Thực Tại và Chí Đạo
Phổ Nguyệt
---o0o---
CHƯƠNG BA
CHÍ ÐẠO
I. THIÊT TÁNH GIÁC
Ðứng trên phương diện chân lý tối hậu, hay theo triết lý Duy Thức, thì tự
tính tuyệt đối của sự vật đều có tánh không. Nhắc lại, tánh Hư Không, đức
Phật giải thích: A Nan! Ngươi phải biết trong Tạng Như Lai, Tánh giác tức
là thiệt hư không, Hư Không tức là Thiệt Tánh giác, thanh tịnh bản nhiên,
đầy khắp thế giới... Vậy Thiệt Tánh giác hay Tự Tính Tuyệt Ðối được xét
theo hai khía cạnh sau đây:
1.- Không Gian: Cái không gian dung chứa sự vật và sự vật chiếm cứ không
gian là một.Nói gọn là sự vật và dung thể không của nó là một.Sắc không
khác không, và không không khác sắc. Cái chân lý thì nó chính là nó, không
có tự tính nào áp đặt lên nó, không thể dùng ngôn ngữ,công ước để cưỡng ép
lên tánh chất của nó. Nó là nó không có gì ngoài nó. Nó là dung thể không
của sự vật nên nó không vượt ra khỏi sự vật. Theo Tử Thư Tây Tạng gọi là
chân lý tự nó trống rỗng và trần trụi như Hư Không vô biên và không có tỳ
vết. Ðó cũng gọi là Chơn Không. Do đó Tánh giác là Thiệt Hư Không hay Hư
Không là Thiệt Tánh giác. Tánh Giác là Chân Trí hay là cái dụng của Chơn
Tâm. Vậy làm sao nắm bắt được Chơn Tâm? Phương pháp nào? Trong kinh Kim
Cang, đức Phật dạy cách hàng phục vọng tâm :
-Ðộ tất cả chúng sanh vào vô dư niết bàn, mà không thấy chúng sanh nào
được độ.
Ðộ: là làm cho giác ngộ, giải thoát mọi vọng tưởng giả lập để đạt thực
tính.
Chúng Sanh: Tất cả các loài, sự và vật có tri giác hoặc không có tri giác;
là những thực tại giả lâp hay tùy thuộc.
Vô Dư Niết Bàn: Niết bàn tuyệt đối hay tự tính tuyệt đối, là chơn không
hay thiệt hư không.
Vậy câu trên có nghĩa là :Ðưa tất cả các các thực tại giả lập vào thực tại
tuyệt đối mà không còn thấy các thực tại giả lập đó nữa. Vậy muốn hàng
phục vọng tâm, hành giả nên trực nhận (tâm) thể không của sự vật và ngay
đó lìa tướng giả lập.(Ly bốn tướng :Ngả, Nhơn, Chúng Sanh, Thọ giả ).
2.-Thời Gian: Ngay khi thể nhận thực tướng của sự vật liền lìa ngay tướng
không của sự vật. Cho nên trong kinh Kim Cang, Phật bảo Tu Bồ Ðề cách thức
an trụ tâm như sau : Khi chơn tâm được hiển bày (hàng phục được vọng tâm),
thì phải gìn giữ chơn tâm bằng cách: Bồ Tát không có chỗ trụ mà bố thí,
tức là không trụ vào Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí.
Trụ: là bám vào, dựa vào
Bố Thí: là ban bố, cho cái mình có, cái mình biết, xả bỏ. Muốn an trụ tâm
Bồ Tát không bám vào tất cả chỗ mà phải xả bỏ xa lià chúng đi; nghĩa là
không dựa vào các thực tại giả lập (Sắc, thinh,hương, vị, xúc,pháp) mà
phải xả bỏ cái mình biết là giả lập đó.Phật đã chỉ rõ về thân tướng không.
Nếu hành giả không nương tựa vào đâu mà xa lìa cái mình biết thì phước đức
cũng như hư không. Cho nên thân tướng là thực tại giả lập (hay tự tính giả
lập). Nơi nào có thân tướng là nơi đó còn có lường gạt (không thật). Nếu
thấy được tính cách không tướng của các tướng tức là thấy được Như Lai. Ðó
tức là nhận ngay thực tướng hay thể không của thân tướng. Mà muốn an trụ
tâm thì phải vô sở trụ tức là không bám vào sắc, thinh... mà phải xả bỏ
ngay khi mình biết sắc vì nếu trụ vào sắc một sát na thì sắc ấy không còn
là thật nữa.Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc tức thì biến thành
không..., thời gian huyễn hóa sự vật. Chân Trí (hay Chân Tâm) được hiển lộ
ngay nơi đối tượng hiện quán. Bồ Ðề Ðạt Ma nói, Hiện tại là bồ đề,vì không
có quá khứ đầy đau khổ và không có tương lai để gây thêm tội lỗi; thì ngay
bây giờ há không phải là bồ đề sao! Trong khoảnh khắc hiện tại, chân lý
xuất hiện tại đó (không gian) và lúc đó (thời gian) mà thôi. Thực tướng
được hiện bày ở trạng thái vô thời không, vì có thời gian chạy dài trong
không gian thì mọi sự vật đều trở nên huyễn hóa. Vậy muốn đạt được giác
ngộ hay chân tâm thì phải theo hai cách : Hàng phục tâm và An trụ tâm.Ðó
là để đạt được chân lý tối hậu,là tự tính tuyệt đối, là chân tâm, là thiệt
tánh giác hay là hư không vv... Nhân: Ưng vô sở trụ thì quả: Vô sở bất
tại.
II.-VÀI THÍ DỤ VỀ SỰ GIẢI THÍCH TÁNH GIÁC
1) Trong phẩm Văn Thù Sư Lợi thăm bịnh Duy Ma Cật;
.... Ngài Văn Thù Sư Lợi vào nhà ông Duy Ma Cật rồi, thấy trong nhà trống
rỗng không có vật chi, chỉ có một mình ông nằm trên giường mà thôi. Khi ấy
ông Duy Ma Cật chào rằng:
_Quí quá thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi mới đến! Tướng không đến mà đến, tướng
không thấy mà thấy.
Văn Thù Sư Lợi nói:
_Phải đấy, cư sĩ! Nếu đã đến thì không đến, nếu đã đi thì không đi. Vì
sao? Ðến không từ đâu đến, đi không đi đến đâu, hể có thấy tức là không
thấy. Thôi việc đó hãy để đó...
--Tướng không đến: Tướng đến từ A 1 đế A 2 theo thời gian huyễn hóa tướng
rồi. Ngay lúc đến là khoảnh khắc hiện tại ta nhìn thấy cái đến lúc đó và
tại đó (một điểm ở sát na). Nên cái thấy đến thật là ở điểm đến hiện tại
đó mà thôi. Còn tướng đến từ A 1 đến A 2 (quá khứ), tướng ấy đã huyễn hóa
rồi, không thật. Tánh giác (thấy) đó ở trong trạng thái vô thời không.
Cũng như thế, tướng đi, đi đến đâu (tương lai), cũng không thật, chỉ thấy
cái đi ngay ở khoảnh khắc hiện tại. Do đó Văn Thù Sư Lợi đáp : Ðã đến (quá
khứ) thì cái đến không thật, đã đi thì cái đi không thật, đã thấy thì cái
thấy không thật. Vì đến không từ đâu đến (không xác định), đi thì không đi
đến đâu (không xác định), còn có thấy thì không còn thật thấy đối tượng đó
nữa, Sắc tức thị không.
2). Cũng trong Duy Ma Cật, Phật dạy Bảo Tích:
_Bảo Tích, ông nên biết, Trực Tâm là Tịnh Ðộ của Bồ Tát; khi Bồ Tát thành
Phật, chúng sanh không dua vạy, sanh sang nước đó. Thâm Tâm là Tịnh Ðộ của
Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước
đó. Bồ Ðề Tâm là Tịnh Ðộ của Bồ Tát, khi chúng sanh thành Phật, chúng sanh
có tâm đại thừa sanh sang nước đó ...
--Trực Tâm là tâm chơn thật, không dua dối, tâm chánh niệm chơn như. Tâm
trực nhận ngay thực tướng của sự vật,là thiệt tánh giác. Ngay trong khoảnh
khắc hiện tại, tâm không hư dối ấy,là tâm chánh niệm chơn như là lối thắp
sáng hiện hữu. Nếu cái hiện hữu được cao thâm bền chắc, nhóm góp gieo
trồng không dứt mất tất cả công đức tích lũy, thì kết quả đạt được thâm
tâm. Trong thời gian miên mật thắp sáng hiện hữu ấy, đến một ngày kia, sự
gieo trồng của Trực Tâm và bền vững của Thâm Tâm, thì đạo quả là Bồ Ðề
Tâm,Chánh Giác.
3).- Truyện nàng Bhađda ở phần trước:
Ba câu hỏi của nàng Bhađda luận tranh với Ngài Xá Lợi Phất.
Câu hỏi 2: Tôi đang nói chuyện với ai đây?
Trả lời: Người ta gọi bần đạo là Xá Lợi Phất. Hãy nghe cho kỹ đây! Giáo
pháp của đức Thế Tôn Sư rọi cái rỗng không của các pháp, dẫu Tâm hay Vật,
làm cho vô tự tính mọi thực tại tính, làm cho vô ngã tính mọi hữu tồn, dầu
là Atman, Brahman hay Ðại Ngã. Hãy nghe đây!
Giáo lý ấy không trườn uốn như con lươn, không chẻ sợi tóc ra làm tư,
không kẹt trên ngôn từ rằng đây là thường rằng kia là đoạn, giáo lý ấy
dành cho người tu chứng, kẻ có trí nghe ắt hiểu. Hãy nghe cho kỹ đây!
Không những là Xá Lợi Phất, cái tên gọi giả danh nhằm chỉ vào cái thực,
nhưng mọi cái thực ấy, dẫu là sắc thọ tưởng hành thức phải được nhìn cho
rõ ràng bằng trí tuệ như thực, như chơn, là nó không phải là ta, không
phải của ta, không phải tự ngả của ta. Này nàng Bhađda! Câu hỏi của nàng
thuộc lý luận rỗng không phù phiếm, câu trả lời của bần đạo đã đặt chúng
trên thực tế,chánh đạo, hãy nghe và thọ trì.
**-- Câu hỏi về Ngã nầy được Ngài Xá Lợi Phất giải nghĩa rất rõ ràng. Xá
Lợi Phất là một thực tại giả lập, ngay trong nó có cái thực. Thực tướng
của thân ngũ uẩn là không.Sắc không khác không.... Thể không của thân ngũ
uẩn là thực tướng của nó.
- Câu hỏi 3: Này ông Sa Môn! Câu trả lời của ông chẳng phải xa lạ gì. Ta
đã từng nghe những con vẹt cững đã hót lên như thế, chỉ có điều ông tự tin
và vững chãi hơn, do ông có cái thực ở nơi sự tu chứng của mình. Hãy nghe
đây! Bây giờ ta sẽ hỏi ngay chính nơi cái thực ấy. Hy vọng rằng ông không
trườn uốn như kiểu là không phải ta không phải của ta! Hy vọng rằng ông
trả lời khác, giản dị và uyên áo hơn. Hãy nghe đây! Cái thực ấy còn định
luật nhân quả chi phối hay không? Còn định luật chi phối? Hãy trả lời ngay
đi. Hãy trả lời đừng hủy hoại ngôn ngữ, như dao chém nước.
Xá Lợi Phất:
-Này nàng Bhađda! Nếu cái thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì
cái thực ấy chỉ là khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn
định luật nhân quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu,
cái vô tự tính, cái ngoang không niết bàn.
Này nàng Bhadda, hãy nghe đây! Ðây là cái dao chém nước như nàng muốn. Cái
thực ấy là cái sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ Tâm, Trí, tư tưởng
Trí mà có, từ tuệ, tuệ minh ấy nó có trong tâm của bậc giác ngộ, bậc A La
Hán,kẻ đã đoạn tận lậu, hoặc giải thoát khổ đau và phiền não, này nàng
Bhađda cứ thế mà thọ trì!
**- Câu nầy Xá Lợi Phất giải minh hai loại thực tại. Thực tại tương đối là
thực tại giả lập hay tùy thuộc như khổ đau, nhiệt não, sanh tử v.v...đều
phải bị định luật nhân quả chi phối. Còn thực tại tuyệt đối, không sanh
không diệt, tự nó đầy đủ,không có gì áp đặt lên nó như hư không, vô tự
tính v.v..., nên nó không bị định luật nhân quả chi phối. Thực tại tuyệt
đối cũng là thiệt tánh giác (tuệ minh). Cho nên, đối với các bậc giác ngộ,
bậc A La Hán, hoặc những kẻ đã giải thoát khổ đau và phiền não, hoặc kẻ có
trí, thì trong tâm họ có cái sáng suốt, cái tuệ minh, cái thực tại tuyệt
đối, mà cái thực tại tuyệt đối nầy không bị định luật nhân quả chi phối.
--Ta Bà Ni chợt thét lên như con thú bị tử thương: chưa thể thọ trì được!
