Thực Tại và Chí Đạo
Phổ Nguyệt
---o0o---
PHẦN HAI
GIẢI THOÁT TRI
KIẾN
Nhờ có lý trí (Tàng thức) mà con người hiểu biết được vạn vật và ngay cả
tâm trí của mình. Khai ngộ là giải thoát lý trí ra khỏi kho chứa ràng buộc
nó. Tri kiến là cái giả lập của sự hiểu biết. Cái Biết mới là thực, cái Bị
Biết (Tri kiến) là không thực, là cái giả lập của cái thực.
Kant định nghĩa Khai Sáng như là một hành động lột xác: sự thoát ly ra
khỏi điều kiện vị thành niên mà con người đã tự giam mình vào, để làm
người trưởng thành--Ở Kant, vị thành niên là kẻ không có khả năng tự vận
dụng lấy lý trí mà không có sự lãnh đạo của người khác.
Cứ dám biết! Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ của chính mình. Ðó là
phương châm của khai sáng.
Ở đây cái mới của Khai Sáng là : 1) báo hiệu một kỷ nguyên tiến bộ vừa
không thể đảo ngược, vừa có tiềm năng vô hạn; 2) lấy sự tiến tới của tri
thức, và qua đó, của đời sống vật chất, làm cơ sở cho sự tiến lên của đạo
lý và xã hội--nghĩa là sự tiến bộ tinh thần của nhân loại.
(TC Triết 2, tr.12)
Giải thoát tri kiến có nghĩa là khôi phục lại cái thực tính của tri kiến,
tức là sự hiểu biết chân thật hay là chân lý tối hậu.
Vượt thoát khỏi đối tượng tìm đến tự tính của nó là đường về chân nguyên.
Lột xác tri kiến giả lập để thể hiện tri thức thực sự tức là Tri thức đúng
hay Hiểu biết chân thật. Vậy tri kiến như phương tiện hướng dẫn thực hiện.
Như ngón tay chỉ mặt trăng. Nhận thấy được mặt trăng phải vượt thoát khỏi
ngón tay, cũng như vậy, vượt thoát khỏi tri kiến mới nắm bắt được thực
tại.
Thực tại là tự tánh của sự vật. Những hình ảnh của sự vật (thức) theo thời
gian kết tựu (Tàng thức). Thời gian đi từ tự tánh của sự vật: Chơn không,
Thực tại, Thực hữu. Thực chất là chân lý thì không biến đổi. Ðã là chân lý
thì phải thường hằng, bất biến. Vì lẽ đó, cho nên ta có thể thấy lại trong
thực tại bên ngoài cái ý niệm thời gian, mà ta biết một cách tuyệt đối. Ðó
là ý niệm lại cái thực tại thì không còn là thực tại, dù trải qua một sát
na, nó chỉ là một quá khứ. Tri kiến là tâm quá khứ. Chân thể là sự trở lùi
của Sử tính Thời tính, vì thời tính là sử tính. Ấn tượng tri giác vận
chuyển nối tiếp như một dòng sông chảy xiết. Dòng nước trôi chảy liên
miên, những giọt nước không bao giờ lập lại, nhưng những giọt nước đều có
hình ảnh giống nhau; do đó dù tự thể của chúng luôn luôn sai biệt, nhưng
hình ảnh chúng không sai biệt.
Muốn dẹp bỏ tâm quá khứ là trở về giọt nước ban đầu của những giọt nước
triền miên lưu chảy mà ta đang thấy, giảm trừ thời gian từ hiện tại đến
đầu nguồn quả thật cũng là một giả vọng trong quá trình tư duy mà thôi.
Trở về nguồn của thực hữu, cái hiện đang là, cái hiện đang là đó, tức là
không có tâm quá khứ vốn mang nhiều tri kiến nặng nề, làm cho tâm hồn vẫn
đục, vọng tưởng triền miên không dứt. Ðó là ta mới giảm trừ thời gian. Còn
điểm trở ngại nữa cái tâm không thì không còn trung gian của các căn nữa.
Vượt khỏi ngũ giác quan của mình để nguyên vẹn cái tâm không trực nhận
thực hữu. Là ta đã giảm trừ không gian và thời gian, là hai yếu tố làm
chướng ngại cho cái tâm tự tại vậy. Tâm lúc bấy giờ thể nhập chốn tịch
tĩnh y nhiên. Thực tại, thực hữu chính nó là nó mà tâm thể nhập ngay lúc
ấy và tại ấy hiện tiền. Khi dùng văn ngôn để diễn tả cái ý chỉ thì thực
hữu ấy không còn là hiện hữu nữa. Giải thoát tri kiến là tiến trình tri
thức đúng về nhận thức sai lầm tri kiến giả lập, và giải thoát nó, để trở
về thực thể tức là tự tính tuyệt đối của tri kiến hay là con đường giác
ngộ. Vậy trong sự sống làm thế nào nắm bắt được chân lý tối hậu ấy? Ðó là
lối dụng công, là phương pháp thiền, là cách giải tỏa những khắc khoải của
con người trong hàng vạn thế kỷ trước khi đức Phật ra đời. Ánh sáng đuốc
tuệ đã tỏa ra, đạo pháp tuyệt vời của đức Phật đã phổ biến khắp quần sanh.
Chúng ta muốn nắm bắt chân lý tối hậu ấy, không gì bằng dùng những phương
tiện tối ưu do đức Phật đưa ra; mà trong mọi cách, theo Phổ Nguyệt, chỉ có
Trí rộng lớn vô cùng tận, tức là Trí Bát Nhã Cứu Cánh, mới có thể kham
nhẫn tiến tới giác ngộ. Chúng ta cần triển khai Trí Bát Nhã để thể hiện
đạo sống hàng ngày, bằng cách Thắp Sáng Hiện Hữu trong cái Tâm Bình Thường
là ta đã giải thoát mọi tri kiến giả lập hầu trở về Chân Tính của vạn
hữu.
CHƯƠNG MỘT
CÁI NHÌN BÁT NHÃ TÂM KINH
QUA LĂNG KÍNH THỜI KHÔNG
I. Mục Ðích-Khái Niệm Tư Duy về Thời Không
1).-Chủ Ðích :
Chủ đích của bài lý giải Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða qua Lăng Kính Thời
Không, với sự mong mỏi của Phổ Nguyệt là đưa một luồng gió mới đến quý độc
giả, một tri thức cụ thể, có thể trực nhận thực tướng của vạn pháp. Phổ
Nguyệt xin lấy bản Hán văn của Ngài Huyền Trang (đã trích) mà phân giải
quyển kinh Bát Nhã. Yếu chỉ của Bồ Tát Quán Tự Tại đã thực hành Trí Bát
Nhã thâm sâu ghi lại những điều tâm đắc và chứng đắc là để lưu truyền cho
hậu thế nương tựa tu tập. Khi trao truyền yếu chỉ cho chúng sinh hành trì,
dĩ nhiên là chúng sinh từ trạng thái chưa giác ngộ cố gắng học hỏi cho
hiểu rõ yếu chỉ của kinh và nhiệt thành thực hiện đúng đắn, ắt sẽ đạt cứu
cánh. Do đó, lập trường của Phổ Nguyệt là trình bày Trí Bát Nhã Cứu Cánh
nầy với tinh thần của một chúng sanh bình thường có trình độ một ít trí
tuệ, từ đó trao dồi, học hỏi, tu hành tiến tới trí tuệ cao hơn và đạt cứu
cánh, âu đó cũng là mục đích muốn truyền dạy của đức Phật qua tiêu đề Quán
Tự Tại.
