Những ngày đầu tiên trở
lại Los Angeles sau gần hai chục năm, tình cờ tôi có mua được một
số sách của một vị Đại Lạt Ma Tây Tạng tên là Tarthang Tulku viết
thẳng bằng tiếng Anh và xuất bản tại California từ khoảng năm sáu
năm nay thôi; cảm giác đầu tiên là một niềm vui mừng không tả
khi nhìn thấy một vị tu sĩ Phật giáo viết văn thuyết giảng Phật
Pháp qua một văn khí hùng mạnh và ngôn ngữ giản dị trong sáng như
lưu ly và những vấn đề trầm trọng nhất của nhân loại hiện nay
đã được đặt ra và giải quyết một cách triệt để.
Những quyển sách của sư
trưởng Lạt Ma Tarthang Tulku đã ảnh hưởng sâu đậm mãnh liệt đến
thế giới đại học ở Huê Kỳ và đã được giảng dạy trong gần
40 viện đại học ở Huê Kỳ và đã được dịch ra tiếng Đức,
tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nhật, tiếng Hòa Lan, Phần Lan và
Bồ Đào Nha và nhiều thứ tiếng khác nữa. Chẳng hạn quyển Time,
Space and Knowledge (thời gian, không gian và trí thức) đã được
dùng làm sách thi cử cho sinh viên trong gần 35 trường đại học Huê
Kỳ. Ngay cả đại học đường nổi tiếng ở Đức, đại học
đường Heidelberg cũng dùng sách này cho sinh viên học thi trong chương
trình giảng dạy về Toán Hình Học và Thuyết Tương Đối. Sách của
Lạt Ma Tarthang Tulku đã được cho sinh viên học trong những chương
trình bộ môn khác biệt hẳn nhau như Không gian và Toán học. (Đại
học State U. of N.Y Oswego) Vật lý học (Đại học Trinity U. Texas), xã hội
học (Đại học U. of Idaho, Đại học Salem State College Mass), Tâm lý học
(Đại học Indiana University, Ohio State U. U. of S Carolinia) và rất nhiều
lãnh vực ngliên cứu học vấn khác ở đại học (Tôn giáo học,
Thần học, Tri thức luận, Quản trị, Cố vấn nghề nghiệp v.v...).
Cách đây mấy chục năm,
những quyển sách bằng tiếng Anh của D.T. Suzuki viết về Thiền tông
Phật giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ sâu đậm đến bao nhiêu thế hệ
học giả tri thức văn nghệ sĩ Tây phương; sau đó gần mười năm
nay thì có những quyển sách tiếng Anh của vị đại Lạt Ma Tây Tạng
thuộc tông phái Kagu tên là Chogyam Trungpa ở Colorado, cũng đã từng
ảnh hưởng lớn lao mạnh mẽ đến giới trí thức văn nghệ sĩ Tây
phương chẳng hạn như quyển Cutting througth Spritual Materialism và The
Myth of Freedom những thi sĩ nổi tiếng nhất Huê Kỳ như Allen Ginsberg
và Gary Snyder đều là môn đệ của Lạt Ma Chogyam Trungpa (cách đây
năm, sáu tháng khi gặp tôi tại đại học đường Toulouse ở Pháp,
Allen Ginsberg đã không tiếc lời ca tụng Lạt Ma Chogyam Trungpa như là
một vị Phật sống đại nghệ sĩ). Ngoài Chogyam Trungpa, hiện nay tôi
thấy Tarthang Tulku đang trên đà ảnh hưởng mạnh mẽ sâu đậm hơn
nữa, nhất là với giới giáo sư đại học Huê Kỳ và những
nước Tây phương khác.
Tarthang Tulku mới đến Hoa
Kỳ vào năm 1968 và hiện nay được coi như "Vị đạo sư có ảnh
hưởng lớn nhất ở Hoa Kỳ" (theo tờ Brain-Mind Bulletin).