Ta chưa chấp nhận điều ấy, ông Sa Môn đại ngôn kia. Hãy nghe đây! Ðây
không phải là câu hỏi thứ tư mà đây chỉ là phản vấn. Ông nói rằng có cái
tuệ minh, xin lỗi tôi có lầm chăng, một cái tuệ minh? Vậy thì giáo lý vô
ngã, vô tự tính của đức Thế Tôn Sư của ông sẽ không còn chỗ đứng, bất khả
lập, bất khả thuyết và nó đã mâu thuẫn từ tiền căn? Vậy phải trả lời làm
sao cho kẻ học nữ Ta Bà khổ hạnh nầy: một giáo lý thường kiến vậy kia?
--Hãy bình tĩnh! Hãy bình tĩnh! Này nàng Bhađda đừng tự buộc mình vào
những thằng thúc! Ðừng bị bịt mắt trước ngọn đèn sáng suốt tự tâm. Hãy
nghe đây! Cho bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết
cho chính mình. Câu hỏi như thế này: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó thường
hay đoạn?
--Chẳng phải thường--Nàng nghĩ--Thường sao được khi nó sinh diệt từng giây
từng khắc! Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện hữu!
Thấy nàng Bhađda im lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai:
--Này nàng Bhađda! Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở nàng 30
tuổi nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi dẫu cái hoa có khác, quan
niệm đẹp xấu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không?
--Không thể thay đổi, thưa tôn giả.
--Nó chẳng phải thường không?
***- Câu nầy tả tánh thấy và cái bị thấy. Tánh thấy thường hằng bất biến,
đó là năng tri. Cái bị thấy hay đối tượng là những thực tại giả lập, hay
thay đổi, vô thường tức là cái sở tri.
--Câu hỏi 4: Ta muốn hiểu cái sở tri về bậc A La Hán ở nhiều phương diện
khác nhau. Vị ấy làm thế nào bước ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang xiết
chảy?
--Bước tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm. Bậc A La Hán không bước tới,
không dừng lại, vị ấy ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử! Này nàng Bhađda, cái
đáp số ấy thậm thâm vi diệu, vi tế, vượt ngữ ngôn vượt suy luận, dành cho
kẻ trí, kẻ thâm đại pháp, dành cho kẻ tu chứng. Có lên đường ai ăn mới
biết no, chứ không để cho nàng --kẻ ngoại giáo, kẻ đứng ngoài cuộc, kẻ với
tri thức thuần túy --muốn dùng cái hiểu biết nông cạn, cái tự ngã kiêu
căng và đa dục của mình, để nắm bắt cái siêu việt không thời gian, cái bất
tử, cái chân phúc, cái niết bàn vô dục và tịch tịnh. Này nàng Bhađda! Nàng
có đủ kham nhẫn tịch lặng để lắng nghe những lời như vậy không?...
****-Câu thứ tư nầy diễn tả rất thâm diệu về thiệt tánh giác trong hai
giai đoạn, hàng phục vọng tâm và an trụ tâm.
Hỏi: Làm thế nào ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang xiết chảy?
Trả lời: Bước tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm; cho nên, không bước
tới, không dừng lại ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang chảy xiết.
*-Bước tới: tiến về phía trước mặt : tương lai, khoảng không gian phía
trước.
Bước tới là lăn trôi theo thời gian huyễn hóa, hay lăn trôi theo trần cảnh
giả lập. Bước tới là lăn trôi theo sự vật huyễn hóa, nhân duyên chằng
chịt, sanh tử luân hồi khổ đau phiền não.
Không bước tới là giai đoạn đầu của nhận thức đúng đối tượng giả lập và
không chạy theo những ảo tưởng tức là giải thoát được khổ đau và phiền não
(phủ định những sự vật giả lập). Không bước tới là tri thức đúng được thực
tại giả lập, đó là sự hiểu biết suông. Trong giai đoạn nầy chỉ thấy mọi sự
giả vọng là không thật mà tránh nó đi, thì trạng thái tâm lúc bấy giờ
thanh thản, không còn bận bịu, dính dáng gì đến phiền não khổ đau.Tuy
nhiên, tri cũng chưa đủ mà cần phải hành.Trước tiên,khai mở đường đi đến
thế giới chơn thật, thấy được con đường rồi tức là giai đoạn khai thị của
tri thức. Ðến giai đoạn hành, thì phải ngộ nhập như phải đi thì mới đến,
ai ăn mới no. Tri thức đúng thực tạigiả lập và phải thể nhập thực tướng
của thực tại giả lập đó, là hai giai đoạn giác ngộ niết bàn tuyệt đối. Ðó
là trực nhận ngay thể không của sự vật. Sắc không khác không, Ðưa tất cả
thực tại giả lập vào thực tại tuyệt đối mà không còn thấy thực tại giả lập
đó nữa.
* Dừng lại: Chận giòng thời gian phía sau lưng, là quá khứ. Dừng lại là
trụ vào cái thực tại giả lập (quá khứ) mà chìm đắm trong vọng tưởng triền
miên, trong sanh tử luân hồi của giòng sống đang xiết chảy theo thời gian
không ngừng. Không dừng lại là không trụ vào quá khứ cũng như không trụ
vào tất cả các chỗ, vào các thực tại giả lập mà phải xa lìa bốn tướng (Ngả
tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng). Không bước tới và
không dừng lại là vượt ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử.
Tương lai hay quá khứ không thể nắm bắt, bất khả đắc. Cho nên không nghĩ
đến tương lai mà lăn trôi theo ảo giác, mà cũng không hồi tưởng quá khứ
hay trụ vào vọng tưởng hoặc là thực tại giả lập mà phải xa lìa bốn tướng.
Vô thời không là thể trạng của một sát na hiện tiền, một khoảnh khắc hiện
tại, thắp sáng được cái hiện hữu ấy cũng là khai mở con đường đi đến chân
nguyên. Do đó, khi chúng ta không bước tới là dứt bặt nhân duyên sanh
diệt, và không dừng lại là không trụ vào cái giả lập, thì ngay đó vượt qua
thời không rồi. Ngay lúc nắm bắt được cái vô thời không là giác ngộ niết
bàn tuyệt đối, cũng là lúc ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang chảy xiết.
Thực vậy, người có đi ắt có đến, người có ăn ắt có no, chớ tri thức thuần
túy chỉ là hí luận mà thôi.
III.- PHƯƠNG TIỆN BIỆN MINH CHO CỨU CÁNH
A.-Pháp Phương Tiện
1). Thiền Nguyên Thủy: Có nhiều cách tu, đại để đều căn cứ trên
hình thức hiện có của thân căn, trần cảnh và tâm thức. Như Pháp Thiền tùy
bịnh đối trị, người nặng bịnh tham dục dùng Quán thân bất tịnh đối trị,
người nặng bịnh sân hận dùng Quán Từ Bi đối trị, người nhiều ngu si dùng
Quán nhân duyên đối trị, người nhiều loạn tưởng dùng Quán sổ tức đối trị,
người nhiều tham sân si đồng nhau dùng pháp Quán Phật Tam Muội đối trị. Ðó
là y cứ tâm bịnh dùng pháp Tu Quán để đối trị. Hoặc lối Quán Tứ Ðại,quán
Ðất, Quán Nước,, Quán Gió, Quán Lửa, từ một đốm nhỏ cho đến trùm cả hư
không. Hoặc lối Quán Màu Sắc, màu xanh, màu vàng, màu trắng, màu đỏ, cũng
từ một đốm nhỏ cho đến trùm cả hư không. Hoặc trụ tâm vào một điểm trên
đầu cây hương hay một vòng nhỏ trên vách cho đến nó phát quang. Hoặc dùng
chánh quán Tứ niệm xứ, quán Tứ đế, quán mười hai nhân duyên v.v... Ðến kết
quả được tứ thiền, bất định và tiến lên tứ gia hạnh, thành tựu trí quả
Thanh Văn. Bởi pháp Thiền nầy cuộc hạn trên hình thức và tu chứng từng thứ
bậc, nên khác Thiền Tông.(Tự Gia Bảo, tr390)
* Các loại thiền của Nguyên Thủy, dùng trí phân tích, hoặc tưởng tượng,
phần nhiều là những thực tại giả lập. Dầu sao khi chú tâm vào việc quán
các thực tại giả lập ấy, thì các vọng tưởng khác khó len lõi vào tâm thức.
Cho nên hành giả cũng đạt được một số kết quả khả quan tương ứng với
phương tiện thực hiện.
2). Quán Âm Thanh và Ánh Sáng.- Dùng phương tiện âm thanh và ánh
sáng trong nội thân để quán.Trong kinh Lăng Nghiêm, chủ đích Phật muốn chỉ
cho hội chúng biết mọi người đều có tánh giác trong sáng, gọi là tánh giác
diệu minh hay Như lai Tạng hoặc Chơn tâm... Sáu căn là gốc luân hồi, sáu
căn cũng là gốc giải thoát. Trong cái thấy biết (của sáu căn), chạy theo
phân biệt là gốc vô minh, trong cái thấy vô phân biệt là niết bàn.Ðó là
con đường trở về Tánh Giác. Trong sáu căn, ở đây đặt nặng tánh nghe nhiều
hơn. Cho nên trong phần chọn lựa để tu, Ngài Văn Thù có đoạn nói:
Ðại chúng và A Nan! Bảo các ông xoay cơ quan nghe, trở lại nghe cái tánh
nghe, là thành đạo Vô Thượng Niết bàn của chư Phật nhiều như số vi trần.
Chư Phật đời quá khứ cũng từ cửa này thành tựu. Chư Bồ Tát hiện tại đều
vào viên minh và những người tu học đời vị lai cũng y pháp như thế!
Phật và Bồ Tát đều xác nhận Nghe laị tánh nghe của mình là con đường vào
cửa Niết Bàn. Ðây là lối tu trở về tánh giác. (Tự Gia Bảo, tr362)
*Thật sự qua cái nhìn của chân lý tuyệt đối, lúc đầu Phật dùng cái thấy
(năng tri) qua nhãn thức để nói là chơn tâm, nhưng sau Ngài xác nhận rằng
cái thấy không phải là chân tâm vì cái thấy do cảm quan nhận thức, nên đối
tượng mà giác quan nhận thức là thực tại giả lập mà thôi. Nên Phật và Bồ
Tát xác nhận lại trong tánh nghe Nghe lại tánh nghe của mình hay Thấy lại
tánh thấy của mình. Ðó là phương pháp trực nhận thực thể qua tánh thấy hay
tánh nghe.Trong sự sống thường nhật hay trong lúc ngồi thiền, hành giả
không trụ vào ánh sáng hay âm thanh ở nội thân khi mình quán. Ở giai đoạn
đầu : Thấy có ánh sáng, thấy không có ánh sáng. Nghe có âm thanh, nghe
không có âm thanh.Tánh thấy, tánh nghe (năng tri) thì thường hằng; cònánh
sáng và âm thanh (sở tri) thì vô thường biến đổi. Cái năng tri là tướng
giác của của chủ khách đối đãi căn trần thức, nên tướng giác ấy không phải
chơn tâm. Giai đoạn hai: khi có ánh sáng, ta biết (thấy) có ánh sáng, khi
không có ánh sáng thì biết (thấy) không có ánh sáng. Tánh nghe cũng thực
hiện tương tự, Nghe lại tánh nghe của mình,tức là khi có tiếng,biết (nghe)
có tiếng; khi không tiếng, biết (nghe) không có tiếng.--Biết đó là thiệt
tánh giác. Một trong sáu căn cũng là cửa để vào đường nhận thức chơn tâm.
Dù thể hiện được tánh giác, pháp quán âm và ánh sáng cũng dùng phương tiện
cố định ở nội thân, do đó tánh giác đó không được toàn vẹn, vì còn trụ vào
một đối tượng để quán thì tâm chưa an trụ hoàn toàn.Cho nên pháp nầy có
thành tựu giới hạn và có thể đến những cảnh giới do phương tiện vay mượn,
nên còn chướng ngại của nghiệp thức. đúng ra Nghe lại tánh nghe của mình,
Thấy lại tánh thấy của mình, phải ưng vô sở trụ. Không trụ vào lục trần mà
bố thí (Kim Cang) mới là hoàn toàn hàng phục vọng tâm và an trụ tâm để đạt
thiệt tánh gíác hay chơn tâm mà chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh, diệu
thường.
3).-Niệm Phật: Dùng pháp niệm Phật làm diệu dược để trị lành mọi
chứng bịnh loạn tưởng, khi bịnh lành thuốc cũng bỏ. Tức là niệm Phật đến
chỗ vô niệm, chỉ còn nhứt tâm chơn như. Niệm Phật đến chỗ vô niệm thì thấy
tự tánh Di Ðà, bản tâm là Tịnh Ðộ, hiện bày trước mắt. Tự tánh của mình
xưa nay hằng giác, nên nói: Vô lượng quang. Tự tánh chưa từng sanh diệt,
thoát ngoài vòng thời gian, nên nói vô lượng thọ. Bản tâm mình xưa nay
thanh tịnh, do vọng tưởng dấy động nên bị nhiễm ô, theo nghiệp dẫn đi
trong lục đạo, vọng tưởng lắng sạch chỉ còn một tâm thanh tịnh là tịnh độ,
cho nên nói Tâm tịnh thì độ tịnh. Chuyên trì niệm Phật không có niệm nào
khác chen vào; mượn một niệm dẹp tất cả các niệm. Duy giữ một niệm niệm
Phật, đi đứng nằm ngồi liên tục không gián đoạn, đến đâu là nhứt niệm.
