Thế giới thì vô lượng, nhưng nói
về mười thế giới chỉ là nói thu gọn lại trong số
mười viên dung một thế giớí chỉ có bốn thánh
đế, nhưng ý nghĩa của mỗi thánh đế thì vô
lượng; kinh Hoa Nghiêm chỉ nói mười nghĩa về mỗi
một thánh đế, nhưng đó chỉ là nói gọn lại trong
giới hạn của ngôn từ. Mười phương của cõi Ta
Bà là: Đông, Nam, Tây, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam,
Tây Nam, Tây Bắc, Hạ Phương và Thượng Phương.
Mười thế giới ở mườí phương
của cõi Ta Bà là:
1. Mật Huấn 2. Tối Thắng
3. Ly Cấu 4. Phong Dật
5. Nhiếp Thủ 6. Nhiêu ích
7. Tiển Thiểu 8. Hoan Hỷ
9. Quan Thược 10. Chấn âm
Đây là tên mười thế giới tuần
tự phương hướng dựa theo phẩm VIII của kinh Hoa
Nghiêm (Phẩm Tứ Thánh Đế); về tên của mười thế
giới này có sự khác nhau đôi chút gỉữa Phẩm
VIII và Phẩm VII (Phẩm Như Lai Danh Hiệu); nơi Phẩm VII,
thế giới Tốí Thắng có tên là Phong Dật, và thế
giới Phong Dật ở Phẩm VIII có tên là Phong Dật ở
Phẩm VII, còn tất cả những tên khác còn lại thì
đều giống nhau giữa hai Phẩm (riêng Phẩm VIII thì chỉ
liệt kê tên mười thế giới và không nói rõ
phương hướng như Phẩm VII) . Sau đây, xin trình bày
lại 100 ý nghĩa viên dung về Khổ Thánh Đế, gồm có
10 nghĩa của mỗi Khổ Thánh Đế ở mỗi thế giới
trong mỗi phương.
KHỒ THÁNH ĐẾ
1. Thế Giới Mật Huấn :
1.Căn thức cầu cạnh tìm kiếm; 2.Không giải thoát;
3.Gốc rễ nô lệ trói buộc; 4.Làm điều không phải;
5.Tranh giành đấu tố khắp mọi hoàn cảnh; 6.Mất hẳn
khả năng phân tích; 7.Phải chịu tùy thuộc nương tựa
vào cái gì đó; 8.Khổ đau cực điểm; 9.Động đậy
lăng xăng; 10. Những sự vật có hình trạng.
2. Thế Giới Tối Thắng :
1.Sợ hãi khủng bố; 2.Đoạn diệt từng phần; 3.Chán
ngấy chán ghét; 4.Điều cần phải làm; 5.Thay đổi
khác; 6.Thù địch cạm bẫy; 7.Tranh đoạt; 8.Khó làm
việc với nhau; 9.Phân biệt sai lầm; 10.Có thế lực
quyền hành.
3. Thế Giới Ly Cấu : 1.Tiếc
nuối tiếc hận; 2.Tùy thuộc phụ thuộc vào cái gì
đó; 3.Trầm trọng nguy ngập thêm lên; 4.Ở trong
những bức tường 5.Chỉ có một mùi vị thôi; 6.Sự
giả dối, bất chính, không thực; 7.Ở nhà, ở trong
gia đình; 8.Nơi ở mà mình quyền luyến, kẹt dính sai
lầm; 9.Quan điểm, ý kiến sai lầm; 10.Vô số, số
không thể đếm được.