2).- Nhận Ðịnh về Thời Không:
+ Theo ý nghĩa của của danh từ Hư không hay Không gian là cái không Không
Thật Có. Còn phân tách từ ngữ, Hư là không thật, Không là không; Hư không
là Không Thật Không. Vậy Hư không là cái không thật có, cũng là cái không
thật không. Hư không là không gian bao la vô cùng tận, cái rỗng không. Vậy
Hư không cũng là cái Thật Có hay cái Thật Không. Vậy thì :
-Cái Không Thật Có : Thể huyển hóa, giả lập
-Cái Không Thật Không: Không có Thực thể, Tánh Không
-Cái Thật Có: Thể hiện tiền, thực tại
-Cái Thật Không: Không có gì ngoài Cái Thật, Chơn Không: chỉ có Chơn, Tánh
Không, Bản tánh trong sáng thanh tịnh.
Theo Phật giáo, Hư không là Không gian, khoảng cách, không khí hay môi
trường sống. Ðó là Không đại, một trong thất đại.
Không gian là bầu dung chứa vạn hữu và cái rỗng không. Khi sự vật được
dung chứa trong không gian, Tánh Không (khối cố định chiếm khoảng không)
là hư không: Tướng Không của sự vật được giới hạn trong khoảng không của
hình dáng riêng biệt của sự vật.
+Khi khởi đầu, đứng trước Cái Chưa Là, tức cái dự phóng tương lai, vì
Tương Lai là cái không bao giờ đến. Từ cái Chưa Là, ta vừa bắt đầu Cái Trở
Nên, tức là Cái Ðang Là hay Hiện Tại. Từ Cái Ðang Là ta mới biết Cái Ðã Là
hay Quá Khứ. Ba thì đó tạo thành thời thể.
Thời gian là thực thể của Trở Nên. Thời thể trở nên Hư không khi sự vật ở
trong trạng thái thụ động tiêu cực. Trong trạng thái thụ động, sự vật tùy
thuộc vào chính nó, đó là thực tại tính của sự Trở Nên tức là tiềm năng
của Thực Hữu.
+Khi thời gian bị tiêu hủy, không gian thu hẹp ở Hữu Thể
( sự vật chiếm cứ không gian), lúc ấy kể như không gian triệt tiêu chỉ có
Tánh Giác về Hữu Thể. Khi thời gian vừa khai mở, Hữu Thể biến thành Trở
Nên thì Hữu Thể đó Ðã Là (Quá khứ). Hữu Thể (Ðã Là) tức là trở nên Hữu Thể
mới không còn là chính hữu thể trước nữa, tức là không thật là hữu thể cũ.
Quá khứ là hư không, không thật.
+ Dung lượng và thời lượng tăng hay giảm theo tỉ lệ thuận của sự phát
triển của không gian và thời gian. Bánh xe thời gian chuyển động trong
không gian vô tận. Không gian sẽ biến thiên đến cực tiểu hay tiêu hủy khi
thời gian tàn lụi đến triệt tiêu.
+Sự vật tự thân nó đã có mầm mâu thuẫn nội tại. Sự sanh diệt của sự vật do
lực cản của chính sự vật (nội thân) và lực hút của vũ trụ (thời không là
chủ yếu) và những nhân duyên ngoại tại khác. Cho nên sự vật không có thực
thể, nên gọi là Tánh Không. Tướng Không của sự vật theo nhân duyên hợp mà
sanh diệt bởi mâu thuẫn ngoại tại của không thời gian và tác động khác.
Hai lực nội ngoại nầy chi phối sinh mệnh của vạn pháp. Luật nhân quả, hay
sanh diệt đều nằm trong phạm trù của Thời-Không. Xét cho cùng, nếu không
có Thời Không thì qui luật nhân quả không thể phát triển được, và Hữu Tự
Tại được hiển bày.
+- Nhắc lại, theo Thích thiền Ba La Mật Thứ Ðệ Pháp Môn quyển 1, giải
thích; Không gian vô tận có hai thế giới: thế giới mê vọng và thế giới
giác ngộ;
-Lại theo Long Thọ Bồ Tát cũng đã nói ở Phần I, Trung Không
Diệu Hữu.
Trong không gian có nhiều điều huyền diệu:
-Thứ nhất: Chứa thế giới mê vọng là huyễn hóa, không thật, chằng chịt nhân
duyên, ràng buộc luân hồi, sanh tử tức là Cái Không thật có cũng Không
thật không.
-Thứ hai: Chứa thế giới giác ngộ, chơn thật tức là Cái Thật có tức là Cái
tùy thuộc vào chính nó, Cái chơn không, Cái thiệt Hư không hay Tánh Giác
cũng là Chơn tâm, Niết bàn.
+Chúng tôi muốn bàn đến thời gian và không gian là yếu tố quan trọng trong
vấn đề sanh diệt nhân quả. Mọi vật trong không gian nầy đều bị nhân quả
của năng lực Thời Không chi phối. Như trong không gian có vũ trụ, thái
dương hệ..., địa cầu. Mọi vật trong địa cầu đều bị sức hút (trọng lực) làm
ảnh hưởng đến chất và lượng của bản thân chúng; ngay cả trái đất cũng lệ
thuộc vào vận hành của thái dương hệ và chuyển động quanh quỹ đạo v.v..
đều nằm trong không gian. Trọng lực của trái đất (không gian) và lực cản
của sự vật (nội chất), dung chứa trong không gian là hai lực mâu thuẫn Hút
và Cản, tạo ra sự sanh diệt của sự vật. Lực Kéo của vũ trụ vô cùng to
lớn--trong khi lực Cản của sự vật quá nhỏ, ngay cả núi Thái Sơn, đối với
không gian bao la vô tận cũng không thấm vào đâu. Cho nên theo thời gian,
sự vật sẽ bị lực Kéo (không gian) hủy diệt mà thôi. Chúng tôi không muốn
đề cập đến những nhân duyên phụ khác (không đáng kể trong trạng thái bình
thườngso với trọng lực) như ánh sáng, âm thanh, không khí v.v...Tất cả sự
vật được dung chứa trong không gian đều có lực cản của chính nó và bị
trọng lực thu hút và ảnh hưởng của sáu đại khác, có thể gây thêm cho sự
vật ấy di động với những tốc độ khác nhau và có thể làm tổn hại đến chính
nó và các sự vật khác. Trung Không Diệu Hữu cũng có nghĩa là trong không
gian chứa biết bao điều huyền diệu. Trong không gian dung chứa tất cả mầm
sanh diệt hay không gian đồng hóa với mầm sanh diệt tức là không gian coi
như là mầm sanh diệt. Cũng tương tự như thế “Tàng Thức là kho chứa tất cả
những Chủng Tử hay Nguyên Nhân Phát sinh của Thực Tại Kiến Lập:... Tàng
Thức được định nghĩa là nguyên nhân phát sinh của tất cả hiện tượng giả
lập bởi vì nó luôn luôn hiện diện như là nguyên nhân của các hiện tượng
nầy”... (TC Triết 1, tr.47)
Không gian huyền diệu như vậy, tất nhiên nó không chỉ dung chứa sự vật mà
còn tác động đến sự sinh tồn của sự vật nữa. Với sự tiếp tay của Thời
gian, Không gian biến hoá mọi vật rất nhịp nhàng theo quy luật nhân quả mà
sự sinh diệt hầu như mang sẵn trong nội thân của chúng. Dù giải thích
riêng rẻ về mâu thuẫn nội tại hay ngoại tại, sự vật rốt cuộc cũng bị Thời
Không chi phối. Sinh Mệnh của mọi vật đều do Thời Không giữ quyền sanh
sát. Sự vận hành của vũ trụ (tác động của Thời Không) là Thực Tính của Hư
Không.