Nương niệm nầy cầu vãng sanh về cõi Phật Di Ðà chắc chắn sẽ mãn nguyện.
(Tự Gia Bảo, tr 55)
*-Pháp niệm Phật nếu được nhất tâm, tất cả sẽ vãng sanh về cõi Di Ðà, tuy
nhiên cách niệm Phật chỉ là để tránh mọi vọng tưởng củ nổi dậy và vọng
tưởng mới phát sanh, mà chưa thể nắm bắt được chơn tâm. Nếu hành giả hằng
sống với thế giới không có vọng tưởng, thì sẽ sanh vào thế giới an lạc như
cõi Phật Di Ðà, dù chưa đến cõi hoàn toàn giác ngộ,niết bàn tuyệt đối.
4).- Niệm Chú: Theo Mật Giáo Thậm Thâm Nội Nghĩa,
--Mật Tông chủ trương hoàn toàn phù hợp với giáo lý tương tức, tương nhập
của cả thân và tâm. Phương pháp tu tập của Mật Tông sử dụng những nghi lễ;
những nghi lễ đó sử dụng cả thân và tâm một cách đồng đều; những kỹ thuật
thiền quán của Mật tông không bắt buộc hành giả phải thu thúc hoặc cô lập
cái tâm, để nó khỏi dính mắt với các đối tượng của thân căn như ở Hoa
Nghiêm Tôn; và Tông nầy tìm kiếm sự Giác Ngộ đồng thời nơi cả hai phần tâm
linh và thể xác, để đạt được Tức Thân Thành Phật, bằng vào sự giác ngộ
trực tiếp giáo lý vô nhị nơi thân, khẩu và ý của một chúng sanh với Tam
Mật của đức Như Lai. (tr 109)
--Tam Mật có thể trình bày cặn kẻ như sau:
Tay kiết ấn, miệng đọc thần chú, và ý trụ nơi quán tưởng, dùng trong các
nghi lễ của Mật tông gọi chung là Phương tiện của Tam Mật. Phương tiện Tam
Mật là ba hình thức của nghi lễ được đức Ðại Nhật Như Lai tuyên thuyết và
ghi chép nơi kinh văn của Mật Tông, để trợ giúp cho chúng sanh, còn trong
phiền não trói buộc, có thể đạt được sự giác ngộ.
Chư Phật Thế Tôn thấy rõ ràng tất cả những hoạt động của vật chất, âm
thanh và tinh thần đều là Tam Mật của Pháp Thân của đức Ðại Nhựt Như Lai:
Tất cả hoạt động của thân đều là Thân Mật của đức Ðại Nhựt Như Lai, tất cả
những âm thanh, và lời nói đều là Ngữ mật của đức Ðại Nhựt Như Lai, và tất
cả những ý tưởng và những hoạt động thuộc phần tinh thần của chúng sanh
trong vũ trụ đều là phương diện của Ý Mật.
Tuy nhiên, chúng sanh không khám phá ra sự đồng nhứt bất nhị nơi Tam Mật
của đức Như Lai và những hoạt động của thân, khẩu, ý hàng ngày của mình,
vì vậy đức Ðại Bi Thế Tôn mới lập ra Tam Mật Môn làm phương tiện để chúng
sanh thể nhận chân lý tương ưng vô nhị. Những hoạt động nầy là những
phương tiện mà ở trong đó bổn nguyện của chúng sanh và Tam Mật Du Già của
đức Như Lai hiệp với nhau làm một. Những hoạt động nầy liên kết chúng sanh
với đức Phật.
Chúng sanh nhìn mọi sự vật với sự phân biệt, chấp trước, phân chia phương
tiện của Tam Mật (đó là Tam Mật hữu tướng), và Tam Mật của Pháp Thân (đó
là Tam Mật vô tướng), và cho rằng Tam Mật hữu tướng chính là cái bị sanh
và Tam Mật vô tướng là cái vô sanh. Chư Phật thế Tôn thấy rằng Tam Mật hữu
tướng và Tam Mật vô tướng là vô nhị: chúng nó không sanh mà sanh. (tr
130,131)
--Mục đích của các nghi lễ quán tưởng của Mật Tông là môt sự hiệp nhứt
hình tướng có thể nhận được của biểu tượng và thực tướng của chính nó. Mục
đích đó không nhằm vào việc cắt đứt sự huyễn hóa của sự vật mà chính là để
khám phá ra cái thật, nhưng phải thấy hiện tượng giới đồng thời chính là
sự hiện hữu, hay chẳng phải hiện hữu, cũng chẳng phải vừa hiện hữu vừa
chẳng phải hiện hữu. Trong sự ngộ nhập nầy, hành giả không nắm bắt hiện
hữu cũng chẳng nắm bắt vô hiện hữu. Ðây là chỗ mà Tổ sư Thiện Vô Úy gọi là
Khảo sát sự huyễn hóa không thể nghĩ bàn.
Một lần nữa xin lập lại mục đích chính của việc tu tập không phải đơn
thuần ở chỗ là thấy Pháp Thân là nền tảng cho thân huyễn hóa của biểu
tượng, hoặc thấy cái thật bằng cách cắt đứt mọi giả dối, nhưng phải thấy
được sự huyễn hóa không thể nghĩ bàn, trong đó Pháp Thân và Thân huyễn hóa
thì đồng nhất vô nhị. (tr155,156)
*-Cách tu Mật Tông như thế là phải thấy được Thân huyễn hóa không thể nghĩ
bàn tức là trong thân huyễn hóa không thể nghĩ bàn gồm có thân huyễn hóa
và pháp thân đồng nhứt. Vậy thì thân huyễn hóa không thể nghĩ bàn chỉ là
sự vật tương dung an lập, nghĩa là trong sự cấu tạo sự vật, các tế bào
trong sự vật đều dung nhiếp nhau mà an lập. Vì thế thân huyễn hóa không
thể nghĩ bàn (thân ngũ uẩn: vật chất và tinh thần) cũng sẽ huyễn hóa giả
vọng, cho dù dùng thân khẩu ý để tập trung cao độ đến đâu. Thân huyễn hóa
vẫn là huyễn hóa, có điều là là chỉ tập trung vào một biểu tượng (thần
chú) đặt ra,thì nó dẹp hết mọi vọng tưởng khác do nghiệp lực dẫn, cho nên
nó có năng lực công ước hay ngôn ngữ (thần chú, phương tiện) rất cao tạo
nên những thế giới biến hóa không thể nghĩ bàn, tức là thế giới của chư
Phật mà hành giả được gia trì.
*--Tức thân thành Phật thì không hợp lý bằng Từ thân thành Phật vì Phật là
sự sáng suốt, Tánh Giác không sanh không diệt, còn thân thì có sanh diệt.
Ðã biết thân huyễn hóa và Pháp thân là một, tại sao ta không chọn từ thân
huyễn hoá mà nắm bắt cái vô sanh, pháp thân hay thân hư không để sống đời
vĩnh hằng thay vì đeo thêm cái thân giả hợp nầy để rồi có ngày nó cũng sẽ
tử vong. Ta không cắt đứt thân huyễn hóa mà từ nó mà ta tri thức đúng thực
tướng của nó. Ðó mới là giác ngộ, là vượt khỏi luân hồi và sanh diệt. Thí
dụ, một ly nước,nó là hỗn hợp oxy và hydrô, cũng như thân huyễn hóa không
thể nghĩ bàn gồm có thân huyễn hóa và pháp thân. Ta cố gắng hết sức tập
trung để loại bỏ tất cả tạp chất khác, và chỉ còn nó chính là nó dù phân
chia ra thành phân tử đi nữa, cũng chỉ là nước với các hợp chất trong nó.
Cũng thế, thân huyễn hoá không thể nghĩ bàn dù dùng thân khẩu ý miên mật
bít kín các vọng tưởng, thì cũng còn cái thân huyễn hoá sanh diệt đeo theo
mà thôi. Chỉ khi nào, từ nước ta lấy ra oxy để xài thì mới hữu ích. Cũng
thế, từ thân huyễn hóa không thể nghĩ bàn, ta nắm bắt được thực tướng của
nó tức là thân hư không hay pháp thân, mới thật sự là giác ngộ niết bàn.
Chỉ có chơn tâm, hay chơn trí hay tánh giác mới có khả năng chuyển thức
vào cái siêu việt Thời Không hay Niết Bàn Tuyệt Ðối.
*-Tính cách Vô Nhị (không hai) là Thể Không của Pháp Thân Như Lai và Thể
Không của Tánh Giác (của thân huyễn hóa) là một; cho nên Thể Không của
Thân Ngũ Uẩn mới hợp nhứt được với Thể Không Của Pháp Thân Phật. Chớ Thân
huyễn hóa của chúng sanh làm sao hợp nhứt với Pháp Thân Phật được. Pháp
thân Phật không thấy được, chỉ thấy thân chúng sanh mà thôi. Cái thấy được
và cái không thấy làm sao hòa hợp.
*-- Nói về Lý hợp nhứt, theo lý sự cũng không hợp, có thể tưởng tượng
(vọng tưởng). Nói về Nghĩa lý, chỉ là giải thích một cách sai lầm, giả
tưởng, khi dùng tam nghiệp của thân huyễn hóa hiệp nhứt với Tam Mật của
đức Như Lai.
Tam mật là ba cái không thể nắm bắt bằng giác quan. Tam Mật của Thân Khẩu
Ý là ba thể Không của chúng. Thể Không của Chúng mới hòa nhập được thể
Không (Tam Mât) của đức Như Lai. Ðã mật thì không tướng, mà nói hữu tướng
thì không có mật. Thể không hợp nhứt với thể không mới logic, còn thể chất
hợp với thể không thì rất xa luận lý.
*--Chư Pháp Tương Tức Tự Tại (kinh Hoa Nghiêm) là do đồng thể, tức là có
cùng một gốc, nên các pháp nầy tức là pháp kia, không sai khác vì tự
tại.Thể không của tánh giác và thể không của sự vật là một (không
khác).Thể không của thân huyễn hóa đồng nhứt với Pháp thân Phật, chớ không
phải thân huyễn hóa đồng nhứt với pháp thân của Như Lai.
*--Còn Năng Sở Viên Minh Cụ Ðức, (kinh Hoa Nghiêm) là song vong Năng Sở,
vượt qua ta và người, siêu việt chủ khách, viên minh tức là tròn sáng đầy
đủ công đức.
Dùng thân khẩu ý là căn, thần chú là trần (đối tượng). Cái biết (do ý thức
chủ tri), đó là năng tri và thần chú là sở tri, thì còn đối đãi chủ khách.
Từ cái tương đối của thân khẩu ý mà hợp nhứt cái tuyệt đối của Pháp Thân
Phật e không thể nghĩ bàn! (không thể tưởng tượng được)
Thực ra tu Mật Tông, dùng trí Bát Nhã Cứu Cánh để áp dụng thực hành thì
thành quả sẽ cao hơn. Dù vậy, thần chú là một thực tại giả lập do chủ thể
sắp đặt, chứ không phải vọng tưởng do nghiệp lực dẩn. Vì thế mà thân huyễn
hóa không thể nghĩ bàn được tập trung nghị lực và tinh thần chuyên nhứt
vào chính nó, nên nó quét sạch hết mọi vọng tưởng khác để dành lấy ưu thế
cho một thế giới Tịnh Ðộ của chư Phật như cứu cánh của pháp tu: Thế giới
của đức Ðại Nhựt Như Lai,là thế giới hoàn toàn sáng suốt, an lạc và vô
lượng quang.
5).- Khán Công Án Hay Thoại Ðầu: Công Án có nhiều thứ, hoặc chữ Vô,
hoặcVạn pháp, hoặc núi Tu Di... hoặc tham cứu niệm Phật (hay trì niệm
Dalani) tùy theo sở thích mà giữ lấy công án, hẹn cho đến khi ngộ mới
thôi. Lời xưa có nói: Mười phần tin là mười phần nghi, mười phần nghi là
mười phần ngộ. Hãy rữa sạch cái tâm chứa đầy sở kiến, sở văn, biết lầm,
hiểu bậy lời lạ, tiếng hay, đạo Thiền, Pháp Phật, cống cao ngã mạn...(Tất
cả đều là vọng niệm, còn chấp ngã và chấp pháp), chỉ chuyên tâm vào công
án. Ðừng phân biệt đêm ngày, giữ tâm chuyên nhứt cho đến chẳng bận Ðông
Tây Nam Bắc. Phải giống như người chết mà còn thở. Tâm theo cảnh mà hóa,
đụng đến là biết ngay. Ý niệm thôi khởi phát, tâm thức bặt đường đi. Rồi
hốt nhiên đập vỡ óc não, từ đãy nhận ra rằng nguyên lai Ðạo vốn có trong
mình.(Ngộ Phật Tánh)
Hãy bỏ những gì thấy nghe, hay biết (kiến văn, giác tri) mà thấy những gì
trong chính mình.Do kiến, văn, giác, tri mà chúng ta bước vào Ðạo, mà cũng
do kiến, văn, giác, tri mà chúng ta cũng không bước vào Ðạo được, vì chúng
là một trở ngại lớn lao làm chúng ta mù mắt, đi lang thang mãi trong bóng
tối.Chúng ta hãy vứt bỏ chúng, bắt chúng đứng yên, đi đứng nằm ngồi, yên
lặng hay nói năng hãy giữ tâm mình như sợi dây căng thẳng, đừng để chúng
vượt ra khỏi vòng câu thúc của mình.