Bây giờ tôi xin giới thiệu
sơ lược về tiểu sử của vị Lạt Ma Tarthang Tulku (chữ Tulku, theo
tiếng Tây Tạng có nghĩa là Hóa thân Bồ Tát hay Bồ Tát Thị hiện,
hay nói nôm na là: một vị đại sư lúc chết hóa thân đầu thai lại
trên đời này để tiếp tục hóa độ chúng sanh thể theo đại hạnh
nguyện Bồ Tát).
Trong lời Tựa (Preface), Time,
Space and Knowledge: (Dharma Publishing 1977), Tarthang Tulku có in giới thiệu
một cách như sau: Tôi sinh tại A-skyong, miền Trung ở Golok tại Đông
Tây Tạng, cư dân ở vùng đó đều là dòng dõi của những vị vua
đầu tiên của Tây Tạng thân phụ tôi, Sog-po Tulku một vị Lạt Ma Bồ
Tát hóa thân, đã được huấn luyện trong nhiều truyền thống tâm
linh chính yếu của Tây Tạng và đồng thời cũng là vị thầy thuốc
cho dân làng. Tôi được kỳ vọng nối tiếp truyền thống gia đình
và cũng như bao nhiêu con trẻ trong trường hợp tương tự như tôi
được chăm sóc dạy dỗ rất kỹ càng. Mẹ tôi dạy tôi đọc và
viết lúc tôi còn thơ dại, và từ lúc 6 tuổi cho đến 12 tuổi, tôi
được học riêng với nhiều bậc thầy tài giỏi. Cha tôi cũng là
thầy dạy tôi, ông dạy tôi nhiều kỷ luật khán tâm và chỉ tôi con
đường thâu nhiếp tâm linh; cha tôi quả thực là người đầy lòng
từ bi nhứt mà tôi đã gặp trên đời. Sau đó tôi được gửi
đi tu học ở tu viện Tarthang lúc tôi được 12 tuổi dưới sự
trông nom hướng dẫn của anh tôi. Vì liên hệ mật thiết với tu
viện qua dòng Bồ Tát hóa thân và qua sự trực thuộc tông hệ của
cha tôi với tu viện, tôi được vị trưởng pháp sư chỉ dạy hướng
dẫn đọc tụng bao nhiêu kinh sách nội điển truyền thống. Ngoài ra
tôi lại được học thêm nhiều lãnh vực đạo lý đặc biệt chỉ
thuộc độc nhất về tông phái Nyingmapa (truyền thống lâu đời và
cổ kính nhất của Phật giáo Tây Tạng); tôi cũng lại được dịp
học thêm những chủ đề đa dạng như văn chương nghệ thuật, thi ca,
thảo bút, và y học. Mặc dù kỷ luật tu học ở tu viện lúc đó
quả thực là quá khó khăn, nhưng sau này tôi mới thấy được
đúng mức tầm quan trọng cái giá trị của kỷ luật tu học ấy. Khi
sự tu học của tôi về Phật Pháp và thực hành thiền học đang
trên đà tăng trưởng thì lúc 17 tuổi tu viện bỗng quyết định gởi
tôi đi học với những đạo sư khác ở những vùng xa xôi ở Tây
Tạng. Tôi đã là khách tăng của khoảng bốn mươi đại tu viện và
đã được thụ giáo với rất nhiều đại sư lão luyện và đã
được học qua những dạng thái tổng quát của những truyền thống
thiền định ở từng nơi trung tâm tu viện. Lúc tôi lớn tuổi hơn
nữa, tôi lại được tiếp tục tu học sâu thẳm hơn và bao nhiêu
là lãnh vực đạo lý triết lý và hành trì được mãi mở rộng
thêm ra, và tôi được dịp may hy hữu - hy hữu ngay cả ở Tây Tạng
là được thụ giáo riêng với những bậc đại sư chứng ngộ,
những bậc trao truyền trực tiếp những truyền thống đạo lý bằng