3).-Thời Không Và Triết Lý Duy Thức
Trong Duy Thức, tri thức thực tại là thể nhận tánh không. Trong cái Không
Thật Có và cái Thật Có của Hư không chứa hai thế giới: Vọng và Chơn. Giữa
đúng và sai, Niết bàn và Luân hồi, Bồ đề và Vô minh v.v... theo quan niệm
của Phật giáo là hai con đường Nhận Thức Ðúng và Nhận Thức Sai mà thôi.
Trong thế giới chơn vọng lẫn lộn mà tri thức đúng được thực tại, quả là
một vấn đề nhận thức sâu sắc qua quá trình tư duy của một trí tuệ khai mở.
Duy Thức Tính Không và Tính Vô Ngã của lịch trình thanh lọc huyển thể của
chủ tri và đối tượng (chủ khách) được thể hiện qua ba tự tính sau đây: Tự
tính giả lập, Tự tính tùy thuộc và Tự tính tuyệt đối.
(a). Tự Tính Giả Lập (Báo Thân):
Tự tính giả lập là tự tính của thực tại kiến lập tự nhiên (sự vật). Khi sự
vật được nhìn thấy qua nhãn căn, thì hình ảnh của sự vật đó chỉ thực sự
được thấy ở võng mạc của nhãn căn mà thôi. Hình ảnh được hội tụ qua lăng
kính của nhãn căn từ sự vật bên ngoài không gian. Hình ảnh ấy tăng hay
giảm tùy theo vị trí khoảng cách không gian gần hay xa đối với chủ thể. Cơ
quan cảm giác của mỗi người đều khác nhau, cho nên cái thấy đó cũng có chỗ
khác nhau. Vì khi ta thấy sự vật ở ngoài không gian, kỳ thực là ta chỉ
thấy hình ảnh của sự vật, nên sự vật mà ta thấy đó cũng không thật. Thực
tại kiến lập tự nhiên ấy chỉ là một thực tại giả lập mà thôi. Cho nên tự
tính của sự vật kiến lập tự nhiên gọi là tự tính giả lập.
Tự tánh giả lập cũng là Tánh Không. Tánh Không ở đây có hai nghĩa :
-Hình ảnh là thể không: không nắm bắt được, hư không;
-Hình ảnh đó không thật, vì do giác quan và thời gian thay đổi.
Tự tánh giả lập của thực tại được kiến lập tự nhiên có sở hữu của Thể tính
không (hư không) hay Tánh Không; và có Biệt tính--hình tướng riêng biệt
của từng sự vật--là Tướng Không của nó.
Vậy Tự tính và Biệt tính giả lập (hình ảnh) của sự vật nhìn từ nhãn căn
chỉ là những bóng dáng của sự vật, vì chúng không thật có (Tánh), cũng
không thật không (Tướng), nên chúng chỉ hiện hữu trên bình diện công ước
hay ngôn ngữ của chủ thể và giả lập của khách thể.
Tự tánh giả lập còn gọi là Báo Thân; nó thay đổi theo thời không, cho nên
nó có sanh có diệt, có tăng có giảm.
(b). Tự Tánh Tùy Thuộc (Hóa Thân):
Cái Trở Nên--Hữu thể (sự vật)--được kiến lập do nhân duyên tác động bởi
Tàng thức. Từ sự vật được trông thấy bởi nhãn căn, đó chỉ là hình ảnh của
sự vật, là Tướng Không của hình ảnh đó tùy thuộc vào sự vật duyên hợp
(không hiện hữu tự nhiên). Còn sự vật được kiến lập tùy thuộc vào nhân
duyên của thọ tưởng hành thức hay thay đổi thì tự tánh của chúng cũng là
không. Bóng dáng của sự vật do duyên hợp cũng chuyển biến theo thời gian
và quan niệm kết tụ bởi thọ tưởng hành thức (lục dục, thất tình).
Cái trở nên là cái không thật có, cũng không thật không. Tự tánh tùy thuộc
cũng nằm trong phạm trù tánh không. Tự tính tùy thuộc được thể hiện tướng
sanh diệt do tác động thời gian và quan niệm chi phối. Thời gian ngưng
chuyển, tức thì tự tính tùy thuộc cũng tuyệt tích, vì nhân duyên không thể
phát triển. Chủ thể (Ý) nhận thức được tướng không của sự vật tùy thuộc
vào nhân duyên tìm ẩn trong tàng thức. Chủ thể và sự vật đều tùy thuộc vào
nhân duyên mà tri nhận, nên sự tri nhận đó cũng không thật và chắc chắn.
Tự tính tùy thuộc của sự vật cũng là vô tự tính hay tánh không. Sự vật
biến đổi (sanh diệt) làm cho hình ảnh của chúng mà con người trông thấy
màu sắc, tốt xấu, sạch nhơ v.v.. tùy theo quan niệm của cá nhân.
Tự tánh tùy thuộc còn gọi là Hóa Thân.
( c ).- Tự Tánh Tuyệt Ðối (Pháp Thân):
Tự tánh tuyệt đối là thực tính hay chân như của sự vật. Sự vật tùy thuộc
vào tự thân chúng nghĩa là không có tự tính giả lập hay tùy thuộc áp đặt
lên chúng. Xét về Tánh, Tự tính Tuyệt đối là cái Thật Có, là Chân như,
Niết bàn, nó chính là nó. Xét về Tướng, Tự tính Tuyệt đối là cái chỉ Có
Thật không gì ngoài nó, là Chơn không: chỉ có chơn không có vọng, cái bất
biến, thường hằng.
+Từ quan điểm Không gian, sự vật chiếm cứ không gian và Không gian dung
chứa sự vật là Một, nó chính là nó, không gì ngoài nó, không có gì áp đặt
lên nó: Vô Không gian.
+ Từ quan điểm Thời gian, sự vật tùy thuộc vào chính nó tại đó và lúc đó
hay trong khoảnh khắc hiện tại: Vô Thời gian.
Không gian dựa trên bánh xe thời gian để bành trướng chính mình vào khoảng
không vô tận, nên khi không gian co rút đến cực tiểu, tức chỉ còn duy nhất
sự vật hiện hữu mà thôi, lúc ấy thời gian sẽ giảm thiểu đến cực điểm tuyệt
đối (số không). Cho nên ta có thể nói rằng tự tính tuyệt đối của sự vật là
hình thức của sự vật vượt khỏi Thời Không. Nói cách khác, khi chủ thể nhận
thức, và sự vật bị nhận thức được tri nhận một cách tuyệt đối vượt khỏi
nhị nguyên tính (chủ khách). Hình thức tính Không (Không Thời Không =
Không Chủ Khách) là Hư không; mà thiệt Hư không là Tánh Giác vậy. Ðây là
tiến trình Tri Thức Ðúng Cái Thực tại Giả Lập hay Cái Thực Tại Bị Tri Nhận
Sai Lầm. Tri Thức về Cái Tri Thức Ðúng và Tri Thức Sai là Trở Về Chân
Nguyên, thực tính của Tri Thức hay Tánh Biết. Tánh Biết giải thoát mọi sự
hiểu biết thường tình tức là hiểu biết sai lầm về thực tính của sự vật.
