
Thông
PHẬT
HỌC
PHỒ
THÔNG
KHÓA
VI
TRIẾT
LÝ
ĐẠO
PHẬT
hay
là
ĐẠI
CƯƠNG
KINH
LĂNG
NGHIÊM
---
o0o
---
BÀI THỨ
SÁU
--- o0o ---
I.-A-NAN
KHÔNG
HIỂU
HỎI
PHẬT
[^]
A-Nan
thưa
Phật:-
Bạch
Thế
Tôn,vừa
rồi
Phật
nói
cái
nghĩa
"nhơn
duyên,
tự
nhiên
hòa
hiệp
và
bất
hòa
hiệp
",chúng
con
còn
chưa
hiểu,
nay
lại
nghe
Phật
nó
đến
nghĩa
"
tâm
sanh
ra
cái
thấy,
cái
thấy
không
phải
tâm
..."
chúng
con
lại
còn
thêm
mù
mịt
nữa.
Cúi
xn
đức
Như
lai
duỗi
lòng
từ
bi,
chỉ
dạy
cho
chúng
con
ngộ
được
nhơn
tâm
thanh
tâm
thanh
tịnh,
sáng
suót
này.
II.-
PHẬT
CHÆ
HAI
MÓN
VỌNG
THẤY
[^]
Phật
dạy:
-A-Nan
ông
phải
chín
chắn
nghe,
ta
sẽ
vì
các
ông
phân
biệt
chỉ
dạy,cũng
khiến
cho
chúng
sanh
đờ
i
sau
ngộ
được
đạo
quả
Bồ
đề.
Này
A-Nan
,
tất
cả
chúng
sanh
bị
sanh
tử
luân
hồi
trong
thế
gian,
đều
do
ha
món
điên
đảo
phân
biệt
vọng
thấy,
tức
nơi
đó
phát
sanh
ra
sự
nghiệp,
rồi
theo
nghiệp
mà
chịu
khổ
luân
hồi.
LƯỢC
GIẢI
Từ
nơ
tâm
động
vọng
sanh
ra
các
nghiệp,
rồi
theo
nghiệp
mà
chịu
khổ
hay
vui.
Cũng
như
người
từ
mê
mà
sanh
ra
ngủ,
từ
nơi
đó
mà
hiện
ra
các
cảnh
vật
vui,
buồn
rồi
chịu
lấy
buồn
vui.
*
-Thế
nào
là
hai
món?
-1-
Cái
điên
đảo
thấy
thuộc
về
nghiệp
riêng
của
cá
nhơn.
20
Cái
điên
đảo
vọng
thấy
thuộc
về
nghiêïp
chung
của
nhơn
loại.
III.-
DỤ
VỀ
NGHỆP
CHUNG
CỦA
CÁ
NHƠN
.
[^]
A-Nan,
sao
gọi
là
cái
điên
đảo
vọng
thấy
thuộc
về
nghẹp
riêng
của
cá
nhơn?
Dụ
như
người
nhặm
con
mắt,
ban
đem
dòm
đèn
thấy
có
vòng
tròn
òa
đỏ
năm
màu
(ngủ
uẩn).
Ý
ông
ghĩ
sao?
Cái
vầng
đỏ
năm
màu
ấy,
của
đèn
hay
cái
thấy?
A-Nan,
nếu
ông
nói
"của
đèn"
thì
sao
những
người
không
nhặm
mắt,
họ
chẳng
thấy
vầng
đỏ,
mà
duy
có
người
nhặm,
mắt
mới
thấy
thôi?
Nếu
nói
"cái
vầng
đỏ
đó
của
cái
thấy,
thì
cái
thẫyđa
thành
vầng
đỏ;
vậy
người
nhặm
con
mắt
thấy
vầng
đỏ,
thì
bảo
là
thấy
cái
gì?
(vì
cái
thấy
đã
thành
vầng
đỏ
rồi,
thì
hông
thể
nói
thấy
vầng
đỏ
nữa
được"
Lại
nữa
nếu
ông
chấp
"cái
vầng
đỏ
rời
đèn
riêng
có
",
thời
đáng
lẽ
ông
xem
bàn
ghế
chung
quanh
đều
có
vầng
đỏ
cả.
Còn
nói
"vầng
đỏ
rời
cái
thấy
riêng
có",
thì
không
cần
con
mắt
thấy.
Vậy
thì
tại
sao
người
nhặm
mắt
thấy
có
vầng
đỏ?
Thế
nen
phải
biết:
cái
mà
sáng
là
ở
nơi
đèn,
cái
thấy
vì
bệnh
mắt
mà
có
bóng
lòa.