khẩu truyền và kinh truyền, những hệ phái gần như mất hẳn ở Tây
Tạng. Vị đạo sư chính yếu của tôi. Khentse chokyi Lodro, là một trong
những vị đại lạt ma được kính phục nhứt trong toàn thể đất
Tây Tạng, vừa nổi tiếng về sự liễu đắc mênh mông của Ngài,
vừa được mọi người biết đến lòng từ bi sâu thẳm bát ngát
của ngài. Sự hiểu biết của tôi quả thực là có giới hạn;
nhưng nhờ vào lòng thương quảng đại của những sư phụ tôi, tôi
mới có được khả năng hiểu biết đại khái tầm vóc liễu đắc
vô hạn nơi những sư phụ tôi. Và nguyện ước lớn nhất của tôi
là giữ gìn và chia xẻ với mọi người khác những gì tôi đã
được nơi những giáo lý sâu thẳm này. Vừa học xong trải qua bao
nhiêu năm mãnh liệt tu hành thì cảnh hỗn loạn của Tây Tạng lúc
đó khiến tôi cần phải lìa bỏ Tây Tạng làm kẻ t?ạn vượt
biên di tản lúc 25 tuổi. Năm 1963, nhờ sự giúp đỡ che chở của
chính phủ Ấn Độ, tôi được biệt phái dạy học về triết lý
Phật Giáo ở đại học đường Sanskrit (Phạn ngữ) ở Benares, Ấn
Độ.
Rồi sau đó, Tarthang Tulku
dạy học trên sáu năm ở đại học Benares và năm 1968 vị đại lạt
ma Bồ Tát hóa thân lên đường qua Huê Kỳ cùng với vợ. Năm
1973, ngày thành lập tu viện Phật giáo Nyingma ở Berkeley tại Califomia
và rất nhiều giới trí thức Mỹ trong nhũng ngành như Tâm lý học,
Khoa học và những khoa học nhân văn đã đến Phật học viện Nyingma
Institute of Berkeley để nghiên cứu khảo học.
Từ khoảng sáu bảy năm
gần đây Tarthang Tulku đã cho xuất bản khoảng chừng năm sáu quyển
sách bằng tiếng Anh để truyền bá Phật Pháp cho giới học giả trí
thức Tây phương như những quyển sau đây:
-
Time, Space, And Knowledge, A New Vision of Reality (Dharma Publishing, Emeryville,
Califomia, 1977).
-
Gesture of Balance (Dharma Publishing, Oakland, Califomia 1977).
-
Operress Mind (Dharma Publishing, Oakland, Califomia 1978).
-
Kum Nye Relaxation (Dharma Publishing, Berkeley, California 1978).
-
Skillful Means (Dharma Publishing, Berkeley, Califomia 1978).
Quyển sách sâu sắc nhất
của Tarthang Tulku là Time, Space, and Knwoledge gồm ba trăm lẻ sáu
trang. Phạm vi của tập sách không cho phép tôi trình bày giới thiệu
quyển này. Nơi đây tôi chỉ xin giới thiệu độc giả quyển Skillful
Means (Phương Tiện Thiện Xảo) gồm 136 trang, quyển này đã được tôi
dịch ra trọn vẹn chữ Việt nhan đề "Phương Tiện Thiện Xảo"
do nhà Xuất bản Thanh Văn xuất bản tại Califomia năm 1993, gồm 225 trang
và quyển "Phương Tiện Thiện Xảo" của Tarthang Tulku thì rất
giản dị dễ hiểu cho mọi trình độ trí thức của Phật tử và có
thể coi đây là những bài thuyết pháp mà mọi người đều có
thể áp dụng mỗi ngày trong đời sống. Dưới đây, tôi xin dịch
chương thứ nhất của quyển sách này nói về sự TỰ DO NỘI TẠI
(lnner Freedom) trang 3-9.