Có ba yếu tố cần thiết trong việc tu tập Công Án : Tin lớn, Chí lớn, Nghi
lớn. Ðừng bao giờ xao lãng tìm hiểu chữ vô của Triệu Châu hay môt công án
nào khác. Khi thấy công án trở thành vô nghĩa, nhạt nhẽo, vô vị,mình sẽ
cảm thấy bất an trong tâm thức. Ðến đây là lúc cùng tắc thông, hãy buông
mình xuống vực thẳm để rồi sống lại với biết bao nỗi vui sướng. Nên nhớ
đại nghi cũng gọi là nhứt tâm, tất cả khả năng tâm thức của chúng ta được
tập trung vào công án. Chúng ta nên áp dụng lời chỉ dẫn sau đây của Thiền
Sư Thôi Ẩn tu tập công án : không tưởng tượng, không xao lãng, không qui
định công án để rút ra ý nghĩa, không bộc bạch bằng lời, không lấy ý nghĩa
công án làm đối tượng suy tư, không xét công án như chỉ điểm của ngoang
không, không nhầm lẫn công án và không mong cầu chứng ngộ.(Ðại Thừa Yếu
Lược,tr 274,75)
*- Tập trung vào một điểm, hay công án chính là công án, không quan niệm
hay tính chất của công án ấy. Nó chính là nó, dường như là một chân lý tự
nó, nhưng kỳ thực là chủ thể chỉ chuyên nhứt vào một đối tượng (công án)
giả lập, thì sau cùng, nó cũng là nó; nghĩa là tập trung vào thực tại giả
lập mà thôi.Ðó là nhứt niệm, chứ không phải nhứt tâm, vì nhứt niệm là một
niệm của chủ thể và khách thể ý thức, còn nhứt tâm thì tâm Không thể nhập
tánh Không của sự vật đồng nhứt thể (thể không), thì không còn đối đãi,
không còn chủ khách (căn trần thức), là tuyệt đối.
*--Do đó, tập trung cao độ để khán công án hay thoại đầu để cho đại nghi
tình phát triển tối đa thì kết quả như sau:
Thứ nhứt: Dẹp bỏ tất cả những vọng tưởng sắp phát sanh hoặc ngừng lại
những vọng niệm đã chứa sẵn trong tàng thức, chỉ còn lại một niệm duy nhứt
là công án như là công án, hay thoại đầu như là thoại đầu. Việc nầy chỉ
còn lại nhứt niệm vô minh mà thôi.
Thứ hai: Khi tập trung cao độ vào một đối tượng như công án hay thoại đầu
hoặc giả cái nghi tình cũng vậy thì sẽ xảy ra hai hệ quả:
a) Chất chứa hình ảnh của đối tượng thường xuyên nhiều lần như vậy làm
cho kho ký ức đầy ấp nên trí nhớ hay tri thức (chủ khách) cái đối tượng đó
quá rõ ràng đến nỗi xuất thần biến thành những ảo ảnh, tức là trạng thái
ký ức quá mẩn, như các nhà bác học tập trung thí nghiệm để tìm tòi nghiên
cứu của họ;
b) Hoặc giả, nếu không được các vị thầy đầy đủ kinh nghiệm chỉ dẩn sẽ
dẫn đến bị bịnh ức tâm theo phân tâm học của Freud. Tâm thức bị dồn ép
mảnh liệt mà không được tháo mở, lâu ngày chầy tháng sanh ra những bịnh
tâm thần như bịnh trầm uất, tâm thần v.v...
Như trên đã nói,nếu dùng được trí Bát Nhã tháo gở cái nhứt niệm vô minh
chấp chứa lâu ngày đó để nắm bắt ngay thực tướng của nó ắt được giải thoát
khỏi thế giới tương đối mà đạt cứu cánh cao hơn.
Tuy vậy, khán công án hay thoại đầu là pháp môn tu tập táo bạo hơn hết,
nếu hành gỉả thực hành rốt ráo chuyên nhứt miên mật quét sạch các vọng
tưởng điên đảo trong tâm thức đến nỗi chỉ còn một công án hay một thoại
đầu, trong sáng, nó chính là nó, và không có gì ngoài nó, tất nhiên sẽ đạt
đến cảnh giới cực lạc (không còn vọng tưởng điên đảo) của chư Phật.
6).- Tĩnh Tâm: Tĩnh tâm là một hình thức quán đề mục. Tri thức lại
những tư tưởng, tình cảm, và hành động của mình trong thời gian qua so với
tiêu chuẩn đạo đức, với tín điều để kiểm điểm cái sai trái cũng như cái
đúng đắn. Từ trong trạng thái tĩnh lặng con người mới thức tĩnh, mới sáng
suốt nhận định rõ ràng và tích cực sắp xếp, dự định những mong ước hay nói
khác đi là kiên định niềm tin và hy vọng.
Tĩnh tâm là khi tâm tĩnh lặng, mọi hình ảnh của Chúa đã hy sinh,cũng là
đánh thức mọi hành động của ta; từ đó có sự cảm thông giữa ta và Chúa.
Tình yêu của Chúa trong ta phát sinh, đó là lúc tâm thức ta hòa nhập với
tâm tình của Chúa đã hy sinh cho thế gian. Trong tĩnh lặng,con người mới
có những tư tưởng trong sáng vượt qua chính mình (mình là con người tội
lỗi) để quan sát lại chính mình. Tách rời mình ra khỏi chủ thể (tạm bợ),
làm khách thể để soi xét lại mình. Dựa trên tín điều, dựa trên lời chúa
phán, sử sự như là Chúa nhìn lại mình mà phán xét mình. Ngay đó mình nhận
ra con đường đi đến Vương Quốc Thượng Ðế rõ ràng hơn. Mốc điểm thời gian
của quá khứ sai lầm và hiện tại trong sáng, là từ hiện tại ấy ta mới có cơ
hội chuyển hóa đến một thế giới huy hoàng. Ðó là lúc ta tĩnh thức và đặt
niềm tin nơi Chúa trong sự dùng ý lực của mình để theo con đường đi đến
Thiên Ðàng. Niềm tin được thực hiện nơi đạo đức toàn hảo, thì sự hứa hẹn
được cứu rỗi tất nhiên sẽ đến.Ðó là phương pháp câu thông với lực lượng vũ
trụ hay ân điển của Thượng Ðế, tức là chuyển hóa được sống trong cõi vĩnh
hằng của Thiên Ðàng hay Vương Quốc của Thương Ðế.
B.- CHÍ ÐAO - Pháp Bổn Như Vô Pháp
1). Bình Thường Tâm Là Ðạo: (Tự Gia Bảo)
Triệu Châu hỏi Ngài Nam Tuyền:
-Thế nào là đạo?
Nam Tuyền đáp:
-Tâm bình thường là đạo.
Triệu Châu hỏi:
-Lại có nhằm tiến đến chăng?
Nam Tuyền đáp:
-Nghĩ nhằm tiến đến là trái.
Triệu Châu hỏi:
-Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?
Nam Tuyền đáp :
-Ðạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng, không biết là vô ký,
nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu
thể gắng nói phải quấy.
Ngay đó sư ngộ.
Mọi người tu, ai cũng nghĩ mình phải thấy (ngộ) được đạo, và nghĩ rằng đạo
là cái cao siêu ở ngoài mình. Triệu Châu cũng có tâm niệm như chúng ta,
khi được Ngài Nam Tuyền trả lời Tâm bình thường là đạo, sư chưa đủ sức
tin. Vậy Tâm Bình Thường Là Ðạo là tâm nào? Tâm nhớ chuyện năm xưa nghĩ
chuyện năm tới có phải là tâm bình thường không? Vừa dấy niệm là động, mà
động thì sáng suốt thấy biết rõ ràng, như mặt nước phẳng lặng không gợn
sóng. Ngài Nam Tuyền chỉ thẳng mà Triệu Châu chưa nhận ra nên hỏi : Lại có
thể nhằm tiến tới chăng? Sư nghĩ tiến tới để đạt được đạo, song nghĩ tiến
tới là bất bình thường thì không phải đạo. Vì vậy, Ngài Nam Tuyền nói:
Nghĩ nhằm tiến tới là trái. Vừa nghĩ tiến là động, mà động là bất bình
thường nên trái đạo. Nhưng Triệu Châu cũng chưa nhận, bèn hỏi thêm: Khi
chẳng nghĩ làm sao biết là đạo? Sư cho đạo là cái gì phải do suy nghĩ mà
biết, nay không cho suy nghĩ làm sao biết đó là đạo? Ngài Nam Tuyền bảo:
Ðạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô
ký, nếu thật đạt đạo, thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang, rỗng
rang đâu thể gắng nói phải quấy. Nghĩa là tâm lặng lẻ sáng suốt là đạo,
vừa dấy niệm muốn biết nó là vọng giác, còn ngu ngơ không biết gì là vô
ký, cả hai đều sai. Nếu thực đạt đạo, tức là nhận ra cái lặng lẻ chân thật
thì không còn nghi ngờ gì cả, lúc đó tâm rỗng rang thênh thang, không thể
nói là phải hay quấy. Vừa nói phải quấy là có niệm hai bên thì trái đạo.
Ngay đó, Triệu Châu ngộ được Tâm bình thường là đạo.
-Một Thiền sư khác, Sùng Tín con nhà bán bánh bao, ở trước cổng chùa. Mỗi
ngày (sư) đem ít bánh cúng dường Thiền sư Ðạo Ngộ. Ðạo Ngộ ăn xong thường
để lại cái bánh, bảo :
-Ta cho ngươi để ân huệ cho con cháu.
Môt hôm, Sùng Tín tự nghĩ : Bánh bao là ta đem đến, cớ sao Hòa Thượng lại
nghĩ ngược lại ta? Biết đâu có ý chỉ. Sư bèn hỏi Ðạo Ngộ.
Ðạo Ngộ bảo :
-Bánh bao của ông đem đến, ta cho lại ông có lỗi gì?
Sư nghe lời nầy, liền hiểu được thâm ý, liền xin xuất gia. Ðạo Ngộ bảo :
-Ngươi trước sùng phước thiện, nay tin lời ta, có thể gọi là Sùng Tín.
Từ đây, sư luôn hầu hạ bên thầy. Một hôm sư thưa :
-Từ ngày con vào đến đây, chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu.
Ðạo Ngộ bảo :
-Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng dạy tâm yếu cho ngươi.
Sùng Tín thưa :
-Thầy chỉ dạy chỗ nào?
Ðạo Ngộ bảo :
-Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến ta vì ngươi
mà nhận. Ngươi lui ra thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?
Sư cúi đầu im lặng giây lâu. Ðạo Ngộ bảo :
-Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai. -
Ngay đó, sư khai ngộ. Lại hỏi thêm :
-Làm sao gìn giữ?
Ðạo Ngộ đáp?
-Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có
thánh giải khác.
Khi thị giả dâng trà, thầy đưa tay nhận chung trà, lúc đó có suy nghĩ gì
không? Thấy đón nhận chung trà mà không có niệm suy nghĩ, nhưng không phải
là không biết. Như thị giả dọn cơm xá mời, thì bước tới ngồi và cầm đủa
ăn, lúc đó thế nào? Ngồi ăn cơm thầy cũng không suy nghĩ. Khi thị giả xá
chào lui ra thì thầy gật đầu, lúc gật đầu cũng không suy nghĩ. Như vậy,
trong những động tác hàng ngày mà chúng ta không khởi một niệm nghĩ suy,
đó là tâm yếu.Tâm yếu hiện hữu rõ ràng trong mọi hành động, nếu nhận được
chỗ đó thì chỗ nào không chỉ dạy tâm yếu? Vậy tâm yếu mà Ngộ Ðạo chỉ đây
có khác với tâm bình thường mà ngài Nam Tuyền chỉ ở trước không? Tuy
nhiên, ở đây đặc biệt là khi Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ về tâm yếu thì Ðạo
Ngộ chỉ thẳng: Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai. Trong những
hành động bình thường, ngay đó mà nhận ra cái chân thật sẵn có nơi mình,
vừa khởi nghĩ liền bị che khuất. Ngay khi đó sư khai ngộ. Chúng ta thấy
tâm yếu là gì phải không? Và khi ngộ rồi muốn gìn giữ nó phải làm sao? Ðó
là vấn đề then chốt. Ðựợc Ngài Ðạo Ngộ dạy: Mặc tánh tiêu dao tùy duyên
phóng khoáng, chỉ biết hết tâm phàm chẳng có thánh giải khác. Mặc tánh
tiêu dao ở đây không có nghĩa là thân rổi rảnh dạo chơi chỗ nầy xứ nọ, tùy
hứng đờn ca thổi sáo ngâm vịnh... Người như thế là cuồng tăng phóng túng.