Cái
"bóng
lòa
"
và
cái
"thấy
lòa"đều
do
nơi
mắt
nhặm.
Còn
cái
thấy
được
lòa
nhặm,
thì
"cái
thấy"
đó
không
phải
nhặm
hiện.
LƯỢC
GIẢI
Đại
ý
đoạn
này
Phật
nói:
Vì
vô
minh
vọng
động
(
nhặm)
mà
thấy
có
cái
cảnh
vật
hiện
ra
như
vậy
(lòa
đỏ).
Chớ
không
phải
do
chơn
lý
(du
đèn)
hay
chơn
trí
(dụ
cái
thấy)
và
cũng
không
thể
nói
nó
ngòai
chơn
lý
hay
chơn
trí.
*
IV.-DỤ
VỀ
NGHIỆP
CHUNG
CỦA
ĐỔNG
LOẠI
[^]
-A-Nan,
sao
gọi
là
nghiệp
chung
vọng
thấy
của
đồng
loại?-
Dụ
như
trong
thế
giới
này
có
nhièu
nước.
Nhưng
chỉ
có
một
nước
vì
dân
chúng
đồng
tạo
ác
nghiệp,nên
điều
cảm
thấy
có
điềm
không
tốt,
như
sao
chổi,
sao
phướn,
hoặc
hai
mặt
trời,
hai
mặt
trăng
v.v...Còn
dân
chúng
ở
các
nướckhac
thời
đều
không
thấy
và
cũng
không
nghe.
V.-
LẤT
NGHIỆP
RIÊNG
ĐỂ
CHỈ
RÕ
NGHIỆP
CHUNG
[^]
Này
A-Nan
,
như
người
nhặm
con
mắt,
vì
nghiệp
riêng
của
họ,
nên
"vọng
thấy"cáiđèn
có
vầng
đỏ
hiện
ra.
Tại
con
mắt
nhặm
mới
thành
ra
lòa,
chớ"cái
thấy"
đó
không
lòa.
So
sánh
như
các
ông
ngày
hôm
nay,
thấy
có
núi,
sông,
thế
giới
và
chúng
sanh
đó,
đều
do
ái"
nhặm
lòa
từ
vô
thỉ"(
vô
minh
vọng
động
từ
vô
thỉ)
cho
nên
mới
thấy
cảnh
vật
hiện
ranhư
vậy.
Các
ông
nên
biết:"mắt
thấy"
(kiến)
với
cảnh
vật
bị
thấy
(
kiến
duyên)
hiện
tiền
đây,
dều
do
cái
"vọng
thấy"
(giác
minh)
hiện
ra.
Cái
"vọng
thấy"
đó
(
giác
kiến)nó
lòa
nhặm,
chớ
cái
chơn
tâm
không
nhòa
nhặm.
Cái
chơn
tâm
biết
được
cái
lòa
nhặm
đó
(
giác
sở
giác
sảnh)
nó
không
phải
ở
trong
lòa
nhặm
(gíac
phi
sảnh
trung).
Như
thế
thời
làm
sao
bảo
cái
chơn
tâm
đó
là
các
cảm
giác
thấy,
nghe,
hay
biết
được
ư?
đây
chính
là
cái
nghĩa:"tâm
sanh
ra
cái
thấy,
cái
thấy
không
phải
tâm
v.v...ông
mới
vừa
hỏi
trước".
Thế
nên,
nay
ông
thấy
"tôi",
thấy
"ông"
cùng
thấy
"thế
giới"
và
"chúng
sanh
",
đều
do
ông
lòa
nhặm
(vô
minh
vọng
động)
mà
thấy
như
vậy,
chớ
không
phải
cái
thấy
(tâm)
đó
nó
lòa
nhặm,
cho
nên
không
thể
bảo
nó
(
chơn
tâm)
là
"cái
thấy".
LƯỢC
GIẢI
Đại
ý
đọan
này
nói:
từ
nơi
chơn
tâm,
vì
vô
minh
vọng
động,
nên
khởi
ra
có
căn
và
cảnh
(cái
thấy
và
cái
bị
thấy).vì
các
cảm
giác:
thấy,
nghe,
hay,
biết
cùng
với
các
cảnh
vật
bị
thấy,
đều
do
vô
minh
vọng
động
hiện
ra
cả.
Còn
"chơn
tâm"
vì
không
phải
là
vô
minh
,
nên
không
thể
gọi
nó
(
chơn
tâm)
là
cái
cảm
giác:
nghe,
thấy,
hay,
biết
được
.
Đây
là
giải
lại
cái
nghĩa
ở
đọan
trước
nó:
"chơn
tâm
sanh
ra
cái
thấy
v.v.