II. NIỀM TỰ DO BÊN TRONG TÂM HỔN [^]
Mỗi khi bản chất nội
tại chúng ta được thực sự tự do thì chúng ta tìm thấy ngay bên
trong tâm hồn chúng ta cả một kho tàng phong phú: tình thương, tình
yêu, niềm vui sướng thảnh thơi và sự thanh bình thoải mái trong tâm
thức. Ta có đủ tâm hồn để thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời
của đời sống, đón nhận từng mỗi một kinh nghiệm xảy đến ta,
mở rộng trái tim ra cho từng kinh nghiệm ấy và tận hưởng trọn
vẹn kinh nghiệm ấy. Thể hiện những phẩm chất này trong tận đáy
lòng chúng ta quả là niềm tự do vĩ đại nhất khả dĩ đạt được
trên đời này.
Tuy thế thực ra chúng
ta có thể tự nhận niềm tự do nội tại này đến được mức độ
nào? Thực ra chúng ta có thể cởi mở đón nhận thế nào đối
với những ý tưởng và cảm giác sâu thẳm nhất của chúng ta.
Đối với bản chất tích cực của bản thể nội tại chúng ta? Dù
có những lúc chúng ta cảm nhận niềm giàu sang nội tâm này, thế
mà chúng ta lại thường khi dong bỏ sự phong phú ấy ra ngoài tâm
hồn và chỉ nuôi dưỡng hứng khởi trong lòng mình những cảm giác
bất mãn, bất đắc chí, tế nhị kín đáo.
Đôi lúc chúng ta cũng
không để cho chúng ta được yêu đời hạnh phúc thoải mái mà
phải bị vướng bận đâu đó cảm thức tội tình nào đó, hoặc là
chúng ta cảm nhận sự hài lòng thỏa dạ mà không phải cảm thấy
hoài nghi và xao xuyến. Chính những cảm giác này đã đưa đẩy
chúng ta ra ngoài nguồn tài nguyên nội tại của chúng ta, khiến cho
chúng ta hướng nhìn ra ngoài để lấp đầy sự trống rỗng tâm tư.
Bị lôi kéo vào những biến cố hấp dẫn sôi động xẩy ra chung quanh,
chúng ta cứ mải miết đeo níu chúng, tưởng rằng những thứ ấy
sẽ đem sự thỏa mãn đến cho chúng ta. Những lúc chúng ta chỉ tập
trung mọi tinh lực ra bên ngoài tâm hồn mình thì chúng ta dễ đánh
mất bỏ quên những thông điệp nội tại phát ra từ những cảm quan
từ những ý tưởng, rung cảm và trực nhận. Không có đủ được
sự hiểu biết nội tại này và niềm tự do phát khởi từ đó thì
thái độ của chúng ta đối với những kinh nghiệm của chúng ta trở
nên nông cạn, và trực thức chúng ta càng mất đi sự sâu thẳm
và trong sáng. Dù ngay lúc ta có thể thành công trong đời sống,
chính sự xa lìa ra khỏi bản chất thực thụ của chúng ta sẽ làm cho
ta mất đi một căn bản cơ sở nội tại lành mạnh khả dĩ dựng lập
cuộc đời mình một cách vững chắc. Điều đó sẽ đưa dần ta đến
những cảm giác kín đáo khó nhận về nỗi bất an trùng điệp của
đời sống, và đời sống có thể tự do bắt đầu trở thành
trống rỗng và vô nghĩa. Lúc chúng ta không tìm nhận được lương
thực khởi phát từ sự hiểu biết bản chất mình một cách đàng
hoàng thì chúng ta thường quay đi tìm kiếm những kẻ khác để
được vui sướng thỏa mãn. Nhưng vì chúng ta không thực sự biết
được điều gì đang mất mát trong đời sống mình, cho nên ta không
thể trao đổi cảm thông những nhu cầu chúng ta một cách rõ ràng
trong sáng và do đó chúng ta chỉ cảm nhận lòng mình đầy sự bực
dọc bất mãn đau đớn xót xa. Càng lúc ta càng rơi tuột vào những
cảm giác bất mãn thì càng lúc lại càng cảm thấy nghẽn tắt tâm
thần và bất an, bất ổn định tâm tư: những tiếp xúc liên quan, giao
thiệp với cuộc đời trở nên chua đắng và chúng ta không thể
nào làm việc phục vụ một cách hữu hiệu được. Chúng ta không
còn thấy tự do thoải mái và bị đóng nhốt bưng bít trong tâm tư vì
mình đã đánh mất sự trực thức linh động (awareness) bị lôi kéo
vào những chu kỳ dường như bất tận, những chu kỳ xao xuyến khắc
khoải bàng hoàng sảng sốt và đầy sự bất hạnh vô phúc. Chúng ta
phải bị đi quẩn quanh lòng vòng cứ tìm mãi sự tràn đầy tâm
thức, mà chẳng bao giờ tìm thấy được, và chính sự tìm kiếm
này trở nên khuôn thước định mẫu của đời sống mình.