Ngài Ðạo Ngộ dạy tùy tánh tiêu dao, chứ không phải tùy thân tiêu dao, phải
hiểu rõ chỗ nầy. Vậy tánh tiêu dao là như thế nào? Tánh thấy, tánh nghe...
có sẵn nơi mỗi người vốn không động, không giới hạn. Bởi không động không
giới hạn nên nó rỗng rang thênh thang. Và vì thênh thang không động, không
phiền cứ mặc nó, không kềm giữ, là mặc tánh tiêu dao. Lâu nay chúng ta
nghĩ là phải kềm giữ cho tâm thanh tịnh, nếu kề giữ là trái với tự tánh
rồi. Tùy duyên phóng khoáng là duyên đến thì tùy duyên bất biến không
vướng không bận, không bị duyên trần làm phiền nhiểu. Sơ Tổ phái Trúc Lâm
nói:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.
Cơ dắc xan hề khốn tắc miên.
Ở trong đời mà vui với đạo, tức là vui với tâm bình thường rồi tùy duyên,
đói thì ăn, mệt thì ngủ. Tùy duyên phóng khoáng là trong cuộc sống bình
thường, đến giờ thì ăn, mệt thì ngủ, đến giờ làm thì làm... không có vọng
niệm làm bận lòng, tâm an nhiên thênh thang tự tại. Ví dụ, quét chùa hay
nhổ cỏ mà tâm vẫn thênh thang rỗng rang không có một niệm dấy khởi, đó là
tùy duyên phóng khoáng. Chớ không phải tùy duyên phóng khoáng là đói vào
quán ăn, ăn nhậu say sưa mệt thì nằm ì ngoài đường phố mà ngủ, gặp nữ sắc
cũng không kỵ, gặp ca vũ cũng không chừa... Ðó là cuồng tăng cuồng thiền,
hiểu lầm hiểu loạn, không đúng lẻ thật, làm cho người chê cười, làm cho
người mất hết tín tâm. Những trọng điểm nầy quí vị lưu ý để nắm vững mà
tu, tánh giác nơi mỗi người vốn lặng lẻ thênh thang sáng suốt, hằng ngày
sống bình thường, đến giờ làm việc thì làm việc, đến giờ ăn thì ăn, đến
giờ nghỉ thì nghỉ, không khởi niệm, không kềm, không giữ. Tuy nhiên vẫn ở
trong nề nếp đạo đức. Ðó là mặc tánh tiêu diêu tùy duyên phóng khoáng,
cũng như Ngài Nam Tuyền, người dâng trà thì tiếp trà, dâng cơm thì nhận
cơm, xá chào thì gật đầu, buông hết vọng tưởng điên đảo của phàm phu, đó
là đạo. Thông thường người tu chưa hài lòng với nếp sống bình thường như
đã nói mà mong có cái gì phi thường, khác lạ của bậc thánh, chớ không có
thánh ở ngoài đến. Tức là dừng được tình phàm là vọng tưởng chủ của nghiệp
là luân hồi sanh tử thì giải thoát vì không sanh không diệt nhưng hằng tri
giác không phải thánh là gì? Có nhiều người nghĩ sau khi vọng tưởng lặng
hết thì còn cái gì? Chỉ cần hết vọng tưởng thì tánh giác hiện tiền không
cần gì thêm nữa cả. Nhưng chẳng mấy người có lòng tin. Ða số là đều mong
phiền não để có thêm cái gì khác, không ngờ hết tình phàm (vọng tưởng) thì
ngay đó là thánh. Vì mầm sinh tử luân hồi hết thì đó là đạo giải thoát, là
chỗ thiết yếu mà Ngài Ðạo Ngộ chỉ dạy.
Ngài Triệu Châu ngộ đạo nơi Ngài Nam Tuyền, ngộ ngay chỗ Tâm bình thường
là đạo nên sau nầy Ngài cũng dạy như thế. Có vị tăng hỏi:
-Thế nào là Phật?
Sư bảo:
- Ở trong điện.
- Trong điện đâu phải bùn đất đắp thành tượng.
- Phảì.
- Thế nào là Phật?
- Ở trong điện.
- Con mê muội xin thầy chỉ dạy.
- Ăn cháo xong chưa?
- Ăn cháo xong.
- Rửa bát đi.
Tăng nhơn đây đại ngộ.
Tăng muốn biết Thế nào là Phật? được Triệu Châu chỉ Ở trong điện, Ngài chỉ
Phật tánh không rời thân năm uẩn (ở trong điện), thế mà tăng không nhận
ra, khởi tâm so lường rằng Phật ở trong hiện được đắp bằng bùn đất, chỉ là
tượng vô tri để thờ, không phải là Phật mà tăng muốn biết. Ngài Triệu Châu
nói Phải là Ngài xác nhận nơi thân năm uẩn có tánh giác, chớ không phải là
tượng Phật trên bàn. Thế mà tăng không hội ý lập lại câu hỏi Thế nào là
Phật. Dò đến đây Ngài vẫn đáp Ở trong điện.Tăng vẫn không hỏi, bèn thưa :
Con mê muội xin thầy chỉ dạy. Ngài hỏi Ăn cháo chưa?, tăng đáp Ăn cháo
xong. Ngài bảo Rửa bát đi, tăng nhơn đây mới đại ngộ. Vậy tăng ngộ cái gì?
Cái ngộ của vị tăng nầy có khác cái ngộ của Ngài Sùng Tín không? Ở trước,
dâng trà thì tiếp, dâng cơm thì nhận, xá lui ra thì gật đầu, ở đây ăn cháo
xong thì rửa bát. Có phải thân tùy duyên sinh hoạt mà hành động, tuy nhiên
tâm vẫn bình thường? Chư Tổ chỉ dạy nhau là chỉ dạy cái mà chính mình đã
nhận được từ nơi ông thầy là Tâm bình thường, song mỗi người có mỗi thuật
độc đáo riêng, người căn cơ thấp kém khó mà biết được. Tại sao hỏi Ăn cháo
xong chưa, rồi bảo Rửa bát đi, mà lại ngộ đạo, vậy ngộ ở chỗ nào? Sau
Thiền sư Hoàng Trí có làm tụng để ca ngợi chỗ nầy :
Chúc bãi linh giao tẩy bát bồn
Hoát nhiên tâm địa tự tương phù
Như kim tham khảo tùng lâm khách
Thả đạo kỳ gian hữu ngộ vô
Dịch
Cháo xong liền dạy rửa bát tô
Bỗng nhiên tâm địa tự tương phù
Hiện nay là khách tùng lâm củ
Hãy nói khoảng nầy có ngộ không?
Thật là xuất cách, người vào đạo với tâm thao thức thiết tha cầu Phật, nên
khi hỏi Ăn cháo xong chưa? Thưa Ăn cháo xong . Lại bảo Rửa bát đi, liền
ngộ đạo. Nếu là người không thao thức thiết tha cầu Phật, dù cho dùng
phương tiện thiện xảo thế mấy để chỉ, cũng vẫn là kẻ dung thường không
thấy được lý đạo.
Ăn cháo xong, rửa bát có phải là bình thường mặc tánh tiêu dao tùy duyên
phóng khoáng không? Nếu thông đoạn trước đến đây chúng ta không thấy lạ.
Ngài Ðộng SơnThủ Sơ, khi còn là một Thiền khách, đến tham vấn nơi Ngài Vân
Môn, Ngài Vân Môn hỏi :
_ Ông vừa rời chỗ nào?
Thủ Sơ thưa :
-Rời Tra Ðộ
Vân Môn hỏi :
- Mùa hạ rồi ở đâu?
Thủ Sơ đáp:
-Ở chùa Báo Ân ở Hồ Nam.
Vân Môn hỏi:
-Rời nơi ấy lúc nào?
Thủ Sơ đáp:
-Ngày 25 tháng 8
Vân Môn bảo: Tha ông ba gậy, đến nhà tham thiền đi.
Ðươc hỏi Thủ Sơ đáp một cách thật thà không một chút điêu ngoa, tại sao
Ngài Vân Môn nói Tha ông ba gậy rồi bảo xuống nhà thiền? Thủ Sơ có lỗi gì?
Thủ Sơ thắc mắc hôm sau đi thẳng vào nhà thất ngài Vân Môn thưa:
-Hôm qua nhờ ơn Hòa Thượng tha ba gậy, con không biết lỗi tại chỗ nào?
Vân Môn bảo:
-Cái túi cơm: Giang Tây, Hồ Nam liền thế đấy!
Ngay câu nói nầy sư đại ngộ.
Vân Môn quở Thủ Sơ là cái túi cơm. Giang Tây là chỗ hoằng hóa của Mã Tổ,
Hồ Nam là chỗ hoằng hóa của Thạch Ðầu. Liền thế ấy là sao?
Hỏi Ở đâu, thưa Ở Tra Ðộ, hỏi mùa hạ rồi ở đâu, thưa Ở chùa Báo Ân tại Hồ
Nam, hỏi Rời nơi ấy lúc nào, thưa Ngày 25 tháng 8. Sự việc ấy có phải là
bình thường không? Hỏi đâu đáp đó rõ ràng không suy nghĩ không phải tâm
bình thường là gì? Ngài Vân Môn muốn làm dậy sóng nên nói Tha ông ba
gậy.Thuật khai ngộ của Ngài Vân Môn quá kỳ đặc, Ngài nói Tha ông ba gậy
làm cho Thủ Sơ băn khoăn thắc mắc không biết mình có lỗi chỗ nào? Nên hôm
sao đến phương trượng hỏi, khi hỏi bị quở Cái túi cơm! Ngài Vân Môn chê
Thủ Sơ không thông minh, giống như cái túi cơm vậy; Mã Tổ (Giang Tây),
Thạch Ðầu (Hồ Nam) cũng dạy cái bình thường ấy thôi. Ngay đó Thủ Sơ ngộ
đạo. Chính nhờ cái thuật làm dậy sóng đó của Ngài Vân Môn mà Thủ Sơ mới
nhận ra cái Chân thật bình thường sẵn có nơi chính mình. Các Thiền sư đâu
có dạy điều gì khác; các Ngài chỉ thẳng cái chân thật cho chúng ta trong
mọi sinh hoạt, không dấy niệm nghĩ suy là đạo là tâm bình thường là Phật.
Vậy người nào không có cái đó? Ai cũng có mà không dám nhận.
Sa di Cao hầu chuyện với Ngài Dược Sơn, qua những câu đáp, Ngài biết đó là
một sa di xuất cách, nên mới khoe với các đệ tử lớn như Vân Nham, Ðạo Ngộ.
Hai vị nầy tỏ ra chưa tin nên Ngài mới hỏi lại sa di Cao:
-Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi có biết chăng?
Sư thưa:
-Nước con an ổn.
Dược Sơn hỏi thêm:
-Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?
Sư dáp:
-Chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được.
Dược Sơn hỏi:
-Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi sao chẳng được?
Sư đáp:
-Chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận
Ngài Dược Sơn nói: Ta nghe ở Trường An (Thủ đô nhà Ðường) rất náo loạn,
ngươi có biết chăng?. Sa di trả lời Nước con an ổn. Nghe tiếng động bên
ngoài ồn ào là náo, thấy kẻ qua người lại lộn xộn là loạn. Khi hỏi Ta nghe
Trường An náo loạn ngươi biết chăng? Ngài Dược Sơn muốn hỏi sa di Cao có
thấy nghe náo loạn bên ngoài không? Ðó là cái bẩy dọ dẫm coi sư đang chạy
theo cảnh bên ngoài hay hằng sống với tánh thấy tánh nghe chân thật của
mình. Sa di Cao trả lời Nước con an ổn. Người qua lại xôn xao mà tánh thấy
của sa di Cao không xôn xao, tiếng động ồn ào mà tánh nghe của sa di Cao
không ồn ào. Náo loạn là chuyện bên ngoài chớ tánh thấy tánh nghe của Sư
không động không loạn. Sư trả lời như thế chứng tỏ Sư hằng nhớ cái chẳng
động của mình mà không để tâm chạy theo ngoại trần. Nếu được hỏi có nghe
náo loạn không. Trả lời có nghe náo loạn là người đã để tâm duyên theo
cảnh vật bên ngoài mà quên cái không động hằng hữu nơi chính mình. Như
vậy, để thấy người xưa muốn trắc nghiệm người tham học còn vọng ra ngoại
trần hay hằng sống với cái chân thật của chính mình. Chỉ nêu câu hỏi, qua
câu trả lời thì biết người ấy thế nào? Qua câu trả lời của sa di Cao, Dược
Sơn chấp nhận ngay.Tuy thế,Vân Nam và Ðạo Ngộ vẫn chưa tin, Ngài Dược Sơn
mới trắc nghiệm thêm : Ngươi do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi
được? Nếu trả lời do xem kinh hay do thầy chỉ bảo thì cái đó từ bên ngoài
mà được. Tánh thấy tánh nghe là cái chân thật có sẵn nơi mọi người, âu đợi
xem kinh mới có hay do thầy dạy mới được. Nên Sư trả lời Chẳng do xem kinh
được cũng chẳng do thưa hỏi được. Mới nghe qua như phủ nhận công ơn chỉ
dạy của Thầy Tổ, nhưng lẻ thật là như vậy, Thầy Tổ chỉ là người khơi dậy,
đánh thức để chúng ta xoay lại nhận ra cái chân thật đã có sẵn nà từ lâu
nay chúng ta bỏ quên. Ngài Dược Sơn hỏi tiếp Có lắm người chẳng xem kinh
chẳng thưa hỏi sao chẳng được? Ðể xác định lần nữa, Ngài Dược Sơn bẻ lại
Ông nói chẳng do xem kinh chẳng do thưa hỏi được, vậy biết bao người không
xem kinh không thưa hỏi sao chẳng được? Sư đáp Chẳng nói họ không được,
chỉ vì không thừa nhận đó thôi. Ai cũng có sẵn cái tánh biết chân thật, mà
vì không chịu nhận nên coi như không được.Ðược hay không được là do biết
thừa nhận hay không thừa nhận; nên biết thừa nhận thì tự tại giải thoát,
còn không thừa nhận thì chạy theo ngoại cảnh phiền não khổ đau mãi trong
luân hồi sanh tử.