(
kiến
kiến
chi
thời)
cái
thấy
v.v...không
phải
là
chơn
tâm
(
kiến
phi
thị
kiến).
Cái
thấy
nó
còn
xa
cách
chơn
tâm
v.v.v.."
Nên
nhớ
lỗi
tại
"vô
minh
vọng
động",
chớ
không
phải
lỗi
tại
cái
"thấy"
và
"cảnh
bị
thấy".
Củng
như
tại
nhặm
chớ
không
phải
lỗi
tại
"
cái
thấy"
của
con
mắt
và"
bóng
lòa
".
VI.-PHẬT
KẾT
THÚC
LẠI
[^]
A-Nan
,
một
người
nhặm
mắt,
vì
nghiệp
riêng
của
họ,
nên
họ
thấy
có
cái
vầng
đỏ;
cũng
như
dân
chúng
trong
mộtnước,
do
ác
nghiệp
chung
tạo
của
họ,
nên
đồng
thấy
những
điềm
không
lành
hiện
ra.
Lên
một
tâng
nữa,
là
tòan
cả
chúng
sanh
trong
mười
phương
thế
giới
ngày
nay
đây,
đều
do
"vô
minh
vọng
động
từ
vô
thỉ"
nên
đồng
vọng
thấy
có
thế
giới
chúng
sanh
hiện
ra
vậy.
Từ
nơi
chơn
tâm,
vì
hư
vọng
nên
hiện
ra
các
cảm
giác
thấy,
nghe,
hay,
biết.
Do
hòa
hiệp
vọng
sanh
ra,
rồi
cũng
do
hòa
hiệp
vọng
diệt
đi.
Nếu
các
ông
xa
lìa
được
các
duyên
hòa
hiệp
cùng
bất
hòa
hiệp,
và
trừ
hết
các
nhơn
sanh
tử
rồi,
thì
cái
chơn
tâm
thường
trụ
thanh
tịnh,
bất
sanh
bất
diệt
hiện
ra,
và
các
ông
được
viễn
mãn
đạo
Bồ
Đề.
LƯỢC
GIẢI
Phật
lấy
một
người
nhặm
đế
dụ
một
nước
thấy
niềm
ác;
lấy
một
nước
để
dụ
chúng
sanh
trong
mười
phương.
Vì
vô
minh
vọng
động
từ
vô
thỉ,
nên
thấy
có
chúng
sanh
và
thế
giới.
Cũng
như
người
nhặm
mắt
thấy
có
vầng
đỏ.
Nếu
hết
nhặm
thì
vầng
đỏ
không
còn,
lúc
ấy
con
mắt
lành
mạnh
tự
hiện.
Cũng
như
vô
minh
vọng
tưởng
hết,
thì
thế
giới
chúng
sanh
chẳng
còn.
Lúc
bấy
giờ
chơn
tâm
sáng
suốt
hện
ra,
được
viên
mãn
đạo
Bồ
đề,
thế
gọi
là
bực
Đại
Giác.
VII.-PHẬT
CHỈ
CÁC
PHÁP
ĐỀU
TRỞ
VỀ
CHƠN
TÂM
[^]
A-Nan,
ông
còn
chưa
hiểu:
các
trần
tướng
huyễn
hóa
đó
là
nơi
tâm
sanh
ra,
rồi
cũng
tùy
tâm
diệt
mất
(đương
xứ
xuất
sanh,
tùy
xứ
diệt
tận).
Cái
"tướng"
(hiện
tượng)
của
nó
thì
huyễn
vọng,
còn
"tánh"
(bản
thể)
của
nó
lại
chơn
thường.
Nào
là:
5
ấm,
6
nhập,
12
xứ,
18
giới
đều
do
nhơn
duyên
hư
vọng
hòa
hiệp
tạm
có
sanh;
nhơn
duyên
biệt
ly,
hư
vọng
tạm
gọi
là
diêt.
Các
ông
không
biết:
nào
sanh,
diệt,
khứ,
lai
đều
gốc
ở
nơi
chơn
tâm
thường
trụ
.
trong
thể
tánh
chơn
như
thường
trụ
này,
tìm
kiếm
cái
khứ,
lai,
mê,
ngộ,
sanh
tử
v.v...quyết
không
thể
được.
LƯỢC
GIẢI
Hiện
tượng
các
pháp
thì
vọng,
mà
bản
thể
của
các
pháp
lại
chơn
.
đứng
về
phần
hình
tướng(
hiện
tượng)
các
pháp
thì
thấy
có
sanh,
diệt,
khứ,
lai.