Nhắc lại, Tánh Giác theo như Tánh Hư không, đức Phật giải thích: A Nan!
Ngươi phải biết trong Tạng Như Lai, Tánh Giác tức là thiệt hư không, Hư
không tức là Thiệt Tánh Giác thanh tịnh bản nhiên, đầy khắp pháp giới... (
Bát Nhã Tâm Kinh qua Cái Nhìn của Duy Thức, tr. 56).
Cả Vật lẫn Tâm đều có Tánh Không.
Tự Tánh Giả Lập hay Tùy Thuộc của sự vật là không thật.
Tự Tánh Tương Ðối của Tâm (Phàm tâm) cũng không thật.
Chỉ Tự Tánh Tuyệt Ðối của sự vật là chơn thật, là Thiệt Hư không.
Tự Tánh của ChơnTâm là Thiệt Hư không.
Theo sách Tử Thư nói về một khía cạnh của Hư không viết như sau:
Chân ngã ở bình diện tối cao, nói giống như thực tại, nghĩa là y hệt Hư
không, không thể nắm bắt được mỗi hiện tượng... (tr.105)
Tự tánh của Tâm hay Vật, Chủ thể hay Khách thể đứng trên bình diện vô Thời
Không đều là Thiệt Hư Không; Thiệt Hư không là Chơn Như của Tâm hay Vật,
là Niết bàn,là Thực Tại tính. Chân tính của Tâm hay Chân Ngã (chân tâm) và
chân tính của sự vật đều là thiệt hư không, mà thiệt hư không là Tánh
giác, vì Tánh giác là cái dụng của Chân Tâm.Chân tâm là Tự tính tuyệt đối,
là Thực Tại tính Vô Thời không, là vượt lên nhân duyên, đối đãi, nhị
nguyên chủ khách. Vậy trực nhận bản tính tự nhiên của Tâm cũng chính là
trực nhận bản tính tự nhiên của sự vật. Tâm và Vật lúc bấy giờ là đồng
tánh không.
Chủ thể nhận thức tự tánh khách thể giả lập, sai lầm, hay là nhận thức sai
lầm về tự tánh khách thể, chỉ là nhận thức của phàm trí mà thôi. Nhận thức
năng sở của phàm trí cũng là nhận thức không thật đúng; cũng sai lầm, đó
là nhận thức bị ràng buộc của nhân duyên, và sự giả lập của sự vật. Ðó
cũng là mấu chốt của luân hồi, khổ đau.
Cho nên, Tri Thức Ðúng là tiến trình nhận thức đúng thực thể và giải thoát
khỏi khổ đau ràng buộc bởi nhân duyên chằng chịt, sanh tử, luân hồi.
Tóm lại, tự tánh giả lập là tự tánh không thật có trong thế giới mê vọng
của hư không (Tánh không).
Tự tính tùy thuộc là tự tính không thật không, cũng ở trong thế giới mê
vọng của hư không (Tánh không).
Tự tính giả lập và tự tính tùy thuộc là khi sự vật đó tự vượt ra khỏi
chính chúng nó để vạch ra bóng dáng trong không gian. Ðã vượt ra khỏi sự
vật, là những bóng dáng chúng không còn thật là chúng nữa, là giả vọng mà
thôi.
Tự tính tuyệt đối là tự tính thực có trong thế giới chơn thật của hư
không. Tự tính tuyệt đối là tự tính đó vượt ra khỏi thời không, nghĩa là
không vượt khỏi ra chính nó. BA HÌNH THỨC TỰ TÍNH ( Ba Chân Lý):
Tự tính Giả Lập: Không Thật có;
Tự tính Tùy Thuộc: Không Thật không;
Tự tính Tuyệt Ðối: Thật Có, cái tuyệt đối. Cả ba đều là Tánh Không.
Không đi theo con đường Bên Nầy: không thật có (giả lập), và không thật
không (duyên khởi), Mà theo con đường Bên Kia: thật có, chơn không, niết
bàn, tức là Trung Ðạo: con đường của Tánh Không, hay là con đường giải
thoát đến bờ Giác Ngô.
Tóm lại, tự tính Tuyệt Ðối là Hư không tức là thiệt tánh giác. Tánh giác
là cái Biết về chính mình biết. Biết về chính mình biết là tiến trình của
Thực Biết và giải thoát khỏi cái biết sai lầm chằng chịt nhân duyên, giả
lập, khổ đau, luân hồi.
Tánh Giác vượt khỏi nhị nguyên đối đãi, chủ thể và khách thể, tức là Tri
Thức Ðúng về Chủ Thể (Tự Giác, Tự Tính Tuyệt Ðối) và Tri Thức Ðúng về
Khách Thể (Giác Tha, Tự Tính giả Lập hay Tùy Thuộc) để giải thoát mọi sai
lầm của Chủ Tri và giả lập của Khách Thể. Ðó là con đường về Chân Nguyên;
đó cũng là Thể Cách TỰ GIÁC và GIÁC THA.
II. CƠ CẤU CỦA CÁI TRÍ HAY TÁNH GIÁC (Theo Thời Không)
Tự tính tuyệt đối của Tâm là Thể Không của Tâm. Trí hay Tánh Giác là Dụng
của Tâm, Như chúng tôi trình bày ở phần đầu, biểu tượng (Dụng) của Tâm gồm
có Trí năng, Tình năng và Hoạt năng, mà Trí năng là đầu mối phát sinh mọi
hoạt động ảnh hưởng đến vật chất và tinh thần trong đời sống hàng ngày.
Trí năng là một yếu tố quan trọng nhất trong ba cái dụng của tâm.Trí năng
được bắt đầu bằng Nhãn căn trong Lục căn. Do đó, chúng ta nghiên cứu Tánh
Thấy hay sự hiểu biết sự vật qua tánh thấy. Sự hiểu biết ấy cũng đều được
thể hiện qua lục căn.
Mở một cửa trong sáu cửa để đi vào trong nhà (kho chứa sự hiểu biết) ắt
cũng được vào trong nhà và mở các cửa kia.
A.- Phân Tách Ngũ Uẩn -
a).- Cảm Giác ( Ngủ giác quan )
Ðiển hình về Nhãn Căn qua chức năng Thị Giác:
+ Ban ngày, khi chúng ta nhìn một vật ngay phía trước chúng, hình ảnh khi
nhìn sự vật qua thấu kính của mắt được hội tụ ở trên hố mắt của võng mạc.
Nón (dây thần kinh liên hệ đến bộ não) đáp ứng một cách khác nhau đến
những làn sóng, hay màu sắc khác nhau của Ánh Sáng. Những nón (cones) nầy
thích ứng với màu sắc thị giác. Mỗi nón đáp ứng đến chỉ một trong ba làn
sóng khác nhau của ánh sáng (đỏ, xanh biển, xanh dương). Bằng cách kết hợp
những phản ứng tới những làn sóng dài, vừa, ngắn, những tế bào nón có thể
chỉ định màu của bất cứ hình ảnh nào. Những nón rất nhạy cảm tới những đặc
trưng ở xung quanh dù nhỏ đến đâu.