Chúng ta sống trong một
thế giới di động, quá ư nhanh chóng và mọi sự đều thôi thúc
bức ép ta chạy đuổi cho kịp lúc. Phần đông chúng ta không muốn
sống như vậy nhưng chúng ta vẫn bị kẹt buộc vào những yêu sách
mà xã hội đã đặt để trên đời sống chúng ta. Trên mặt ngoài,
chúng ta có vẻ như tự do, nhưng bên trong tâm hồn chúng ta phải đau
đớn chịu đựng bao nhiêu căng thẳng áp lực giằng co do nhịp bước
vội vã nhanh chóng đời sống áp đảo trên số phận mình .
Chúng ta di động quá nhanh
chóng, chúng ta sống quá vội vã hấp tấp đến nỗi chúng ta không
còn đủ thời gian để thưởng ngoạn đánh giá đích thực bản
thân mình, chúng ta đã đánh mất liên lạc trực tiếp với những
phẩm chất tích cực cao quí và sức mạnh nội lực khởi phát từ
đó. Những chướng ngại ngăn cản cho việc thoải mái tự do trong
tâm hồn thường được tạo thành ngay từ lúc bé nhỏ. Lúc chúng
ta còn con nít, chúng ta còn biết cảm nhận thế nào với những sự
vật, và chúng ta ít khi lưỡng lự chia xẻ bộc phát cảm giác mạnh
cho kẻ khác. Nhưng sự bức ép áp lực do gia đình bạn bè gây ra
khiến cho ta phải chịu thủ thế với những thiên kiến hẹp hòi và
những khuôn khổ thiển cận để thích ứng theo những gì thiên hạ
người đời trông ngóng mong đợi nơi mình. Khi những ý tưởng
cảm giác tự nhiên của mình bị hất hủi không ai hăng hái đón
nhận, không được nuôi dưỡng phấn khởi thì mình dễ đánh mất
sự liên lạc mật thiết với những cảm quan của mình, giòng phát
lưu giao thông giữa thân tâm mình bị nghẽn tắc ngăn chặn; mình
không còn biết được hiểu được những gì mình thực sự cảm
nhận. Khi những khuôn thức chà đạp bức áp càng trở nên mạnh
mẽ và cố định thì những cơ hội để tự khai diễn đạo đạt cuộc
đời mình càng lúc càng sút giảm đi. Chúng ta trở thành quá quen
thuộc với những khuôn mòn sáo cũ, công thức ước lệ thích
ứng, đến nổi lúc trở nên lớn tuổì, chúng ta cứ để những
khuôn mòn sáo cũ này thống trị đời sống chúng ta; thế là chúng
ta trở nên kẻ xa lạ đối với bản thân mình.
Làm thế nào có thể
trở lại va chạm trực tiếp, bắt lại liên lạc mật thiết với
chính tâm hồn mình? Chúng ta có thể làm gì để trở nên thực sự
tự do? Lúc mà chúng ta có thể bắt đầu nhìn ngó vào bản chất
nội tại mình một cách rõ ràng minh bạch thì lúc ấy chúng ta mới
có được cái nhìn quán xuyến về sự phát triển tâm thức khả
dĩ giải phóng mình trưởng thành lớn mạnh. Sự sáng tỏ minh bạch
này là bước đầu của sự tự hiểu biết bản thân và điều
sáng tỏ này có thể được phát triển một cách đơn giản bằng
cách ngắm nhìn sự vận hành hoạt động hành vi của tâm thức và
nhân thể chúng ta.