Còn
đứng
về
phần
bản
tánh
(bản
thể)
thời
tìm
cái
khứ,
lai,
sanh,
diệt,
mê,
ngộ
không
thể
được
.
VIII.-A-NAN
NGI
CÁI
NGHĨA
BỐN
ĐẠI
HÒA
HIỆP
SANH
[^]
A-Nan
thưa
Phật
rằng:--
Bạch
Thế
Tôn,
trước
kia
ngài
thường
nói"
tất
cả
csc
vật
trong
thế
gian
đều
do
bốn
đại
hòa
hiệp
sanh".
Tại
sao
ngày
hôm
nay,
Như
Lai
bác
bỏ
cả
thuyết
"nhơn
duyên
"
và
"tự
nhiên".
Chúng
con
không
biết
nghĩa
này
thế
nào?
cúi
xin
đức
Từ
tôn
chỉ
dạy
nghĩa
trung
đạo
rốt
ráo
cho
chúng
con.
LƯỢC
GIẢI
Phật
đã
nhiều
lần
bác
cả
nhơn
duyên
và
tự
nhiên,
mf
ông
A-Nan
vẫn
còn
chấp
mãi.
Cũng
vì
lưới
nghi
nhiều
lớp,
không
thể
một
lần
lột
hết
được
!
IX.-
PHẬT
QUỞ
A-NAN
HỌC
NHIỀU
MÀ
KHÔNG
HIỂU
[^]
Phật
dạy
rằng:
-Ông
trước
kia
nhàm
chán
quả
Thinh
văn,
Duyên
giác
là
thuộc
về
Tiểu-thừa,
phát
tâm
cầu
đạo
vô
thượng
Bồ
đề,
cho
nên
ta
mới
vì
ông
chỉ
bày
nghĩa
lý
cao
thượng
thứ
nhứt
(đệ
nhứt
nghĩa
đế).
Tại
sao
ông
còn
đem
lời
nói
tầm
thường
trong
thế
gian,
là
thuyết
"nhơn
duyên"
để
tự
ràng
buộc
lấy
mình?
Ông
tuy
học
nhiều
mà
không
hiểu
chi
cả;
cũng
như
người
trong
thế
gian
nói
đến
tên
món
thuốc
này,
món
thuốc
kia,
đến
khi
thuốc
thật
đem
ra
trước
mắt,
thì
họ
không
thể
phân
biệt
được
,
t6hật
đáng
thương
xót
!
Ông
nên
chăm
chú
nghe,
nay
ta
sẽ
vì
các
ông,
cùng
với
những
người
tu
về
Đại
-thừa
đời
sau,
mà
phân
biệt
chỉ
dạy,
để
cho
các
ông
thông
hiểu
được
thật
tướng
(chơn
tâm).
A-Nan
yên
lặng,
lóng
nghe
lời
Phật
dạy.
X.-
PHẬT
NÓI
CÁI
TÁNH
CỦA
TỨ-ĐẠI
PHI
HÒA
HIỆP
[^]
A-Nan,
ông
nói
rằng:
"Do
bốn
đại
hòa
hiệp
sanh
ra
tất
cả
vật".
Này
A-Nan,
nếu
cái
thể
tánh
(bản
tánh)
của
bốn
đại
kia
không
có
hòa
hiệp,
thời
nó
không
có
hòa
hiệp,
thời
nó
không
thể
hòa
với
gì
được;
cũng
nư
hư
không,
không
hòa
hiệp
với
các
vật.
Còn
nó
có
hòa
hiệp,
thời
đồng
với
vật
biến
hóa
(hiện
tượng
sanh
diệt)
nghĩa
là,
trước
sau
thành
nhau,
như
nước
thành
băng,
băng
trở
lại
thành
nước.
Sanh
diệt
nói
nhau,
sanh
tử,
tử
sanh,
sanh
sanh
tử
tử,
xoay
tròn
như
vòng
lửa,
không
dứt
đoạn.
LƯỢC
GIẢI
Ông
A-Nan
lấy
"hình
tướng"
(hiện
tượng)
của
tứ
đại
có
hư
vọng
hòa
hiệp
mà
hỏi.
Còn
Phật
chỉ
cái
"thể
tánh"
(bản
thể)
của
tứ
đại
rất
hòa
hiệp,
cũng
như
hư
không,
để
giải
thích.
Nếu
nó
(tánh)
có
hòa
hiệp
thì
cũng
đồng
như
các
tướng
(tứ
đại)
có
sanh
diệt.
*
XI.-
ĐẤT
TỪ
CHƠN
TÂM
BIẾN
HIỆN
[^]
-
A-Nan,
ông
xem
đất
kia,
lưón
là
quả
địa
cầu,
còn
nhỏ
là
hạt
bụi
(vi
trần).