4. Thế Giới Phong Dật : 1.Nơi
chốn kẹt dính yêu thích; 2.Gốc rễ nguy hiểm tác hại;
3.Phần biển sinh hữu ô trọc; 4.Được tác thành
bằng sự chất chứa tích lũy chồng chất; 5.Cảm
thức phân biệt, biện biệt; 6.Nặng nề nguy ngập thêm
lên; 7.Sinh khởi và tiêu diệt ; 8.Ngăn chặn, chướng
ngại; 9.Cơ sở của những lưỡi dao gươm; 10.Cái gì
thì cũng bị làm thành ra bộ, số loại
5. Thế Giới Nhiếp Thủ :
1.Cướp đoạt; 2.Không phải là một người bạn tốt;
3.Đầy dẫy sợ hãi; 4.Lải nhải, ba hoa, ngớ ngẩn;
5.Tính cách địa ngục; 6.Phản sự thực; 7.Sinh khởi
và tiêu diệt; 8.Gốc rễ trầm trọng nặng nề, sâu
đậm; 9.Thay đổi thất thường theo cảm huống tâm
trạng ; 10.Căn bản rỗng tuếch, hư ảo.
6. Thế Giới Nhiêu ích :
1.Gánh quá nặng; 2.Bất thường định, chẳng cố định;
3.Như tên trộm cắp, giặc cướp, 4.Già và chết,
5.Được làm thành bởi yêu đương thèm khát;
6.Trôi nổi luân hồi; 7.Mệt mỏi; 8.Trạng tướng xấu
ác; 9.Phát triển, sanh trưởng; 10.Lưỡi dao bén nhọn.
7. Thế Giới Tiển Thiểu :
1.Lòng thèm khát dâm dật nguy hại; 2.Nơi trói buộc
ràng rịt; 3.Hành động tà vạy; 4.Nhận lãnh, thụ
động ; 5.Không biết hổ thẹn; 6.Bắt gốc rễ nơi lòng
tham dục; 7.Con sông chảy mãi; 8.Tàn hoại thường
xuyên, 9.Có tính cách lửa đuốc; 10.Đầy dãy những
nỗi đay nghiến, phiền muộn lo lắng.
8. Thế Giới Hoan Hỉ : 1.Trôi
nổi không ngừng; 2.Sinh ra đời; 3.Đánh mất lợi
lộc; 4.Thường hay đắm đuối kẹt dính; 5.Gánh nặng
nề; 6.Phân biệt sự khác nhau; 7.Sự nguy hiểm nằm
bên trong; 8.Hội họp đình đám; 9.Chỗ ở xấu ác;
10.Có tính cách khổ não.
9. Thế Giới Quan Thược : 1.
Hình tướng hư đốn bại hoại; 2.Như đồ bể nát;
3.Tạo phẩm của bản ngã; 4.Hiện thân của những
khuynh hướng; 5.Nhiều lề thói hàng ngày; 6.Cổng mở
ra quá nhiều điều xấu, ác tật; 7.Khổ có sẵn, có
sẵn tính khổ; 8.Điều cần phải nên bỏ; 9.Không có
mùi vị gì ; 10.Tới và đi.
10. Thế Giới Chấn âm :
1.Bệnh hoạn giấu kín, giấu lỗi; 2.Có tính cách thế
tục; 3.Nơi chốn nương tựa, chỗ ở; 4.Kiêu ngạo,
ngạo mạn; 5.Có tính cách thường hay tham đắm, kẹt
dính; 6.Nước lũ chảy xiết; 7.Không thể hưởng thụ
được; 8.Giả đạo đức; 9.Phù du, mau tan biến;
10.Khó cai trị, khó điều khiển, kiểm soát.
Chỉ riêng về Khổ Đế thôi, chúng ta
đã thấy 100 ý nghĩa khác nhau trong mười thế giới
ở mười phương của cõi Ta Bà; riêng về cõi Ta
Bà; (nghĩa là cõi chịu đựng nhẫn nhục) cũng có
mười nghĩa về Khổ Đế:
1.Làm điều quấy, tội lỗi; 2. Đàn
áp, bức ngặt; 3. Thay đổi khác; 4. Đeo níu vào sự
vật; 5. Chồng chất, tích lũy, chứa nhóm; 6. Gái dâm;
7. Nô lệ, tùy thuộc vào căn thức, giác quan; 8.
Lừa đảo, dối gạt; 9. Chỗ ung thư ghẻ lở; 10. Hành
động ngu si.