Trong pháp hội của Ngài Tử Hồ có trên 500 tăng chúng Một hôm
giữa đêm. bỗng Ngài la to:
-Ăn trộm, ăn trộm
Chúng kéo nhau chạy đến, Ngài chụp ôm một vị tăng đến đầu tiên nói:
-Bắt được rồi.
Vị tăng bị bắt hoảng hốt thưa:
-Dạ con, không phải, không phải.
Ngài nói:
-Phải, phải, chỉ tại ông không dám nhận thôi.
Trong pháp hội cả 500 người ai cũng có cái chân thật mà không dám nhận,
buộc lòng Ngài phải dùng phương tiện kỳ đặc chụp ôm một vị tăng la to là
ăn trộm. Tăng đính chánh Dạ con, chớ không phải ăn trộm. Ngài nói Phải,
phải, chỉ ông không dám nhận thôi. Tăng nói Không phải là không phải ăn
trộm. Ngài nói Phải, phải là chỉ cho mọi người ai cũng có sẵn tánh giác
chân thật. Trò nói không phải, thầy nói phải, phải, nghe như cùng đối đáp
nhau, nhưng ý hai bên thật là khác xa muôn dặm. Hình ảnh thầy chụp trò nói
là ăn trộm, trò đính chính dạ con, chớ không phải ăn trộm. thầy khẳng định
phải, phải, tại ngươi không dám nhận thôi. Thật là thủ thuật quá kỳ đặc
nói lên lòng từ bi đáo để bao giờ chúng ta quên được.(tr.257 - 268)
2). THIỀN Dzogchen (Tạng Thư Sống Chết)
Sự thực tập tu luyện
Dzogchen được mô tả là Kiến, Thiền, Hành. Thấy được một cách trực tiếp
trạng thái tuyệt đối, cảnh hay nền tảng của bản thể chúng ta - tự tánh,
tánh bản nhiên - đó là Kiến; cái cách để làm cho cái thấy ấy không gián
đoạn gọi là Thiền; và hội nhập cái thấy ấy vào
trong toàn thể thực tại và cuộc đời chúng ta, gọi là Hành.
a). KIẾN: Vậy Kiến là gì? Ðấy là thấy được thực trạng của vạn pháp như nó
là, đây là biết được rằng bản tánh thực của tự tâm cũng là bản tánh thực
sự của sự vật, và đây là chân lý tuyệt đối. Dudjom Rinpoche nói: Kiến là
sự bao gồm của trạng thái tĩnh thức sơ nguyên, trong đó mọi sự được chứa
đựng: nhận thức giác quan và hiện tượng bên ngoài, sinh tử và niết bàn.Sự
tĩnh thức ấy có hai khía cạnh: Không là cái tuyệt đối, và Tướng hay nhận
thức là cái tương đối. Ðiều nầy muốn nói lên rằng toàn thể lãnh vực tướng
có thể hiện ra, và tất cả hiện tượng trong mọi thực tại khác nhau, dù sinh
tử hay niết bàn, tất cả vẫn luôn luôn và sẽ mãi mãi toàn vẹn, đầy đủ trong
bầu trời bao la của tự tánh tâm. Nhưng mặc dù tinh túy của vạn pháp là
trống rỗng, và thanh tịnh từ khởi thủy, bản chất của nó vẫn đầy đủ đức
tính cao quý và sung mãn mọi khả năng. Ðó là một môi trường sáng tạo vô
biên năng động không ngừng nghỉ và luôn luôn tự nhiên toàn hảo.
Bạn có thể hỏi: Nếu trực nhận cái thấy ấy là chứng ngộ bản tâm, thế thì
bản tâm là gì? Hãy tưởng tượng một bầu trời trống rỗng bao la, trong sáng
từ khởi thủy, tinh túy (Thể) của nó là như thế. Hãy tưởng tượng một mặt
trời sáng, trong, không bị mây che, hiện diện một cách tự nhiên:
Bản chất (Tướng) của nó như thế. Hãy tưởng tượng mặt trời ấy chiếu ra một
cách vô tư trên tất cả người và vật, đi vào mọi hướng; năng lực (Dụng) của
nó, biểu hiện của tâm đại bi - là như thế -không gì làm chướng ngại nó
được, và nó thâm nhập tất cả...
b). THIỀN: Thế thì Thiền định trong Dzogchen nghĩa là gì? Ðấy chỉ là an
trú trong Kiến không xao lãng, một khi đã được khai thị. Dudjom Rinpoche
mô tả : Thiền là trú tâm vào trạng thái Tâm bản lai (Rigpa), không hết
thảy mọi tạo tác của Tâm, trong khi hoàn toàn buông xả, không xao lảng
cũng không bám víu. Vì người xưa đã nói rằng Thiền không phải là nỗ lực,
mà tự nhiên thấm vào trong đó.
Toàn thể mục đích của Thiền trong pháp Dzogchen là tăng cường và an trú
trạng thái tâm bản nhiên (Rigpa), khiến cho nó phát triển toàn vẹn. Cái
tâm bình thường theo tập quán, đầy những dự phóng, thật là mảnh liệt vô
cùng. Nó cứ luôn luôn trở lại, và tóm lấy ta một cách dễ dàng, khi ta
không chú ý hoặc xao lãng. Dudjom Rinpoche thường nói : Bây giờ tâm bản
nhiên (Rigpa) của ta như một hài nhi bé bổng bị mắc kẹt trên một bãi chiến
trường vọng tưởng nổi lên rất mạnh. Tôi muốn nói rằng chúng ta khởi sự
công việc giữ em, giữ cái tâm bản nhiên ở trong môi trường bảo đảm của
Thiền định Tinh yếu của hành Thiền Dzogchen được đề ra trong bốn điểm như
sau:
--Khi một niệm quá khứ đã chấm dứt mà niệm vị lai chưa sanh, trong khoảng
hở đó giữa hai niệm, có phải là có một ý thức về thực tại, mới mẻ, nguyên
sơ, không bị thay đổi một tơ tóc khái niệm nào, thuần là một sự tĩnh giác
nguyên vẹn hay không? Ðấy! Tâm bản nhiên là thế đấy!
--Tuy nhiên nó không ở mãi trạng thái như vậy, bởi vì một niệm khác lại
khởi lên, phải không?
Ðấy là ánh sáng chiếu ra của Tâm bản nhiên.
--Nhưng nếu bạn không nhận ra niệm ấy đúng như bản chất nó (nghĩa là khi
có tâm, thì tự nhiên có ý tưởng nổi lên -DG) ngay khi nó khởi, thì nó sẽ
trở thành một ý tưởng khác, như trước. Ðây gọi là dây chuyền vọng tưởng,
và là nguồn gốc của sinh tử.
-- Nếu bạn có thể nhận chân được bản chất thật sự của ý tưởng (niệm) ngay
khi nó khởi lên, và cứ để yên nó đừng theo đuổi thêm, thì bất cứ ý tưởng
nào khởi lên đều tự động tan trở lại vào trong khoảng bao la của tâm bản
nhiên, và được giải thoát.
Có lẻ điểm quan trọng nhứt là Dzogchen trở thành một dòng liên tục của tâm
bản nhiên như một con sông chảy liên tục ngày đêm không gián đoạn. Dĩ
nhiên đây là trạng thái lý tưởng, vì sự an trú vào Kiến một cách không xao
lãng ấy, sau khi được khai thị và nhận chân --chính là phần thưởng của
nhiều năm tu tập kiên trì.
Giả sử bạn thấy mình ở trong trạng thái yên lặng sâu xa, thông thường
trạng thái ấy không kéo dài, một ý niệm,một chuyển động luôn luôn khởi
lên, như sóng trong biển. Ðừng chối bỏ sự chuyển động hay đặc biệt ôm lấy
sự yên tĩnh, mà cứ tiếp tục dòng hiện trú thuần túy ấy của tâm bạn. Trạng
thái an bình lan khắp của Thiền định ấy chính là tâm bản nhiên,mọi sự khởi
lên trong tâm không gì khác hơn là tâm ấy chiếu ra. Ðây là trái tim, là
nền tảng của pháp hành thiền Dzogchen. Một cách để tưởng tượng điều nầy
là, như thể bạn đang cởi trên tia mặt trời để trở về mặt trờI. Bởi theo
dỏi ngay những niệm khởi trở về căn nguyên của chúng, nền tảng tâm bản
nhiên. Khi bạn thể hiện sự bền vững của Kiến, thì bạn không còn bị đánh
lừa và chia trí bởi bất cứ gì sanh khởi, và do đó không thể làm mồi cho
vọng tưởng.
Dĩ nhiên trong biển có sóng to, sóng nhỏ, có những cảm xúc mạnh kéo đến
như giận dữ, dục vọng, ganh tị. Hành giả thực thụ sẽ nhận chân những thứ
nầy không phải quấy rầy hay chướng ngại, mà cơ hội lớn. Phản ứng lại mhững
sinh khởi như thế với khuynh hướng thông thường là chấp nhận và chối bỏ
chính là những dấu hiệu chứng tỏ không những bạn chia trí, mà còn không
nhận ra được, và đã mất dấu Tâm bản nhiên. Phản ứng lại cảm xúc bằng cách
đó thì chỉ làm cho chúng có thêm năng lực, và trói buộc chúng ta chặt chẻ
hơn vào dây xích vọng tưởng. Bí quyết lớn của Dzogchen là nhìn suốt những
cảm xúc khi chúng khởi lên, để thấy mặt thực của chúng là biểu hiện sống
động như điện chớp của chính năng lực Rigpa, Tâm bản nhiên. Khi bạn tập
dần cách làm nầy, thì ngay cả những cảm xúc rầy rà nhứt cũng không thể tóm
lấy bạn, mà tan biến như sóng lớn dậy lên rồi lùi lại chìm vào đại dương
yên tĩnh.
Hành giả khám phá - và đây là một cái nhìn đảo lộn, mà sự vi tế và năng
lực của nó không thể suy lường - rằngkhông những cảm xúc mạnh không thể
kéo bạn đi,lôi bạn trở lại vào dòng nước xoáy của sự thác loạn trong
bạn,mà chúng có thể thực sự hữu ích để đào sâu, làm mạnh thêm tăng cường
Rigpa, trạng thái Tâm bản nhiên. Năng lực vũ bão trở thành nguyên liệu để
nuôi dưỡng cái năng lượng đã được đánh thức của tâm bản nhiên. Cảm xúc
càng mạnh, càng bốc lửa, thì trạng thái tâm bản nhiên càng được tăng
cường. Tôi thấy rằng phương pháp độc đáo nầy của Dzogchen có mảnh lực ghê
gớm để giải tỏa ngay những vấn đề tâm lý và cảm xúc đã ăn sâu, thâm căn cố
đế.
* * *
Bây giờ tôi đưa ra cho bạn một lối giải thích giản dị về tiến trình nầy
hoạt động ra sao. Ðiều nầy sẽ vô giá về sau, khi ta xét đến những gì xảy
ra vào lúc chết.
Trong Dzogchen, bản chất nội tại tự nhiên của mọi sự gì là Ánh sáng căn
bản hay Ánh sáng mẹ. Nó lan khắp lãnh vực kinh nghiệm của chúng ta, và bởi
thế cũng là bản chất nội tại của những tư tưởng và cảm xúc khởi lên trong
tâm ta nữa, mặc dù chúng ta không nhận ra điều đó. Khi bậc thầy khai thị
cho chúng ta bản chất chân thật của tâm, tức là trạng thái Rigpa hay Tâm
bản nhiên, thì điều ấy giống như thầy cho ta một cái chìa khóa. Trong
Dzogchen chúng ta gọi chìa khóa ấy--sẽ mở cho chúng ta đến tri kiến toàn
vẹn --là Ánh sáng đạo lộ hay Ánh sáng con.Ánh sáng căn bản và Ánh sáng đạo
lộ thực ra chỉ là một, nhưng vì mục đích giảng dạy mà phân ra như thế
Nhưng một khi có được chìa khóa Ánh sáng đạo lộ nhờ sự khai thị của bậc
thầy, thì ta có thể sử dụng nó tha hồ để mở vào cánh cửa Bản tánh tự nhiên
của thực tại --sự mở cửa nầy được gọi theo Dzogchen là Gặp gở giữa Ánh
sáng căn bản và Ánh sáng đạo lộ hay Mẹ con gặp gở. Một cách nói khác là,
vừa khi một ý tưởng hay cảm xúc khởi lên, Ánh sáng đạo lộ-Rigpa- nhận ra
ngay bản chất của nó, tính nội tại của nó, là Ánh sáng căn bản. Trong giây
phút nhận ra nhau ấy, hai ánh sáng tan hòa vào nhau, tư tưởng và cảm xúc
được giải phóng ngay tại nền tảng của nó. Ðiều cốt yếu là kiện toàn sự tập
luyện hội nhập hai Ánh sáng nầy và giải tỏa những móng tâm động niệm ngay
khi đang sống, bởi vì điều nầy xảy ra vào lúc chết, với tất cả mọi người
là : Ánh sáng căn bản xuất hiện trong vẻ huy hoàng rộng lớn, và mang theo
nó một cơ hội để giải thoát hoàn toàn--nếu, và chỉ nếu, làm thế nào để
nhận ra nó.