Chẻ
hạt
bụi
rất
nhỏ
(cực
vi)
ra
làm
bảy
phần,
thì
thành
hạt
bụi
lân
hư
(gần
với
hư
không).
Cái
giáp
ranh
của
sắc
tướng
tột
đến
chừng
đó.
Nếu
chẻ
hạt
bụi
nhỏ
nhứt
này
(lân
hư)
ra
làm
một
lần
nữa,
thì
thành
hư
không.
Thế
thì
rõ
ràng
hư
không
do
chẻ
bụi
mà
có,
không
phải
do
hòa
hiệp
sanh.
Này
A-Nan,
như
lời
ông
nói:
"Do
hòa
hiệp
sanh
ra
các
vật
trong
thế
gian".
Vậy
ông
thử
xem
một
hạt
bụi
nhỏ
nhứt
này
(lân
hư)
,
phải
dùng
bao
nhiêu
hư
không
hòa
hiệp
lại
mới
thành
ra
nó?
không
lẽ
hạt
bụi
nhỏ
nhứt
này
hòa
hiệp
lại
thành
ra
hạt
bụi
nhỏ
nhứt
(
lân
hư
trần).
LƯỢC
GIẢI
Nếu
nói"các
vật
do
hòa
hiệp
thành"
thì
hạt
bụi
nhỏ
nhất
này
cũng
phả
do
hòa
hiệp
mà
thành.
Vậy
thì
lấy
cái
gì
hòa
hiệp
thành
hạt
bụi
này.
Nếu
nói
"lấy
hư
không
hòa
hiệp
lại
thành"
thì
phi
lý.
Còn
không
lấy
hư
không
thì
lấy
cái
gì
hòa
hiệp
thành
ra
nó?
(vì
ông
A-Nan
chấp
các
pháp
do
hòa
hiệp
mà
sanh).
Nếu
nói
lấy
sắc
tướng
hòa
hiệp,
thì
thành
ra
một
vật
lớn,
chớ
không
phải
là
thành
hạt
bụi
nhỏ
nhứt
(lân
hư
trần)
nữa.
Lại
nữa,
nếu
chẻ
hạt
bụi
nhỏ
nhứt
(lân
hư)
ra
thành
hư
không,
thì
rõ
ràng
hư
không
không
phải
do
hòa
hiệp
thành.
Nếu
nói
do
hòa
hiệp
thành,
thì
phải
dùng
bao
nhiêu
sắc
tướng
hòa
hiệp
lại
mới
thành
hư
không?
không
thể
hư
không
tự
nó
hòa
hiệp
thành
hư
không?
LƯỢC
GIẢI
Vì
chấp
"các
pháp
do
hòa
hiệp
mà
có".
Vậy
hư
không
lấy
cái
gì
mà
thành?
Không
lẽ
lấy
hư
không
hòa
hiệp
thành
hư
không
.
đoạn
trên
Phật
chỉ
hạt
bụi,
đoạn
này
Phật
chỉ
hư
không,
đều
phi
hòa
hiệp
cả.
*
Vậy
nên
biết:
khi
sắc
hòa
hiệp
thì
không
phải
hư
không,
khi
hư
không
hòa
hiệp
thì
không
phải
sắc.
Cái
sắc
còn
có
thể
cia
chẻ
ra
được,
chớ
hư
không
làm
sao
mà
hòa
hiệp
cho
được?
LƯỢC
GIẢI
Đại
ý
đoạn
này,
Phật
nói
các
pháp
hư
vọng
hư
huyễn,
như
hóa,
phi
hòa,
phi
hiệp,
do
chúng
sanh
mê
vọng
mà
thấy
in
tuồng
như
thật.
*
Các
ông
không
biết:
trong
chơn
tâm,
tánh
(bản
thể)
của
sắc
là
chơn
không
(tâm);
tánh
(bản
thể)
của
không
là
chơn
sắc
(tâm).
Nó
vốn
saün
thanh
tịnh,
khắp
giáp
cả
pháp
giới;
tùy
theo
tâm
của
chúng
sanh
tạo
nghiệp
và
phân
biệt
như
thế
nào,
thì
có
ứng
hiện
ra
như
thế
nấy.
Chúng
anh
không
biết,
chấp
là
nhơn
duyên
sanh,
hay
tự
nhiên
cóv.v...những
cái
chấp
đó,
đều
do
thức
tâm
phân
biệt
so
đo
cả.
Phàm
có
nói
năng,
phân
biệt,
thì
đều
không
đúng.