+ Ban đêm thì khác, những tế bào que (rods: dây thần kinh liên hệ đến não)
rất nhạy cảm với ánh sáng mờ, dù chúng không sắc bén nhiều. Vào buổi tối,
nếu ta liếc nhanh hình ảnh của bóng mờ ngoài góc của con mắt, chúng ta sử
dụng những tế bào que. Nếu hình ảnh mờ ấy biến mất, khi chúng ta nhìn
thẳng vào nó, chúng ta chứng kiến sự mất tế bào nón vào lúc chúng ta không
chú ý làm tụ những bóng mờ đó trên hố mắt ở võng mạc.
+Khi năng lực của Ánh Sáng (sáng hay mờ) đến cơ quan tiếp nhận hình ảnh,
những tín hiệu thần kinh được gởi xuyên qua hệ thống thị giác sản sinh
những cảm giác. Con đường đi ấy bao gồm những tầng lớp, qua đó ánh sáng
phải qua trước khi được thu hút bởi cơ quan tiếp nhận hình ảnh. Một phản
ứng hình ảnh hóa học được tạo ra trong cơ quan tiếp nhận hình ảnh, sản
sinh những dấu hiệu thần kinh, đầu tiên được chuyển đến những tế bào lưỡng
cực, rồi đến những tế bào hạch. Những tín hiệu thần kinh lúc đó đi dọc
theo trục võng mạc đến hạt nhân cong khập bên của chất xám. Những tế bào
trong hạt nhân cong khập nầy sắp đặt lại tín hiệu (khích thích cảm giác)
tới xương chẩm thùy não để được điều hợp và hoàn thành chức năng thị giác.
Tương tự như thế, con đường để thực hiện tánh Biết qua các căn khác như
nhĩ, tĩ, thiệt, thân cũng vậy, tuy có khác về cơ cấu sinh học, nhưng tựu
trung cũng đều được các dây thần kinh chuyển các hình ảnh, chấn động lực,
không khí hay chất hơi hay ấn tượng kích thích, sau cùng cũng chuyển đến
chất xám ở vỏ não để sản sinh những cảm giác tương ứng với các căn.
Chẳng hạn như:
--Nghe một âm thanh là nghe độ rung (chấn động lực) hay ấn tượng của âm
thanh do làn sóng âm thanh va chạm vào màng nhĩ (Tai).
--Ngửi mùi hương là ngửi ấn tượng mùi hương, là không khí hay hơi (tức là
chất hóa học hòa tan trong không khí) ở màng mũi.
--Nếm một vị là nếm chất hóa học (ấn tượng do kích thích giữa vị toan và
nước miếng tạo nên) ở lưỡi.
--Xúc giác một vật là tiếp giáp hình ảnh của những kích thích của da (hay
cơ thể).
(b).- Ý Thức (Consciousness):
Có thể định nghĩa, ý thức là cử chỉ hay tiến trình được Biết, đặc biệt về
vùng xung quanh ta và điều kiện của thân thể. Cũng là Tĩnh táo, Biết được
những gì đang xảy ra.
Thật ra, Ý thức thường được định nghĩa là sự hiểu biết (awareness) tích
cực của tất cả tư tưởng, hình ảnh,tri giác và cảm xúc chứa trong trí với
thời gian qui định. Ý thức là Cái Quan sát chính chúng ta và xung quanh ta
như là cách chúng ta làm trong thiên hạ. Ý thức cho phép chúng ta sử dụng
sự kiểm soát các điều chúng ta hành động, kinh nghiệm, và chọn lựa giữa
những cách tư duy hay hành động. Nhưng Ý thức thì nhiều hơn sự hiểu biết
đơn giản của chính chúng ta và xung quanh ta. Ý thức có tính đơn thuần và
nó thống nhất kinh nghiệm chúng ta vào Cái Toàn thể. Khi chúng ta lắng
nghe một người nói, chẳng hạn, chúng ta nghe nhiều hơn là những tần số và
cường độ của âm thanh, nhiều hơn một chút kích thích thính giác. Ðể thay
vào, chúng ta biết được toàn bộ những lời nói và chúng ta hiểu được ý
nghĩa của những lời đó, bởi vì đó là cách thức mà Trí chúng ta tổ chức và
tổng hợp kích thích thính giác.
Nếu cái đơn thuần của Ý thức (cục bộ) cho phép chúng ta tri giác và hiểu
được kinh nghiệm như là cái Toàn thể, thì tính chọn lọc của Ý thức để cho
chúng ta tập trung vào bộ mặt đơn độc của cái toàn thể. Vậy chúng ta có
thể tập trung vào hình dáng đối thể, màu sắc, kích thước,thực thể, công
dụng hay bất cứ đặc tính khác. Bằng vào biểu hiện đó, chúng ta có thể tập
trung vào cảm tính, ký ức, hay tư tưởng riêng biệt. Tính chọn lọc như thế
là cốt yếu cho hoạt động chức năng hàng ngày của chúng ta. Nhiều cảm giác
tư tưởng, cảm tính và ký ức dễ ảnh hưởng đến chúng ta ở một thời điểm có
sẵn, đến nỗi khi chú ý chúng, chúng có thể lấn áp chúng ta. Vậy, tính chọn
lọc của Ý thức cho phép chúng ta điều chỉnh chỉ có dữ kiện cần đến và loại
bỏ cái không cần.
May mắn, kỷ thuật cận đại giúp các nhà nghiên cứu vượt qua những trở ngại
thầm hội được Ý thức. Trang bị cho mạch điện đồ và hoạt động dây thần kinh
trong não bộ cung cấp được những ý nghĩa mới quan trọng để nghiên cứu một
số việc thuộc sinh lý học xảy ra trong những trạng thái khác nhau của Ý
thức. Chẳng hạn, chúng ta biết được dữ kiện mô lưới, một phần của não bộ
sau giữ vai trò bảo trì Ý thức.Khi phần não đó bị kích thích, con vật trở
nên quá mẫn, những vùng như vậy bị thương, con người mất cảm giác trên mào
lông (coma). Bởi vì óc con người có thần kinh phát triển cao độ của võ não
trong giới loài vật, và bởi vì con người cũng dường như biểu lộ sự phát
triển cao độ ý nghĩa của Ý thức mà các nghiên cứu gia cho rằng lớp vỏ não
cũng phải liên hệ với sự hiểu biết Ý thức.
Tóm lại, sự hiểu biết Ý thức có tính lưỡng phân như Kant đã quan niệm.
Thật vậy, Ý thức tác động là do tiền ngũ căn (ngũ giác quan) tiếp nhận sự
vật và Tri giác (Biết). Còn Ý thức tác năng là sự hiểu biết có sẵn trong
tàng thức, không do tác động của ngũ căn mà chúng ta có thể dùng trực giác
để hiểu biết. Như thế Ý thức cũng là tác năng tự phát.
Kết luận, Ý thức cũng chỉ là những hình ảnh, dấu vết sự hiểu biết mà cái
Trí ( bộ óc ) nhận thức.