Chúng ta có thể
thực hành sự quan sát nội tại nầy bất cứ ở nơi nào, ở bất
cứ mọi hoàn cảnh nào, với bất cứ những gì ta đáng làm, bằng
cách trực thức, tỉnh thức với từng tư tưởng và từng cảm
giác tiếp nối sau đó. Ta có thể cảm nhậy với cách thức hành
động của mình tác độrg thế nào đến tư tưởng mình, thân thể
và giác quan mình. Khi mình làm như thế thì mình lại mở lại được
con đường thông thương giữa thân xác và tâm thức mình, và đạt
được một sự trực thức linh động hẳn lên về thực tính bản
chất mình, mình trở nên quen thuộc thân thiết lại với phẩm chất
cao quý của tính thể nội tại của mình. Thân xác và tâm thức mình
bắt đầu hỗ trợ nâng đỡ lẫn nhau và đem lại một tính chất
tràn trề sinh khí cho mọi cố gắng nỗ lực của mình. Chúng ta được
bước vào một tiến trình học hỏi về bản thân một cách sống
động thân tình, và sự tự hiểu biết này tăng trưởng tinh khí
thần vào tất cả mọi hành động, hành vi của mình.
Khi mà chúng ta quan sát
bản chất nội tại của mình một cách ý tứ đàng hoàng thì ta sẽ
thấy rõ mình đã đè nén chận áp, đến độ nào, đã đóng khép
bưng bít cảm giác và thực tính bản chất mình đến độ nào. Từ
đó mình mới có thể bắt đầu cởi mở ra nhưng cảm giác này và
giải phóng tinh khí thần mà chúng ta đã nén giữ lại trong ta. Với
tâm thức trầm lặng thanh bình và tư thái trung thực trực tính
không lường gạt dối trá, với việc chấp nhận bản chất thực
sự của mình, mình trưởng thành lớn mạnh trong niềm tin tưởng vào
cuộc đời sẽ học được những phương cách mới mẻ và tích cực
hơn để nhìn thẳng vào bản tính mình.
Khi những trực nhận nội
tại mình trở nên rõ ràng và thông suốt hơn thì sự tập trung tư
tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi
cần thiết. Sự tập trung tư tưởng này không có tính cách cưỡng
bách; nó rất thong dong bình thản và gần như vô tâm thoải mái tình
cờ. Sự quan tâm chú ý của mình được tập trung một cách nhẹ
nhàng thú vị, chứ không cứng nhắc khó chịu. Mình có thể phát
triển sự tập trung tư tưởng tâm thần hưng động này bằng cách
chỉ làm một việc cho một lúc một cách thấu đáo dâng hiến tất
cả tinh thần chú ý mình vào những gì mình đang làm, vừa trực
thức, tỉnh thức với từng chi tiết liên hệ. Giữ gìn trì thủ sự
tập trung tư tưởng tâm thần mình vào một việc làm duy nhất cho
đến khi được hoàn tất, và cứ như thế tiếp tục làm tròn bổn
phận trong việc kế tiếp và cứ như vậy tiến triển mãi trong tiến
trình. Ta sẽ tìm thấy sự sáng suốt minh bạch và nhập kiến của mình
được sâu thẳm thêm lên và trở thành một cái gì tự nhiên
trong bất cứ hành động hành vi nào của mình.