LƯỢC
GIẢI
Thật
ra
các
vật
ở
giữa
này,
không
có
nhứt
định
vật
gì,
thật
là
vật
gì
cả.
Tùy
theo
tâm
của
chúng
sanh
tạo
nghiệp
như
thế
nào,
thì
nó
hiện
ra
như
thế
ấy.
Đối
vôứi
chúng
sanh
đó,
nó
thật
hay
đúng
với
loài
đó
thôi.
Như
chén
nước
đây,
nếu
đồng
nghiệp
loài
người
thì
đều
thấy
thật
là
nước;
còn
đối
với
con
vi
trùng
trong
chén
nước,
thì
không
phải
là
nước
nữa
rồi,
mà
chính
là
nhà
cửa
của
nó.
Hay
như
cái
bàn
gổ
này,
đối
với
loài
người
thì
thấy
nó
là
cái
bàn
thật,
chớ
đối
với
con
mọt,
thì
lại
không
thành
cái
bàn
nữa,
mà
thật
là
món
ăn
của
chúng.
Thêm
một
tỷ
dụ
nữa,
như
thân
này
đối
với
loài
người,
thì
thấy
thật
là
thân
người,
chớ
đối
với
con
vi
trùng
trong
thân,
thì
không
thành
cái
thân
nữa,
mà
thật
là
một
thế
giới
bao
la
vô
tận
của
nó.
Vậy
thì
thấy
thật
nước
hay
thật
chỗ
ở,
thật
cái
bàn
gỗ
hạythât
món
ăn,
thấy
thật
thân
người
hay
thật
thế
giới,
đều
tùy
theo
tâm
niệm
phân
biệt
nhận
định
riêng
của
mỗi
loài
như
thế
nào,
thì
nó
thành
ra
thế
nấy.
Nên
trong
kinh
nói:
"tùy
tâm
biến
hiện".
Chúng
ta
thường
thấy:
Khi
nào
tâm
ta
vui
vẽ,
thì
thấy
cảnh
vật
chung
quanh
đều
vui,
cho
đến
ngủ
chiêm
bao
củng
thấy
cảnh
vui
hiện
ra.
Trái
lại,
khi
nào
tâm
ta
buồn
phiền
thì
thấy
cảnh
vật
chung
quanh
cũng
buồn
bực;
mỗi
mỗi
đều
do
tâm
mình
biến
hiện
ra
cả,
nên
có
câu:
"Cảnh
nào
cảnh
chẳng
đeo
sầu
Người
buồn
cảnh
có
vui
đâu
bao
giờ!"
XII.-LỬA
TỪ
CHƠN
TÂM
BIẾN
HIỆN
[^]
-A-Nan
,
lửa
không
có
tự
thể,
nó
chỉ
gá
các
duyên
mà
sanh.
ông
hãy
xem
những
nhà
trong
thành
này,
khi
họ
muốn
nấu
ăn,
thì
họ
cần
cái
kiến
(dương
tọai)
đưa
ra
trước
mặt
trời
lấy
lửa.
Này
A-Nan
,
lửa
ấy
nếu
nhơn
hòa
hiệp
mà
có,
thì
nó
từ
trong
cái
kiến
sanh,
từ
bùi
nhùi
ra,
hay
từ
nơi
mặt
nhựt
đến?
Nếu
lửa
từ
mặt
nhựt
đến,
cháy
được
bùi
nhùi
trong
tay
của
ông,
thì
những
cây
rừng
và
các
cảnh
vật
nóvừa
trãi
qua
đó
đáng
lẽ
đều
phải
bị
cháy
cả.
Còn
nói"lửa
từ
trong
kiến
sanh
ra
cháy
cái
bùi
nhùi",sao
cái
kiến
người
cầm
đó
không
cháy?
Và
cái
bàn
tay
của
người
cầm
củng
không
cháy?
Còn
nói"lửa
trong
bùi
nhùi
ssanh"
thì
cần
gì
phải
có
bàn
tàycâm
cái
kiến
hứngánh
sáng
mặt
trời,
mới
có
lữa?
Ông
nên
chín
chắn
xem
xét:
cái
kiến
ở
nơi
tay
người
cầm,
mặt
nhựt
thời
ở
trên
trời,
bùi
nhùi
thì
nằm
tại
đất.
Cái
kiến
và
mặt
trời
vẫn
xa
nhau,
không
phải
hòa,
không
phải
hiệp.
Vậy
thì
lưả
này
từ
đâu
mà
đến
cháy
đây?
Không
lẽ
lửa
không
từ
đâu
cả
mà
tự
có?