( c ).- Cảm Xúc (hay Cảm thọ: Emotion):
Cảm xúc là một phần lớn cuộc sống thường nhật mà khó có thể tưởng tượng
được, nếu đời sống không có nó. Cảm xúc làm cho phong thái của kinh nghiệm
chúng ta hoạt động và đem đến cho đời sống một sinh khí của nó. Nếu không
có khả năng cảm nhận sự giận dữ, nỗi đau buồn, niềm vui, và tình yêu,
chúng ta khó mà thừa nhận chính chúng ta là con người.
Rõ ràng, cảm xúc bao gồm sự thay đổi cảm tính --thường kích thích bởi hoàn
cảnh ngoại giới mà chúng ta ít kiểm soát. Sau cùng, cảm xúc có thể tác
động đến tư cách. Cảm xúc có thể được định nghĩa như là mô hình phản ứng
bao gồm sự thay đổi sinh lý, biểu lộ tư cách và trạng thái cảm tính. Cảm
tính thường phát sinh trong sự đáp ứng của liên hệ xã hội hay hoàn cảnh
thử thách qua nhiều phương diện. Bản chất của phản ứng cảm xúc ảnh hưởng
đến cách thức một người đánh giá và khắc phục hoàn cảnh. Tất cả các nhà
Tâm lý đều đồng ý rằng cảm xúc mạnh liên hợp với sự thay đổi trong hệ
thống thần kinh tự động. Một cách giám sát sự thay đổi sinh lý kèm theo
cảm xúc bởi một phương tiện máy móc gọi là Ða mạch đồ (Polygraph).
Mặc dù hệ thống thần kinh tự động gây nên sự thay đổi sinh lý kết hợp với
cảm xúc, hệ thống nầy được sắp xếp bởi bộ óc. Ðặc biệt khối dưới chất xám
(hypothalamus) và một vài phần hệ thống limpic (limpic system) liên quan
trong một số phản ứng cảm xúc như: nóng giận, gây hấn và sợ hãi
(Pribram,1981). Stanley Schachter và Jerome Singer đã đề nghị rằng cảm xúc
bao gồm hai thành tố đối tác lẫn nhau: trạng thái đánh thức sinh lý và sự
làm sáng tỏ tri thức của cái đánh thức ấy. Họ qui cho năng lực chúng ta
hiểu được sự đánh thức gán cho những cảm giác tổng quát là những cảm xúc
đặc biệt.
Vậy cảm xúc hay cảm thọ là ý thức được đánh thức qua sự thay đổi sinh lý
vì phản ứng thần kinh não bộ do các kích thích hình ảnh của cảm giác, tư
tưởng, hành động hay tình cảm bị va chạm.
(d).- Hành Ðộng (Motivation):
Hành động là động cơ thúc đẩy hoạt động, được định nghĩa như là điều kiện
xã hội, tâm lý hướng dẩn tư cách cá thể đến vài mục đích nào đó. Mặt khác,
xu hướng (drive) là điều kiện sinh vật thực hiện chức năng hướng đích.
Theo Sigmund Freud cho rằng động cơ hoạt động là do hai lực (forces) của
vô thức (Tàng thức): Một là lực thúc đẩy đến sự sinh tồn, sự sinh sôi nẩy
nở, và sự tự bảo tồn; thứ hai lực thúc đẩy đến sự tử vong và tự hủy diệt.
Bởi vì cách thức mà con người thỏa mãn xung lực (sức đẩy tới) có thể mâu
thuẫn với tiêu chuẩn đạo đức xã hội, những xung động nầy thường bị trấn áp
và thăng hoa trong nhiều hình thức của tư cách.
Có những xu hướng căn bản về sinh vật như đói, khát, sinh lý, và có những
động lực được học hỏi như nhu cầu cho thành quả và sự hội nhập. Cũng có
những động lực cảm thọ như vui, khổ, giận, sợ, và bại.
Tổng quát, hành động thúc đẩy tư cách được dẫn đến bảo quản tình trạng
sinh lý cân bằng (homeostasis) hay là môi trường bên trong bất biến và
hướng dẫn đến kiến lập cân bằng cả hai bên trong và bên ngoài.
Tóm lại, Hành động là động cơ, xu hướng hay bản năng thúc đẩy thiết lập
mọi hoạt động về tư tưởng, tình cảm hay cử động. Tất cả những động cơ, xu
hướng đó dù do năng lực bên trong hay bên ngoài, dù do tâm lý, xã hội hay
sinh vật có ý thức hay vô thức đều phải xuyên qua cảm quan hoặc các phần
của cơ thể và đã thanh lọc thành những dấu hiệu được dẫn truyền đến thùy
trước của lớp vỏ não cạnh chỗ nứt có liên quan sơ khởi đến sư điều chỉnh
cử động tự ý gọi là thần kinh tự động. Vậy Hành chỉ là sự thể hiện do
nhiều xu hướng hay động cơ thúc đẩy biến thành những dấu hiệu mà não bộ
sản xuất những phản ứng thành những hoạt động; do đó bản thân Hành chỉ là
những hình ảnh dấu vết của các xu hướng, động cơ hay bản năng thúc đẩy sản
sinh ra, nên Hành không có thực thể.
( e ).- Tưởng (Memory, Preconsciousness):
Con người dùng ba cấu trúc tinh thần khác nhau để thiết lập ký ức: ký ức
cảm giác, ký ức ngắn hạn (short-term memory) và ký ức dài hạn. Các nhà tâm
lý tin rằng ký ức bắt đầu tại sự ghi chú cảm giác, một dữ kiện cảm giác
thu nhận rất ngắn. Cảm giác vẫn còn kéo dài một giây sau khi ta tri giác
và sau đó phai dần. Dữ kiện được tích trữ khoảng 1/15 giây, để rồi người
ta có thể giữ dấu vết của kinh nghiệm từ lúc nầy đến lúc khác. Nếu cá nhân
bị xao lãng trí, và dữ kiện hoặc là rất khác với biến cố bình thường, hoặc
là có ý nghĩa với cá nhân đó, thì dữ kiện ấy chuyển qua ký ức ngắn hạn, ở
đây nó tích trữ chỉ trong một thời gian giới hạn.
Muốn giữ dữ kiện trong ký ức ngắn hạn, người ta cần sự nhắc lại. Sự nhắc
lại bằng cách chú ý tích cực đến dữ kiên như là lập đi lập lại dữ kiện đó.
Một thời gian gián đoạn sẽ hủy diệt dữ kiện ở trong kho ký ức ngắn hạn.
Nhiều ký ức ngắn hạn nhạt dần trong khoảng vài phút. Quá trình chú ý giữ
một vai trò rất lớn trong sự xác định dữ kiện nào được chuyển từ ký ức
ngắn hạn đến ký ức dài hạn. Nếu dữ kiện không quan trọng hay thích thú,
rất có thể chúng ta quên đi.
+ Ghi Lại Dấu Vết--Tích Trữ --Khôi Phục:
Khi những kinh nghiệm cảm giác thoáng qua được kết hợp, thì dữ kiện được
thừa nhận dễ hơn nhiều. Chúng ta có thể nhớ lại một hình thị giác kết hợp
với âm thanh (như chiếc xe hơi đang chạy: đầu máy nổ) dễ dàng hơn là hoặc
máy nổ không, hoặc một chiếc xe không. Quá trình dữ kiện hổn hợp gọi là
ghi nhận dấu vết, hay là tiêu biểu hình ảnh (sự thay thế hình ảnh). Những
nét đặc biệt thiết yếu của một vật hay mô hình được rút ra để cho sự vật
có thể nhận thức sau nầy.