Cùng với khả năng tập
trung tư tưởng tâm thần lớn mạnh thêm lên thì sự thức tỉnh tâm
ý phát hiện ra một sự trực thức về mỗi sắc thái vi tế của
từng tư tưởng từng cảm giác, từng hành động thể hiện. Sự
thức tỉnh tâm ý (Mindfulness) là sự hòa hợp của sự tâm trung
tâm tưởng sự sáng suốt tâm trí và sự trực thức càng được
tác động thể hiện đối với ngay cả những chi tiết bé nhỏ nhất
của mọi kinh nghiệm. Thiếu mất sự tỉnh thức tâm ý (mindfulness) dù
mình có tập trung tâm thức hay sáng suốt đi nữa thì đó cũng chỉ
là như đứa con nít xây dựng lâu đài trên cát mà không biết
rằng thủy triều sẽ cuốn trôi sạch mất đi sự tỉnh thức tâm ý
giữ vững cho bất cứ những gì ta làm đều được làm đến tận
cùng khả năng tinh lực của ta. Ta có thể phát triển sự tỉnh thức
tâm ý mình bằng cách tập trung sự sáng suốt và thông minh mình
vào việc mình đang làm.
Chỉ thử giản dị quan sát
mình làm việc thế nào trong một công việc bổn phận đơn sơ nhất.
Mình bắt đầu như thế nào? Mình tiến hành thế nào? Ta có thực
sự hiểu biết những gì ta muốn làm không? Ta có ngó tới đằng
trước cứ điểm ta đang muốn đạt tới? Hãy nhìn kỹ những hiệu
quả hành động ta từ một cái nhìn thẩm thấu lớn rộng đồng
thời quan sát mọi chi tiết của hành động mình. Mình có trực thức
về những hiệu quả của mỗi bước vận hành mình đang đi ?
Khi mình khai triển sự tỉnh
thức tâm ý, mình trở nên có khả năng nhận xét những sơ suất
lơ đễnh trong việc trực thức đã tác động ảnh hưởng thế nào
đến nhịp điệu, tiết điệu công việc mình. Lúc mình làm việc với
tất cả sự thức tỉnh tâm ý những cử động vận hành của mình
đều được xuôi chảy nhịp nhàng đẹp đẽ và những tư tưởng
mình trở nên trong sáng và được sắp xếp trật tự đàng hoàng
và những cố gắng nỗ lực mình trở nên rất hữu hiệu. Vì nhờ
mình đồng điệu sâu thẳm với từng giai đoạn việc làm của mình
và với hậu quả của từng hành động cho nên mình cũng có thể
tiên đoán ngay cả những kết quả của việc làm. Ta trở nên trực
thức về duyên do động lực thúc đẩy những hành động của ta,
và học cách nắm lấy ngay bất cứ khuynh hướng quên lãng hay lầm
lẫn. Lúc mà chúng ta trở nên thuần thục trong việc tỉnh thức tâm
ý chúng ta có thể đi sâu vào sự hiểu biết bản năng ta và
những hành động ta.
Việc phát triển sự trong
sáng, sự tập trung tâm thần và sự thức tỉnh tâm ý có thể
giáo dục ta trong mọi đường hướng không thể thấy xảy ra trong một
lớp học, vì đối tượng của sự thẩm sát ở đây là chính bản
chất nội tại của ta mỗi một bước tiến của tiến trình dẫn đến
sự tự trị lớn rộng hơn lên, dẫn đến một phẩm chất chính xác
tinh tế quán triệt khả dĩ hỗ trợ nâng đỡ thêm nữa sự tự
khám phá bản thân. Sức mạnh và sự trực thức đạt được theo
cách ấy giúp ta kiểm soát hướng đi và mục đích đời sống mình.
Tất cả mọi hành động của chúng ta phản ảnh lại một mềm vui
sướng tự nhiên, và đời sống cùng việc làm mang chứa một phẩm
chất nhẹ nhàng thỏa thích, khả dĩ tiếp liệu nuôi dưỡng ta trong
tất cả mọi việc ta làm. Cuộc đời trở thành một nghệ thuật,
một sự hiển đạt việc tương hành ứng đáp luân lưu của thể
xác ta, tâm thức ta và cảm quan ta đối với mỗi một kinh nghiệm
trong đời sống ta. Ta có thể tin cậy nơi chính ta để thành tựu
những nhu cầu nội tại nhất của ta, và như thế ta trở thành thực
sự tự do giải thoát.