Chúng ta thấy rằng mười thế giới
thì có 110 thứ khổ. Điều đáng lưu ý là trong kinh Rohitassa
Sutta (trong Samyutta Nikàya, Tương Ưng Bộ Kinh),
Đức Phật đã đồng hóa chữ "thế giới"
(loka) với chữ "khổ" (dukkha) :
"Trong cái thân xác dài khoảng
trên một thước tám này cùng với những nhận
thức và tư tưởng của nó, ta tuyên thuyết thế
giới, nguồn gốc của thế giới, sự tận diệt thế
giới và con đường dẫn đến sự tận diệt thế
giới."
Một trăm mười thứ khổ ở trên chỉ
là khai triển ba thứ khổ quan trọng nhất trong phật
Giáo Nguyên Thủy là Khổ Khổ, Hoại Khổ và Hành
Khổ; còn muốn phô diễn chi tiết hơn nữa thì gồm
có tám thứ khổ: 1. Sinh Khổ; 2. Lão Khổ; 3. Bệnh
Khổ; 4. Tử Khổ; 5. Ái Biệt Ly Khổ; 6. Cầu Bất Đắc
Khổ; 7. Oán Tắng Hội Khổ; 8. Ngũ ấm Xí Thạnh khổ.
Để hiểu tất cả sự khai triển đặc
biệt của Kinh Hoa Nghiêm về Khổ Thánh Đế chúng
ta cũng nên trở lại tìm hiểu tất cả ý nghĩa về
Khổ Thánh Đế trong Phật Giáo Nguyên Thủy. Sau đây
chúng ta hãy tham khảo bộ Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Đạo).
KHỒ THÁNH ĐẾ TRONG THANH TỊNH ĐẠO
(VISUDDHI-MAGGA) CỦA PHẬT ÂM (BUDDHAGHOSA)
[^]
Bộ Visuddhimaga gồm trên 800 trang, đây
là một bộ luận quan trọng vào bậc nhất của Phật
Giáo Nam Tông Nguyên Thủy, tác giả là Tổ Sư
Buddhaghosa, mà Tàu dịch là Phật Âm.
Ngài Buddhaghosa sinh vào thế kỷ thứ
năm tại miền Bắc Ấn Độ, ngài được coi là luận
sư uyên bác và nổi tiếng nhất của Phật Ciáo
Nguyên Thủy, vị trí của ngài Buddhaghosa trong Phật Giáo
Nguyên Thủy cũng quan trọng tương tự như Mã Minh, Long
Thọ hay Vô Trước và Thế Thân trong Phật Giáo Đại
Thừa. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày phần giải
thích cặn kẽ của Buddhaglosa về Khổ Thánh Đế trong
bộ Visuddhimagga (Phần III, chương XVI, tiết mục 16- 60);
chúng ta cần ghi nhớ những trọng điểm sau đây:
Khổ (dukkha) gồm có 4 nghĩa:
1. Áp bức (đàn áp, đè bẹp, bức
ngặt)
2. Được tác thành, hợp thành (hình
thành):
3. Đốt cháy
4. Thay đổi
Chữ dukkha (khổ) gồm có chữ du
(xấu) cùng đi theo nghĩa kucchita (hèn hạ, đê
tiện), như gọi "một đứa con nít hèn hạ, đê
tiện" là "duputta" (đứa con nít xấu)
Chữ Kham (trong dukkha) để chỉ tính
cách đi theo nghĩa tuccha (rỗng tuếch, trống rỗng)
, như gọi "Không gian trống rỗng" là "kham".
Đệ Nhất Thánh Đế, Khổ Thánh Đế, sự thực về
đau khổ là sự thực về sự hèn hạ, đê tiện, vì
đó có nghĩa là nơi chứa nhóm vãng lai nhiều mối
hiểm họa nguy hiểm, và đó cũng là trống rỗng vì
không có tính cách trường cửu, không có sự đẹp
đẽ, hoan lạc và tự tại (không có thường lạc,
ngã, tịnh). Gọi là Khổ (dukkham) vì tính cách đê
tiện, hèn hạ, rỗng tuếch.