Ký ức ngắn hạn là tiến trình của truyền đạt tế bào thần kinh, trong khi đó
ký ức dài hạn thường xuyên thay đổi trong những vùng tế bào khớp thần
kinh, là tính chất vật lý của tế bào. Bộ óc cần thời gian để củng cố trước
khi dữ kiện được tích trữ ở trong ký ức dài hạn. Có thể là, những tế bào
thần kinh cần thờI gian để thay đổi. Tài liệu ở ký ức dài hạn có thể được
đem đến vào kho ký ức ngắn hạn, và sẽ không bị quên nếu sự suy tưởng bị
xao lãng. Tuy nhiên, kho ký ức ngắn hạn có thể chỉ còn giữ một vài thứ mà
thôi. Khả năng giới hạn nầy có thể góp phần giải quyết khó khăn cho những
người có vấn đề. Con người có thể giữ lại, và quan sát một số dữ kiện
trong một lúc mà thôi. Ở đâu, ký ức ngắn hạn cũng trực tiếp và dễ thêm
vào, trong khi dữ kiện xác định đúng vị trí của ký ức dài hạn có thể chậm
chạp và khó khăn. Tuy thế, khả năng của ký ức dài hạn thì hầu như bất tận.
Một người có thể tận dụng ký ức. Không có giới hạn được biết mà con người
có thể học hỏi được bao nhiêu.
+Mặt khác, ký ức mới đối lập với cái cũ. Có hai loại đối lập: Một phải làm
với món tích trữ và nhớ lại; thứ hai phải làm với sự kiện mà những điều
thu nhận mới thể thực sự làm méo mó, xuyên tạc hay chuyển đổi những ký ức
cũ.
Vậy thì ký ức, tưởng nhớ, tưởng tượng hay mac na thức là những hình ảnh
được khôi phục lại, có cái trung thực, có cái sai lạc và ngay cả có cái
tương tự lẫn lộn với hình ảnh đối tượng cũ, nhưng không phải đối tượng cũ.
Ðã là những hình ảnh cũ khôi phục lại tức là những ảo ảnh của đối tượng
khiếm diện (kể như không có đối tượng).
Do đó Tưởng là ý tưởng so đo, tưởng tượng. chấp trước, lệch lạc và không
có thực thể.
( f ) Thức ( Knowledge, Unconsciousness)
Alại da thức, Vô thức hay Tàng thức.
Thức là sự hiểu biết hay nhận thức. Sự hiểu biết là Quả, còn Nhân phát
xuất từ Vô thức hay Tàng thức. Theo ý niệm của Freud về Trí vô thức rất
đặc biệt khó mà giải thích trong những điều kiện đơn giản.
Ðại khái, Vô thức gồm có tất cả ký ức, kinh nghiệm, hình ảnh, cảm tính và
động lực mà chúng ta không thể tự ý đưa ra ý thức hay quan sát trực tiếp
của chú ý. Chúng ta có thể định nghĩa bằng những thí dụ sau đây:
+Chúng ta nhắm đến trấn áp những kinh nghiệm không vui; nghĩa là chúng ta
nhắm đến đặt những vật chướng ngại trên ánh đèn để nó không thể chiếu sáng
một vài chỗ trên sân khấu mà chúng ta không thích nhìn. Những ký ức bị
trấn áp lúc đó, bị nhốt lại trong phần vô thức của trí chúng ta.
+Chúng ta đã biết phản xạ và bản năng bẩm sinh tác động đến tư cách và tư
tưởng chúng ta dù chúng ta ý thức hay không. Tim đập, phổi thở, hạch tuyến
thượng thận bài tiết chất kích thích (hormones) dù ta biết hay không nó
vẫn hoạt động. Chúng ta cũng không có ý thức của hoạt động của thần kinh
về cảm thọ hay vận động ở trung tâm não bộ. Kế đó, diễn đạt bộ điệu, những
cảm tính xúc động là một phần tiêu biểu của trí vô thức chúng ta.
+Chúng ta cũng đã biết tích trữ những thứ trong kho ký ức dài hạn tùy theo
một vài loại mà thôi. Chúng ta không thể nhớ lại nhiều kinh nghiệm thờI
thơ ấu vì chúng ta không xếp đặt chúng trong cùng loại ký ức mà chúng ta
dùng như là người lớn. Những ký ức ban đầu nầy là Vô thức bởi vì rất đơn
giản là chúng ta không biết làm thế nào khôi phục chúng.
+ Kế đó, có những giấc mộng, và ánh sáng lóe lên trong tâm thức. Theo định
nghĩa, chúng ta không ý thức trong chiêm bao, và giấc mộng thường khó đưa
đến sự hiểu biết ý thức sau khi xãy ra. Freud nghĩ rằng giấc mộng hầu hết
là thí dụ hoàn toàn của kinh nghiệm vô thức. Ðối với vấn đề nội tâm, nó
thường có tri giác một mô hình của vài loại. Nơi nào trí chúng ta đã có mô
hình nầy tạo thành thì không có trong Vô thức sao?
Bây giờ đây, chúng ta đã tri giác một mô hình chính chúng ta. Cái mà Freud
quy cho phần vô thức của trí chúng ta dường như bao gồm hai việc: Quá
trình sắp xếp bởi phần dưới trung tâm não bộ, và quá trình sắp xếp bởi bán
cầu não phải.
--Dục Tình :
Trong lúc Freud hoạch định những vùng của Trí, ông cố xác định những
phương pháp năng lực hóa, tập trung, di chuyển và ngay cả chận lại ánh
sáng lóe lên của ý thức.
Freud lựa chọn thân thể liên tục tạo ra năng lực tinh thần, cũng như máy
phát điện liên tục sản xuất ra điện năng. Freud gọi năng lực tinh thần nầy
là dục tình và ông tin rằng nó là lực thúc đẩy các khả năng của tất cả tư
tưởng, tình cảm và tư cách của chúng ta. Sự xây dựng năng lực dục tình tạo
nên trạng thái xu hướng đau khổ, nó ép buộc chúng ta trở thành hiểu biết
một vài nhu cầu không được thỏa mãn. Lúc đó chúng ta nhắm tới tập trung
vào những hoạt động sẽ cho chúng ta giải thoát năng lực đè nén đó và do đó
mà giảm trừ được xu hướng. Như vậy năng lực dục tình tiêu thụ được kết hợp
với nềm vui cảm giác, trong khi đó sự trấn áp năng lực dục tình hầu như
luôn luôn dẫn đến áp lực đau khổ và lo âu.
--Bản Năng Sinh Tồn (Id) hay Bản Năng Xung Ðộng:
Theo Freud, đứa trẻ sanh ra với tập hợp những xu hướng sinh vật và bản
năng cơ sở là nguồn gốc của năng lực dục tình. Tập hợp các xu hướng bản
năng, freud gọi là Bản năng sinh tồn hay bản năng xung động (id). Những xu
hướng nầy được sắp xếp ở trung tâm dưới não bộ, như hệ thống limpic và
khối dưới chất xám. Như thế bản năng sinh tồn được chôn ở mực sâu nhất của
trí vô thức, xa cách thực tại ý thức. Freud tả bản năng sinh tồn như là
một nồi lớn của sự kích động sôi nổi, nó không có cấu trúc nội tại hay tổ
chức, nó hoạt động trong nhiều cách phi lý, và nó chỉ tìm niềm vui đến từ
những năng lực đè nén bị tuôn ra.