Danh từ duy nhứt có thể diễn đạt được cái nầy là Không-Thiền. Trong trạng
thái ấy, theo lời các bậc thầy, dù bạn có đi tìm vọng tưởng cũng không còn
sót lại cái nào. Cho dù bạn muốn kiếm một hòn sỏi bình thường trên một hòn
đảo vàng ngọc, thì bạn cũng không cách nào tìm được. Khi Kiến đã hiện diện
liên tục, dòng tâm bản nhiên không gián đoạn, sự hòa nhập hai Ánh sáng là
tự nhiên, liên tục, thì mọi vọng tưởngkhả hữu đều được giải tỏa ngay tại
gốc của nó, và toàn thể nhận thức của bạn khởi lên liên tục là tâm bản
nhiên.
Những bậc thầy nhấn mạnh rằng muốn ổn định được Kiến trong thiền định,
điều cốt yếu trước hết là hoàn tất sự luyện tập nầy trong một khung cảnh
đặc biệt của nhập thất, ở đây mọi điều kiện thuận lợi đều sẵn có. Còn ở
giữa sự tán loạn rộn ràng của thế gian, thì dù bạn có thiền bao nhiêu,
kinh nghiệm thực thụ cũng không phát sinh được trong tâm bạn.
Thứ hai, mặc dù trong Dzogchen không có sự khác biệt giữa thiền và đời
sống thường nhựt, song khi bạn chưa có được sự an trú vững vàng nhờ thiền
tập vào những thời khóa hẳn hòi, thì bạn không thể nào hội nhập tuệ giác
của thiền định vào kinh nghiệm hàng ngày. Thứ ba, ngay cả khi bạn thực
hành, bạn có thể an trú dòng tương tục Tâm bản nhiên với niềm tin của
Kiến. Nhưng nếu bạn không thể tiếp tục dòng ấy vào mọi lúc và mọi tình
huống, hòa lẫn sự tu tập với đời sống hàng ngày của bạn,thì nó sẽ không
làm phương thuốc cứu bạn được, mỗi khi hoàn cảnh khó chịu nổi lên, và bạn
sẽ bị ý tưởng, cảm xúc dẫn cho lạc vào mê vọng.
Có câu chuyện thú vị về một hành giả Dzogchen sống không khoe khoang,
nhưng lại có một đám đông đồ đệ. Có một ông thầy tu rất kiêu hảnh về học
vấn đa văn của mình, đâm ra ganh tị với hành giả mà ông biết là không đọc
sách nhiều. Ông ta nghĩ: Sao một người tầm thường như thế dám dạy đệ tử?
Sao y dám tự xưng thầy? Ta sẽ đến thử tri kiến của y, cho lộ cái giả dối
của y, và làm nhục y trước mặt đệ tử, để bọn nầy bỏ mà theo ta. Bởi vậy y
đến viếng vị hành giả, và hỏi với vẻ khinh miệt : Này đồng bạn Dzogchen,
có phải ông chỉ có thiền mà thôi không?
--Thế thì ông không thiền định gì cả sao?
Vị hành giả trả lời một câu bất ngờ:
--Có gì để thiền?
--Thế thì ông không thiền định gì cả sao? vị học giả nói một cách đắc
thắng.
--Nhưng có bao giờ tôi tán loạn đâu?, vị hành giả đáp.
c). HÀNH: Khi sự an trú trong Tâm bản nhiên trở nên một thực tại, thì bắt
đầu thấm nhuần sự sống hàng ngày của hành giả, nuôi dưỡng một sự ổn định,
và niềm tin sâu xa. Dudjom Rinpoche nói:
-Hành có nghĩa là thật sự ngấm nhìn những ý tưởng của chính bạn, xấu hay
tốt, nhìn suốt bản chất thật sự của bất cứ ý tưởng nào có thể khởi lên,
không truy tầm quá khứ cũng không mời mọc tương lai, không để cho tâm bám
víu vào một kinh nghiệm hạnh phúc, cũng không để cho nó tràn ngập những
tình cảm đau buồn. Khi làm như vậy, bạn cố đạt đến và an trú trong đại xả,
trong đó mọi tốt xấu, an nguy đều không có lai lịch gì chân thực.
Sự trực ngộ Kiến một cách tinh vi toàn triệt, sẽ thay đổi cái nhìn của bạn
đối với sự vật. Càng ngày tôi càng nhận rõ rằng chính ý tưởng và khái niệm
đã ngăn cản không để cho chúng ta luôn an trú trong tuyệt đối. Bây giờ tôi
mới hiểu vì sao thầy tôi dạy :Hãy cố gắng đừng tạo ra quá nhiều hy vọng
hay lo sợ vì chúng chỉ tổ gây thêm sự bám víu trong tâm. Khi Kiến có mặt,
thì những ý tưởng được nhìn thấy đúng như bản chất chúng,đó là phù du,
trong suốt, và chỉ có tính cách tương đối. Bạn thấy suốt mọi sự một cách
trực tiếp như thể là bạn có con mắt X-quang. Bạn không bám víu cũng không
xua đuổi những ý tưởng cảm xúc, mà chào tất cả chúng trong vòng ôm lớn
rộng của Tâm bản nhiên. Những gì mà trước đây bạn coi là rất quan
trọng--những tham vọng, kế hoạch, mong đợi, hoài nghi, đam mê--không còn
khống chế bạn một cách sâu xa nữa, vì chánh kiến đã giúp bạn thấy được cái
trống rỗng, phi lý của tất cả chúng nó, nhờ vậy phát sinh trong bạn một
tinh thần từ bỏ thật sự.
An trú trong niềm tin và ánh sáng của Tâm bản nhiên làm cho ý tưởng cảm
xúc bạn được giải tỏa một cách tự nhiên không cần nỗ lực, vào trong không
gian rộng lớn của Tự Tính Tâm, giống như là viết chữ trên mặt nước hay vẽ
trên nền trời. Nếu bạn thật sự tu tập như thế đến chỗ toàn vẹn, thì nghiệp
không còn cơ hội để tích lũy, và trong trạng thái buông xả hoàn toàn ấy,
định luật nhân quả trong vòng nghiệp báo không còn cách nào trói buộc bạn.
Ðừng tưởng điều dễ. Thật vô cùng gây go để an trú không xao lãng trong tự
tánh của tâm, dù chỉ trong chốc lát, chứ đừng nói giải tỏa một ý niệm hay
cảm xúc ngay khi nó sinh khởi. Chúng ta thường cho rằng chỉ vì mình hiểu
được một điều gì trên phương diện tri thức, hoặc tưởng mình đã hiểu, mà
việc ấy có nghĩa rằng mình đã thật sự đạt ngộ. Ðấy là một ảo tưởng lớn
lao. Cần phải có sự lắng nghe, tư duy, quán tưởng, thiền định và thực hành
kiên trì. Và nhứt là thực hành Dzogchen luôn luôn cần sự hướng dẫn và khai
đạo của một bậc thầy đủ tư cách.
Nếu không, thì sẽ có một mối nguy mà truyền thống nầy gọi là Kiến nuốt mất
Hành. Một giáo lý cao siêu mảnh liệt như Dzogchen kéo theo một nguy cơ
trầm trọng. Khi tự lừa dối mình --tưởng mình đã giải thoát hết tư tưởng
cảm xúc, mà kỳ thực tuyệt nhiên bạn chưa có khả năng làm chuyện ấy; hoặc
tưởng mình đang hành động một cách tự nhiên như thiền sư Dzogchen thực thụ
--thì bạn chỉ có đang kết nạp,tích lũy vô số ác nghiệp. Như Padmasambhava
nói, và điều nầy chúng ta đều nên có, là:
-Mặc dù Kiến ta bao la như bầu trời, mà hành động và niềm tôn kính đối với
nhân quả nơi ta nhỏ nhiệm, vi tế như hạt bụi.
Ngay trong một hành giả Dzogchen cao cấp nhất, nỗi buồn niềm vui hy vọng
sợ hải vẫn còn nổi lên như trước. Cái khác nhau giữa một người thường với
một hành giả là cái cách họ nhìn cảm xúc của họ và phản ứng đối với những
cảm xúc đó. Một người thường sẽ theo bản năng mà chấp nhận hay chối bỏ
ngay những cảm xúc, và thế là khơi dậy ràng buộc hoặc chán ghét, kết quả
là tích lũy thêm ác nghiệp. Nhưng một hành giả Dzogchen thì nhận ra mọi sự
khởi lên trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó, không để cho sự chấp
thủ khởi lên trong nhận thức của mình.
Dilgo Khientse Rinpoche mô tả một hành giả lang thang qua một khu vườn.
Ông hoàn toàn tĩnh giác trước vẻ đẹp huy hoàng của những đóa hoa, thưởng
thức màu sắc, hình dáng, mùi hương của chúng. Nhưng không có một dấu vết
nào của sự bám víu ở nơi ông, hay bất cứ một hậu ý nào trong tâm. Như
Dudjom Rinpoche nói:
-Bất cứ nhận thức gì khởi lên, bạn hãy nên làm như một đứa trẻ đi vào một
ngôi chùa trang hoàng lộng lẫy. Nó nhìn mà sự bám víu tuyệt nhiên không đi
vào nhận thức của nó. Cứ thế bạn để mọi sự ở nguyên trong trong trạng thái
mới mẻ, tự nhiên, sống động,, vô nhiễm của nó. Khi bạn để mọi sự ở nguyên
trạng thái nó, thì hình dáng nó không thay đổi, màu sắc không phai nhạt,
vẻ sáng sủa của nó không biến mất. Bất cứ gì xãy đến không bị ô nhiểm bởi
chấp thủ nào, bởi thế tất cả gì bạn thấy đều khởi lên như là trực giác
trần tục của ( Rigpa ) Tâm bản nhiên, và vốn là sự bất khả phân của ánh
sáng và hư không.
Sự hài lòng, tin tưởng, sự trong sáng khoáng đạt, sức mạnh và tính hài
hước sâu xa, niềm xác tính khởi lên do sự trực nhận chánh kiến về Tâm bản
nhiên, là kho tàng vĩ đại nhất của cuộc đời, là hạnh phúc tối thượng, mà
một khi đã đạt đến, thì không có gì phá hủy, ngay cả cái chết.
Dilgo Rinpoche nói:
-Một khi bạn đã có chánh kiến, thì dù cho những nhận thức lừa dối của sinh
tử vẫn còn khởi lên trong tâm, bạn vẫn như bầu trời: khi một cầu vòng xuất
hiện trước mặt, nó cũng không lấy làm hãnh diện, mà khi mây mù xuất hiện,
nó cũng không lấy làm buồn bực. Có một cảm giác sâu xa về sự hài lòng. Bên
trong bạn cười thầm khi thấy mặt tiền của niết bàn và sinh tử. Chánh kiến
làm cho bạn luôn luôn vui vẻ, một nụ cười hàm tiếu luôn nở trong tâm.
Duljom Rinpoche nói:
- Khi đã thanh lọc ảo tưởng lớn, bóng đen của tâm thức, thì tia sáng của
mặt trời không bị ngăn bít cứ liên tục chiếu ra. (tr.218 - 237)
IV. CÁI CHẾT CỦA SỰ SỐNG TỰ TẠI
1).- Hành Trì Cho Người Sắp Chết : (Tạng Thư Sống Chết)
Toàn thể thái độ của đạo Phật đối với lúc chết có thể tóm tắt trong đoạn
thơ sau của Padmasambhava trong Tử Thư Tây Tạng:
Khi Trung Ấm chết xuất hiện
Tôi sẽ từ bỏ mọi chấp thủ, khát khao, lưu luyến
Thể nhập không tán loạn vào minh sát giáo lý
Và chiếu tâm tôi vào trong không gian của tự tánh vô sanh
Khi xả cái thân do máu thịt tập hợp này
Tôi sẽ biết nó chỉ là phù du mộng huyễn.
Ðức Dalai Lama giải thích:
=Vào lúc chết, những thái độ ta đã quen thói từ lâu thường thắng lướt để
hướng dẫn tái sanh. Cũng vì lý do nầy, sự chấp thủ mảnh liệt đối với tự
ngã được phát sinh, vì người ta sợ tự ngã mình đang biến mất, Sự chấp thủ
nầy là dây nối ở khoảng giữa hai đời sống. Ước muốn có một thân xác mới là
cái nhân để tạo ra thân Trung Ấm.