Các
ông
không
biết
trong
chơn
tâm,tánh(
bản
thể)
của
lửa
(
tâm
)
là
thật
không;
tánh
(
bản
thể
)
của
không
(
tâm
)
mới
là
lửa
thật.
Nó
vẫn
thanh
tịnhkhắp
giáp
cả
pháp
giới,
tùỳ
theo
tâm
của
chúng
sanh
phân
biệt
như
thế
nào,
thì
nó
hiện
ra
như
thế
nấy.
Nếu
một
người
cầm
kiến
lấy
lửa,
thì
một
chỗ
đó
có
lửa
hiện
ra.
Nếu
tất
cả
người
trong
thế
gian
đều
cầm
kiến
lấy
lửa,
thì
khắp
tất
cả
trong
thế
gian
đều
có
lửa
hiện
ra;
chỉ
tùy
theo
vọng
nghiệp
của
chúng
sanh
mà
hiện
đó
thôi,
chớ
không
có
xứ
sở
gì.
Người
thế
gian
không
biết,
dùng
thức
tâm
hư
vọng
phân
biệt
mê
lầm
chấp
cho
nhơ3nhưng
duyên
sanh,
hoặc
tự
nhiên
có
v.v...phàm
có
nói
năng,
phân
biệt
đều
không
đúng
sự
thật.
LƯỢC
GIẢI
Đại
ý
như
đoạn
trên
(
đất)
*
XIII.-NƯỚC
TỪ
CHƠN
TÂM
BIẾN
HIỆN
[^]
A-Nan
,
tánh
nước
không
tịnh,
đứng
chảy
chẳng
thường.
Như
trong
thành
Thất
La,
các
vị
đại
huyễn
sư,
như
ông
Ca-tỳ-la-tiên,
Chiết-ca-la-tiên,
Bác-đầu-ma
và
Ha-tát-đa
v.v...Các
vị
này
thường
lấy
nước
mặt
trăng
hòa
với
thuốc.
Họ
choờ
đêm
nào
trăng
sáng
trong,
cầm
hột
châu
phương
chư
hứng
mặt
trăng,
thì
có
nước
chảy
ra
ở
thau.
Vậy
nước
ấy
từ
hột
châu
sanh?hay
từ
hư
không
ra?
Hay
từ
mặt
trăng
đến?
A-Nan
,
nếu
từ
mặt
trăng
đến,
nó
làm
cho
hột
châu
ra
nước;vậy
thời
từ
phương
xa
đến
đây,
trong
khi
trãi
qua
cây
cối
các
cảnh
vật,
nó
phải
đều
làm
cho
ngập
ướt
cả;
nếu
thế
thìcần
gìphải
có
hột
châu
phương
chư
(
hột
châu
lấy
nước)?
song
sự
thật
các
cảnh
vật
không
ngập
ướt,
thì
rõ
ràng
nước
ấy
không
phảitừ
mặt
trăng
đến.
Còn
nói"nước
từ
hạt
châu
ra",
thì
hột
châu
nếu
đã
chảy
ra
được
nước,
đáng
lẽ
lúc
nào
nó
cũng
tự
chảy
ra
được
nước,
cần
gì
phải
chờ
nữa
đêm
hứng
mặt
trăng
sáng
mới
có
nước?
Còn
nói"nước
từ
hư
không
sanh"
thì
hư
không
vô
biên,nước
cũng
phải
vô
biên;
vậy
thì
từ
nhơn
gian
cho
đến
thiên
thượng,
tất
cả
cỏ
cây,
đất
đai
đều
bị
ngập
lụt
cả.
Oâng
nên
chín
chắn
xem
xét:
Mặt
trăng
ở
trên
trời,
hột
châu
ở
tay
người
cầm,
cái
thau
hứng
nước
lại
để
dưới
đất.
Mặt
trăng
với
hột
châu
để
cách
xa
nhau,
không
phải
hòa
cũng
không
phải
hiệp,
vậy
nước
đó
từ
đâu
mà
đến?
Không
lẽ
không
nhơn
đâu
mà
nó
tự
có.
Oâng
không
biết
trong
chơn
tâm,
tánh
(
bán
thể)
của
nước
(
tâm
)
thật
không;
tánh
(
bản
thể
)
của
không
(tâm
)
thật
nước,
vốn
saün
thanh
tịnh
khắp
giáp
cả
pháp
giới,
tùy
tâm
của
chúng
sanh
phân
biệt
như
thế
nào,
thì
nó
hiện
ưng
như
thế
nấy.
Một
người
cầm
hột
châu
lấy
nước,
thì
một
chỗ
đó
có
nước.
Nếu
tất
cả
người
trong
thế
gìanđêu
cầm
hột
châu
lấy
nước,
thì
khắp
cả
trong
thế
gian
đều
có
nước.