Khổ Đế có đặc tính là phiền não,
tác dụng của nó là bốc cháy, đó là một hiện
tính xuất hiện trong tiến trình sinh hữu của con
người.
Khổ Đế được đặt đứng đầu, vì
dễ hiểu tính cách trắng trợn, thô bạo của sự
thật này, sự thực chung cho cả chúng sanh.
Tuyên thuyết Khổ Đế đầu tiên hết
là để đánh thức tính cách khẩn cấp, khẩn trương
trong lòng chúng sinh đang vướng mắc chìm đắm trong
nỗi dục lạc sinh hữu luân hồi.
12 thứ khổ:
1. Sinh là khổ;
2. Già là khổ;
3. Chết là khổ;
4. Buồn rầu là khổ;
5. Than khóc, than vãn là khổ;
6. Đau đớn, khó nhọc là khổ;
7. Sầu tiếc, thương tiếc là khổ;
8. Thất vọng là khổ;
9. Sống gần vớí người, vật mình
không thương yêu là khổ;
10. Xa lìa người, vật mình thương yêu
là khổ;
11. Không được những gì mình muốn
là khổ.
12. Ngũ uẩn đeo níu là khổ (Thủ ngũ
uẩn).
Chúng ta chú ý ở đây Buddhaghosa
không nhắc đến bệnh khổ, vì bệnh khổ thuộc về đau
đớn và cũng có những trường hợp mà không có
người bệnh, như tôn giả Bakkula (theo kinh Majjhima
Nikàya 124, không bao giờ bệnh). Trong kinh Dìgha
Nikàya (Trường Bộ Kinh) (ii, 305) cũng không có
nhắc đến bệnh khổ.
Từ tiết mục 32 cho đến 43, Buddhagshosa
phân tích tỉ mỉ về sinh khổ, trong phần này có nói
đến khổ khổ (dukkha-dukkha), hoại khổ (viparinama-dukkha,
cái khổ trong sự thay đổi), hành khổ (sankhara- dukkha)
và sự khổ giấu kín, khổ bộc lộ, khổ gián tiếp
và khổ trực tiếp, từ tiết mục 44 cho đến 60,
Buddhaghosa phân tích cặn kẽ những nỗi khổ khác còn
lại (từ lão khổ cho đến ngũ uẩn xí thanh khổ).
Quan trọng nhất là tiết mục 59 và 60
(XVI, III), nơi đoạn cuối, Buddhaghosa đúc kết lại rằng
tất cả những nỗi khổ đều xuất phát từ ngũ
uẩn: "không thể nào kể hết mọi sự đau khổ
dù có trải qua bao nhiêu kiếp cũng không nói đủ
được, vì thế đấng Thế Tôn mới nói gọn rằng
ngũ uẩn đeo níu (thủ ngũ uẩn) là khổ, ngài nói thu
gọn như thế để tỏ bày cho ta thấy tựu chung rằng
tất cả nỗi khổ đều hiện diện trong mỗi một uẩn
trong ngũ uẩn, giống như mùi vị của nước biển trong
toàn thể đại dương có đủ trọn vẹn trong một giọt
nước biển thôi."
Chúng ta đã thấy rằng tất cả nỗi
khổ đều nằm trong ngũ uẩn; do đó, 110 thứ khổ trong
kinh Hoa Nghiêm cũng nằm gọn trong ít nhất một trong
ngũ uẩn, nếu không muốn nói là trọn cả ngũ uẩn
đồng lúc.
-- o0o --
Mục Lục
Chương 1
|
Chương 2|
Chương 3
|Chương 4
| Chương 5
Chương 6
|Chương 7|
Chương 8|
Chương 9
|Chương 10
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Vi tính: Mỹ Hồ
Cập nhật ngày 01-12-2001