Sự tự do nội tại cho ta
dùng được trí thông minh ta một cách khôn ngoan; chỉ một lần học
được cách sử dụng trí thông minh ấy, thì chúng ta không thể bao
giờ đánh mất sự sáng suốt và lòng tin tưởng nó mang đến cho
ta. Niềm tự do và sinh lực tràn trề này đều ở trong tầm tay ta.
Lúc ta trực thức được những khả tính phát triển niềm tự do
nội tại, ta có thể bắt đầu cởi mở đón nhận sự vui sướng
khỏe mạnh và thỏa mãn bao quanh ta. Việc tự hiểu biết mình sẽ xui
khiến ta được nhập kiến sâu thẳm hơn nữa, được thông cảm
hiểu biết nhiều hơn nữa và một cảm trạng thanh bình tâm thức. Ta
sẽ lớn mạnh lành khỏe trong thể xác cũng như tinh thần, công ăn
việc làm ta, gia đình và những giao tế ta trong đời sống trở nên
có ý nghĩa hơn nữa. Ta sẽ có thể thành tựu những mục đích
vạch sẵn một cách dễ dàng thư thái. Lúc ta đạt được niềm tự
do nội tâm ta sẽ khám phá một niềm vui sướng khoái cảm sâu thẳm
và trường cửu trong tất cả những việc làm của mình.
Tôi đã dịch trọn chương đầu
của quyển Skillful Means (Phương Tiện Thiện Xảo). Bản dịch này thì
khác với bản dịch đã xuất bản năm 1993, và đó là lần dịch
đầu tiên vào năm 1983; (Bản dịch đã xuất bản năm 1993 đã được
tôi dịch vào sáu năm sau, 1989). Thực ra những gì Tarthang Tulku thuyết
giảng ở đây cũng chẳng có gì gọi là mới lạ. Đạo lý ngàn
đời của nhân loại quanh đi quẩn lại cũng mấy điều vô cùng giản
dị, nhưng nếu chúng ta có đủ sự thức tỉnh tâm ý bén nhạy thì
chính đôi điều vô cùng giản dị ấy sẽ chuyển hóa đời sống ta
một cách toàn triệt. Đời sống con ngưòi càng lúc càng trở nên
khó khăn, thỉnh thoảng đâu đây được nghe lời bình dị đi thẳng
vào trực thức đời sống thì chúng ta cảm thấy những gì cao siêu
nhất thật ra chỉ là những gì mình đã vô tình quên lãng một cách
vô ý thức trong những mong đợi bất tận của ý thức điên đảo.
Sự giải thoát tự do
từ bên trong tâm hồn chỉ xuất hiện khi nào chúng ta đánh thức
lại từng cử chỉ, từng ý tưởng nhỏ nhặt nhất thoáng hiện trong
lòng, từng cảm giác tế nhị, kín đáo len lỏi trong tâm thức ta,
từng hành động hành vi vô tình nhất, từng hơi thở mong manh, từng
cái nhìn, từng dáng đi, từng lời nói vô nghĩa nhất... mỗi giây
phút trong đời sống đều bất ngờ mới lạ; tất cả mọi tuyệt
vọng đều phát khởi từ sự đánh mất cảm nhận thức tỉnh về
sự chuyển hóa liên tục của vũ trụ và của tâm thức, khi mà
chúng ta bình thản lắng lòng đi sâu vào sự im lặng sâu thẳm của
thể tính.
Hãy nghe lời nhắc nhở
vô cùng đơn giản sau đây của Tarthang Tulku trong lời Tựa quyển
sách: "Thực ra không hề có giới hạn nào đối với những gì
ta có thể thành tựu được trên đời này, nếu ta thực sự biết
đón nhận tán thưởng tất cả những cơ hội mà đời sống đã
cung hiến cho ta".
-- o0o --
Mục Lục
Chương 1
|
Chương 2|
Chương 3
|Chương 4
| Chương 5
Chương 6
|Chương 7|
Chương 8|
Chương 9
|Chương 10
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Vi tính: Mỹ Hồ
Cập nhật ngày 01-12-2001