Nước
tùy
theo
nghiệp
chướng
trong
chúng
sanh
màphát
hiện
ra;
nó
không
có
phương
hướng
sứ
sở
gì.
Người
trong
thế
gian
không
biết,
lầm
chấp
nhơn
duyên
sanh,
hoặc
tự
nhiên
có,
đều
do
thức
tâm
vọng
chấp,
phân
biệt
cả.
Phàm
có
nói
năng,
luận
bàn
thế
nào,
cũng
đều
không
đúng
cả.
XIV.-GIÓ
TỪ
CHƠN
TÂM
BIẾN
HIỆN
[^]
A-Nan,
tánh
gió
không
tịnh,
động
và
tịnh
chẳng
thường.
Như
ông
thường
đắp
y
đi
vào
đại
chúng,
cái
chéo
y
của
ông
phất
qua
người
gần
bên,
thì
có
một
chút
gió
quạt
đến
mặt
người.
Vậy
gió
này
từ
chéo
y
bay
ra,
hay
từ
hư
không
bay
đến,
hay
từ
nơi
mặt
người
sanh?
A-Nan,
nếu
gió
này
từ
cái
y
bay
ra,
thì
cái
y
đã
thành
gió,
vậy
nó
phải
bay
bổng
rời
khỏi
thân
ông,
và
ông
đắp
y
thành
ra
đắp
gió
hay
sao?
Ta
hay
xổ
cái
y
ra,
ông
hãy
thử
xem
coi
gió
ở
chổ
nào?
chẳng
lẽ
trong
y
có
chổ
cất
(để)
gió.
Nếu
gió
từ
hư
không
sanh,
vậy
thời
khi
ông
không
động
cái
y,
sao
chẳng
có
gió?
Và
hư
không
thường
còn,
thì
gió
cũng
phải
thường
sanh,
nếu
khi
nào
không
có
gió,
thì
hư
không
phải
diệt.
Song
thật
ra
gió
có
thể
diệt
(hết)
chớ
không
làm
sao
diệt
được.
Nếu
hư
không
có
sanh
diệt,
thời
không
gọi
là
hư
không;
còn
gọi
là
hư
không
thời
làm
sao
lại
sanh
ra
gió
được.
Còn
ông
nói
"gió
từ
nơi
mặt
người
bị
phất
sanh";
nếu
thật
thế,
thì
gió
phải
phất
đến
mặt
ông
mới
phải,
tại
sao
nó
lại
phất
ngược
trở
lại
mặt
người
bị
phất.
Ông
nên
chính
chắn
xem
xét:
Cái
ly
là
ở
nơi
ông,
cái
mặt
la
fthuộc
về
người
kia
(bị
phất),
còn
hư
không
thì
tự
yên
lặng;
gió
(động)
với
hư
không
(lặng)
tánh
khác
nhau,
không
hòa
không
hiệp,
vậy
gió
từ
nơi
đâu
mà
phát
động
đến
đây?
Không
lẽ
không
từ
nơi
đâu
mà
tự
có.
Các
ông
không
biết
trong
chơn
tâm,
tánh
(bản
thể)
của
gió
(tâm)
là
thật
gió,
vốn
sẳn
thanh
tịnh,
khắp
giáp
cả
pháp
giới,
tùy
tâm
chúng
sanh
phân
biệt
như
thế
nào,
thời
nó
hiện
ra
như
thế
nấy.
Một
người
phất
y,
thời
có
một
chút
gió
sanh
ra.
Nếu
tất
cả
mọi
người
trong
thế
giới
đều
phất
y,
thì
cả
thế
giới
đều
có
gió,
theo
nghiệp
của
chúng
sanh
mà
phát
hiện,
không
có
phương
hướng,
xứ
sở
gì.
Thế
gian
không
biết,
khởi
thức
tâm
phân
biệt
so
đo,
lầm
chấp
là
nhơn
duyên
sanh,
hoặc
tự
nhiên
có
v.v...đều
không
đúng
cả.
---*^*---
Mục
Lục Khóa VI
| |
Bài Thứ
1 |
|Bài Thứ
2|
|Bài Thứ
3|
|Bài Thứ
4|
|Bài Thứ
5|
|Bài Thứ
6|
|Bài Thứ
7|
Mục
Lục Toàn Bộ || Khóa I
|| Khóa II|| Khóa
III | |Khóa
IV ||Khóa V|
|Khóa
VI || Khóa VII ||Khóa
VIII ||Khóa IX ||Khóa
X - XI ||Khóa XII
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn
Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức,
02/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
|
|