Có ba pháp hành trì cho sự chết:
a) Tốt nhất là an trú trong tự tánh tâm, hay gợi lên tâm yếu của sự tu
tập.
b) Kế tiếp pháp chuyển di tâm thức;
c) Cuối cùng, dựa vào năng lực của cầu nguyện, sùng kính, nguyện lực và
ân sủng của các bậc giác ngộ;
Những hành giả thượng tặng về Dzogchen đã hoàn toàn trực nhận tự tính tâm
trong suốt đời họ, nên khi chết, họ chỉ cần tiếp tục an trú trong trạng
thái Rigpa, khi làm cuộc chuyển tiếp qua sự chết.Họ không cần chuyển di
tâm thức vào một vị Phật nào, hay cõi Phật nào, vì họ đã thực chứng tâm
giác ngộ của chư Phật ngay trong chính họ. Cái chết đối với họ là giải
thoát tối hậu--cao điểm của sự chứng đắc, tột đỉnh của một đời tu tập. Tử
Thư Tây Tạng chỉ có vài lời nầy để nhắc nhở một hành giả như vậy :
-Bạch Ngài, bây giờ Ánh Sáng căn bản đã lố dạng. Hãy nhận ra, và an trú
trong sự tu tập.
Người ta nói những người đã hoàn tất pháp tu Dzogchen thì chết như một hài
nhi mới sanh, không một chút lo âu quan tâm về sự chết. Họ không cần quan
tâm về chuyện họ chết lúc nào ở đâu, họ cũng không cần gì đến những lời
dạy, chỉ dẫn, hay nhắc nhở.
Những hành giả trung bình hạng nhất thì chết như hành khất trên đường.
Không ai để ý đến họ, không gì có thể quấy rầy họ. Vì họ đã tu tập vững
vàng, nên tuyệt đối không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xung quanh. Họ có thể
chết dễ dàng trong một bệnh viện bận rộn, hay ở nhà giữa một gia đình đang
tranh chấp rộn ràng. (tr.309,10,317)
2). Tự Tại Khi Chết (Tự Gia Bảo)
Người tu thiền cốt yếu được sanh tử tự tại, khi còn sống cũng như khi chết
mình hoàn toàn làm chủ. Muốn làm chủ khi chết, chính lúc còn sống mình
phải làm chủ cả thể xác lẫn tâm hồn. Như Thiền sư Ðạo Giai nói: Muốn biết
khi chết được tự tại không tự tại, chỉ xem hiện tại tự do chẳng tự do.
Tự do đây có nghĩa là mình làm chủ mình hoàn toàn, không phải tự do đối
với xã hội. Ðối với danh vọng tài sắc...không quấy nhiểu được ta, đối với
khổ vui sống chết... không phiền lụy đến ta, ta sống trong cuộc đời phồn
tạp, mà vẫn không vướng bận, như cây bá hiên ngang đứng sừng sựng giữa
trời.Trong khi sống tự tại như vậy đến lúc chết làm gì chẳng tự do. Tại
sao được như vậy? Bởi vì chúng ta đã thấy rõ cái không sanh tử trong cái
sanh tử, cái chơn thật nằm trong cái giả dối. Các Thiền sư vì sống với cái
chơn thật nên không màng đến cái giả dối, sống với cái không sanh tử nên
làm chủ được cái sanh tử. Chúng ta hãy xem cái chết của vài Thiền sư sau:
--Trước khi sắp tịch, Thiền sư Ðặng Ẩn Phong hỏi chúng Tôi thường thấy các
vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng? Chúng
thưa: Có. Sư hỏi: Có vị nào đứng lộn ngược mà tịch chăng? Chúng thưa: Chưa
từng thấy. Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn như
đứng... (Ðặng Ẩn Phong là đệ tử của Mã Tổ).
--Vua Ðường Mục Tông sai Lưỡng Nhai Tăng Lục là Linh Phụ...đến thỉnh Thiền
sư Vô Nghiệp về triều. Linh Phụ đến làm lễ thưa : Hoàng Thượng ân chỉ phen
nầy chẳng giống lúc thường, xin Hoà Thượng thuận thiên tâm, không nên nói
bịnh. Sư cười chúm chím nói: Bần đạo có đức gì làm phiền thế chủ. Mời Ngài
đi trước tôi sẽ đi đường riêng. Sư bèn tắm gội, đến giữa đêm bảo đệ tử Huệ
Âm v.v...: Các ngươi! Tánhthấy nghe hiểu biết cùng hư không đồng tuổi,
chẳng sanh chẳng diệt, tất cả cảnh giới vốn tự không lặng, không một pháp
có thật, người mê không hiểu bị cảnh làm lẫn, trôi lăn khôn cùng... Nói
xong Sư ngồi yên thị tịch.(cũng đệ tử Mã Tổ)
--Ông Bàng Long Uẩn sắp tịch, bảo con gái là Linh Chiếu ra xem mặt trời
đúng ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa : Mặt trời đã đúng
ngọ mà có nguyệt thực. Ông ra cửa xem. Linh Chiếu lên tòa của ông ngồi
kiết già chấp tay thị tịch. Ông vào xem thấy cười và nói: Con gái ta lanh
lợi quá. Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Ðến ngày thứ bảy, Châu Mục Vu Công
đến thăm, ông bảo: Chỉ mong các cái đều không, để đặt các cái không đều
thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang. Nói xong, ông nằm gối đầu trên
gối Vu Công mà tịch (cũng đệ tử Mã Tổ).
--Thiền sư Lương giới Ðộng Sơn cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh
chuông, giả từ chúng mà tịch. Ðại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư mở mắt
bảo: Người xuất gia tâm chẳng dính mắt nơi vật là tu hành chân chánh. Sống
nhọc thích chết, thương xót có ích lợi gì? Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si
để cúng dường. Chúng vẫn quyến luyến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi
thọ trai, Sư cũng theo chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng : Tăng già
vô sự, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo. Sư vào trượng thất ngồi yên tịch
(Sư dệ tử Vân Nham).
--Chỉ Y Ðạo Giả đến tham vấn Tào Sơn Bổ Tịch. Tào Sơn hỏi : Ðâu chẳng phải
Chỉ Y Ðạo Giả ư? Ðạo Giả thưa: Chả dám. Tào Sơn hỏi: Thế nào là việc của
Chỉ Y? Ðạo Giả thưa: Chiếc áo cừu vừa khoát ngoài thân, muôn pháp thảy đều
như. Tào Sơn hỏi :Thế nào là dụng của Chỉ Y? Ðạo Giả lại gần: Dạ! liền
đứng tịch. Tào Sơn bảo: Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng giỏi đến thế
ấy. Ðạo Giả mở mắt hỏi: Một chơn tánh linh khi chẳng nương bào thai thì
thế nào? Tào Sơn bảo: Chưa phải diệu. Ðạo Giả hỏi: Thế nào là diệu? Tào
Sơn bảo: Chẳng mượn! mượn! Ðạo Giả trân trọng liền tịch (Ðệ tử Ðộng Sơn).
--Một hôm Phổ Hóa ở trong chợ đến một người xin chiếc áo dài, mọi ngườI
đều cho, Phổ Hóa đều chẳng nhận. Lâm Tế dạy Viện Chủ mua chiếc quan tài.
Phổ Hóa về đến, Lâm Tế bảo: Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi. Phổ Hóa
liền tự vác đi. Phổ Hóa đi quanh phố chợ rao: Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài
rồi, tôi sang cửa Ðông tịch. Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa
bảo: Tôi ngày nay chưa tịch, ngày mai sang cửa Nam mới tịch. Như thế đến
ba ngày mọi người đều chẳng tin. Ðến ngày thứ tư không ai theo xem, một
mình Phổ Hóa tự chung vô quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin
truyền đi mọi người trong chợ đua nhau đến dở quan tài xem,không thấy thi
hài Phổ Hóa đâu, chỉ nghe trong hư không tiếng mỏ xa dần, xa dần rồi mất
(Ðệ tử Bàn Sơn).
--Thiền sư Thiện Chiêu bị Y Lý Hầu ba phen thỉnh trụ trì chùa Thừa Thiên
mà Sư không đi. Sứ giả bị phạt. Y Lý Hầu lại sai sứ đi phen nữa. Sứ giả
đến thưa: Quyết thỉnh thầy đồng đi, nếu thầy không đi tôi liền chết mà
thôi. Sư cười bảo : Bởi nghiệp già bịnh không thể xuống núi, giả sử đi có
trước sau, tại sao quyết đồng? Sứ giả thưa: Thầy chịu đi thì trước sau tùy
lựa chọn. Bảo chúng sữa soạn xong, Sư gọi chúng lại nói : Lão tăng đi có
người nào theo được? Có vị tăng thưa : Con theo được. Sư hỏi: một ngày
ngươi đi được bao nhiêu dặm. Tăng thưa: Năm mươi dặm. Sư bảo: Ngươi theo
ta chẳng được. Lại có vị ra thưa : Con theo được. Sư hỏi: một ngày ngươi
đi được bao nhiêu dặm? Tăng thưa: Bảy mươi dặm. Sư bảo, ngươi theo ta cũng
chẳng được. Thị giả ra thưa, con theo được, Hòa Thượng đến đâu con đến đó.
sư bảo, ngươi theo lão tăng được. Nói xong, Sư bảo thị giả, ta đi trước
nghe! Sư dừng lại rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo. (Sư đệ tử
Thiền sư Tĩnh Niệm dòng Lâm Tế)
Tạm dẫn bấy nhiêu đó cũng khá rườm rà rồi. Tuy nhiên đối với các Thiền sư
có những cái kỳ đặc. Song đây chẳng phải quan trọng, vì là diệu dụng. Cái
quan trọng nhất trong nhà thiền là sống được tánh giác của mình, nó mới là
bản thể. Bản thể là cái gốc, diệu dụng là cái ngọn. chỉ lo không bám được
gốc, đừng sợ mất ngọn. Khi sống được với thể giác rồi thì mỗi hành động
nào cũng là thần thông diệu dụng cả. Ông Bàng Long Uẩn với kệ:
Dịch
Nhật dụng vô biệt sự: Hàng ngày không việc khác
Duy ngộ tự ngẫu hài: Chỉ tôi tự biết hay
Ðầu đầu phi thủ xả: Vật vật chẳng lấy bỏ
Xứ xứ vật trương oai: Chỗ chỗ nào trái bày
Châu tử thùy vi hiệu: Ðỏ tía gì làm hiệu
Khưu sơn tuyệt điểm ai: Núi gò bặt trần ai
Thần thông tịnh diệu dụng: Thần thôngcùng diệu dụng
Vận thủy cập ban sài: Gánh nước bửa củi tài
Thần thông ở đây là gánh nước bửa củi,vì mọi hành động ấy đều từ thể giác
phát xuất. Chúng ta lại nghe một bà già trình thần thông.
Thiền sư Nam Tuyền, Quý Tông, Ma Cốc đi hành cước đến một cái quán của bà
lão. Quý vị kêu bà đem trà, bà bảo: Quý thầy trình thần thông rồi sẽ uống
trà.
Quý vị đưa mắt nhìn nha. Bà bảo: Quý thầy xem già nầy trình thần thông. Bà
liền tay cầm bình trà, tay bưng chung trà, nghiên rót vào chung để xuống.
Quả là thần thông trong hành động, đừng nghĩ thăng thiên độn thổ mới là
thần thông. Bởi bất cứ một tác động nào lưu xuất từ bản thể đều là diệu
dụng, khổ nỗi người ta hiện giờ chỉ trọng thần thông diệu dụng mà quên bản
thể. Vì thế nên dễ lạc vào đường tà, chính quỉ thần vẫn được ngũ thông,làm
sao giản trạch được đâu tà đâu chánh. Chỉ một bề trở về tánh giác là muôn
đời không lầm.
Tóm lại diệu dụng của người tu thiền tông là nhận ra tánh giác của chính
mình, tánh giác nầy không sanh không diệt không tướng mạo mà hằng giác.
Bởi hằng giác nên chẳng phải không, không tướng mạo nên chẳngphải có. Sống
được với tánh giác là thoát ly sanh tử, tuổi thọ tánh giác đồng với hư
không. Cho nên trong kinh nói tuổi thọ của Phật không biết bao nhiêu tính
kể. Ðạt được tuổi thọ vô lượng vô biên ấy, còn gì hạnh phúc bằng, còn gì
quí bằng. Sống vớicái vĩnh cữu chẳng sanh chẳngdiệt nầy, mới thực là đến
chỗ chân thật tuyệt đối. Còn có gì ở thế gian có thể so sánh với tánh
giác. Tánh giác nầy mới thực ta (Chơn Ngả), tánh giác không bao giờ mất
(Chơn thường), tánh giác là chơn thực hạnh phúc (Chơn lạc), tánh giác
không có gì ô nhiễm được (Chơn tịnh). Sống đến chỗ chơn ngã, chơn thường,
chơn lạc, chơn tịnh nầy, mới là điểm cứu cánh của thiền tông.
Trong khi trở về cái chơn thật thì mọi cái giả dối giảm thiểu khả năng lôi
cuốn chúng ta. Từ từ ta làm chủ lại chúng ta,điều khiển chúng theo chỗ
muốn của chúng ta.
Mọi khổ đau buồn thảm tự suy thoái, không còn là điều quan trọng đối với
chúng ta nữa. Với cái thân giả tạm, cái vọng tưởng hư ảo sắc trần không
hoa nầy, còn nghị lực gì trói buộc chúng ta được. Bởi thấy được ông chủ
thật sự của mình, mọi khách trần là trò đùa, nên Thiền sư tự tại ra đi
(tr.339-344).
---o0o---
Mục
Lục
Phần 1:
Chương 1 |
2 | 3 | 4 |
5
Phần 2:
Chương 1 |
2 | 3
|
Kết luận &
phụ trang
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Diệu Tường - Cát Tường
Cập nhật : 01-01-2003