--Bản Ngã hay Cái Tôi (Ego):
Theo R.M. Goldenson, bản ngã là một nhóm của những chức năng tinh thần hay
quá trình cho phép chúng ta tri giác, lý luận, phán đoán, chứa đựng những
ký ức và giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Bản năng sinh tồn hiện diện
ngay lúc sanh ra. Bản ngã phát triển chậm khi chúng ta học hỏi để được
tinh thông những xung động, làm chậm lại niềm vui trực tiếp của những nhu
cầu và sống với những người khác.
Bản ngã là một phần của nhân cách trong sự giao tiếp với thế giới bên
ngoài. Phần lớn, bản ngã hoạt động trong phạm vi ý thức hay tiềm thức (ký
ức: preconscious), nhưng nó bao gồm cả một vài quá trình vô thức. Giống
như bản năng sinh tồn, bản ngã là chủ thể đòi hỏi của nguyên tắc ý muốn.
Nhưng khi chúng ta trưởng thành, tự ý thức ảnh hưởng nhiều bởi nguyên tắc
thực tại là đòi hỏi thực tế của sự sống hàng ngày. Tuy nhiên, vào dịp đó,
bản ngã xé ra bởi những lực đối nghịch của ý muốn và thực tại. Nó thường
giải quyết mâu thuẫn nầy bằng cố gắng thỏa mãn ước muốn bản năng (bản năng
sinh tồn) trong những cách xã hội chấp nhận.
--Bản Năng Ðạo Ðức ( Superego ):
Tuy nhiên, đối với nhân cách thì có nhiều hơn là bản năng sinh tồn, bản
ngã, hơn nguyên tắc ý muốn và nguyên tắc thực tại. Bởi vì khi chúng ta lớn
lên, những người xung quanh ta đòi hỏi chúng ta thực hiện luật lệ xã hội
và những quy định. Muốn thế, chúng ta phải xây dựng một ý thức để giữ
chúng ta khỏi vi phạm luật lệ và bản ngã lý tưởng mà chúng ta cố gắng đạt
tới. Một phần cấu trúc của nhân cách nầy gọi là Bản Năng Ðạo Ðức và nhìn
nó như là Bản ngã được được tách khỏi và bắt đầu hành động theo riêng nó.
Bản năng đạo đức phát triển chạm chạp và một cách vô thức trong năm đầu
của đời sống, cũng như càng gia tăng bắt chước tư tưởng và hành động của
những người khác--trước tiên là cha mẹ chúng ta. Trong thờI thanh niên và
gần trưởng thành, bản năng đạo đức của chúng ta hoàn thiện nhiều như chúng
ta tiếp xúc với người lớn (khác hơn là cha mẹ) mà chúng ta hâm mộ họ và
giá trị của họ chúng ta nhận vào một phần hay toàn thể. Phần lớn, tiến
trình xã hội hóa nầy xảy ra ở mực độ vô thức, như bản năng đạo đức thu
được, khả năng phê phán, và giám sát cả hai bản năng sinh tồn và bản ngã.
Bản năng đạo đức, do đó là tiếng nói vô thức, nó giúp chúng ta phân biệt
được giữa điều tốt xã hội với điều xấu mà chúng ta không hiểu biết được
tại sao làm như thế.
Chúng ta thử xem qua tiến trình phát triển của tư tưởng đứng trên phương
diện tâm lý.
Lý thuyết phân tâm học về sự phát triển tư tưởng tập trung vào sự thay đổi
từ tiến trình sơ khởi của tư tưởng tới tiến trình thứ hai của tư tưởng.
Tiến trình sơ khởi là ngôn ngữ của vô thức, trong đó thực tại và hình ảnh
tưởng tượng đều vô phân biệt. Bộ mặt tiến trình sơ khởi của tư tưởng
thường thấy trong những giấc mộng. Ở đây những biến cố có thể xảy ra cùng
một thời gian trong nhiều chỗ, những đặc tính khác nhau của con người và
sự vật có thể kết hợp, những biến cố di chuyển tới lui trong một thời gian
rất nhanh, và cái trong sự tĩnh thức không thể xảy ra dễ dàng. Tiến trình
thứ hai của tư tưởng là ngôn ngữ của ý thức, tư tưởng và thực tại khảo
nghiệm. Song song với sự phát triển tư tưởng là phát triển bản ngã, và sau
nầy là phát triển của bản năng đạo đức. Với sự phát triển bản ngã, cá thể
trở nên khác biệt nhiều, như là Cái Tôi ( Self) từ nơi tạm trú của thế
giới. Có sự giảm bớt thiên kiến chính mình, một sự gia tăng khả năng, gia
tăng sử dụng ngôn ngữ, và có khả năng lớn hơn để tham gia sự kiện quan
trọng và làm cản trở sự hài lòng. Sự phát triển của bản năng đạo đức lành
mạnh được phản ánh trong một tập hợp thống nhất, mâu thuẫn, thông suốt của
những giá trị, một khả năng chấp nhận ngọn gió của lòng tự trọng (chấp
nhận bắt chước mà không hủy bỏ khả năng tưởng tượng), và ý nghĩa của niềm
kiêu hảnh trong ý định đã thực hiện đưọc.
Về mặt duy thức, Bồ Tát Vô Trước (Asanga) đã xem Tàng Thức như là kho chứa
tất cả những chủng tử hay nguyên nhân phát sinh của Thực Tại Kiến Lập. Thế
giới duy thực phác tố dựa trên một nguyên lý được thực hóa và xem đó là
nguyên do cứu cánh của tất cả sự vượt được xem là thực hữu. Mặc dù Tàng
thức được xem là nguyên nhân phát sinh của các hiện tượng giả lập, chúng
ta không thể thực hóa nó thành nguyên nhân cứu cánh. Tàng thức chỉ là một
nền tảng năng động tàng trữ các chủng tửnhận thức hay ấn tượng và đã lọc
chúng trở lại trạng thái nhận thức hiện hành. Do đó mà trong hệ thống Duy
thức của Bồ Tát Vô Trước, Tàng thức được gọi là kho chứa các chủng tử và
thành thục, nghĩa là làm các chủng tử chín muồi (thành thục) thành kinh
nghiệm tri giác. Tàng thức được định nghĩa như là nguyên nhân phát sinh
của tất cả các hiện tượng giả lập bởi vì nó luôn luôn hiện diện như là
nguyên nhân của các hiện tượng nầy. Tuy nhiên, Tàng thức là một tiến trình
chứ không phải là một thực thể; Tàng thức chỉ là kho chứa các chủng tử
nhận thức và ấn tượng nầy (chính chúng là quả của các hiện tượng tạp
nhiễm)...(TC Triết 1, tr.47)
Tóm lại Ngũ Uẩn chỉ là thực tại kiến lập, là hiện tượng giả lập, là quả do
các chủng tử sinh ra từ Vô thức, Tàng thức, Tánh không hay Bản chất tùy
thuộc vào nhiều yếu tố. Do đó, Tự tính của Ngũ Uẩn vẫn là giả lập và tùy
thuộc mà thôi.
B.- Các Loại Trí (theo Thời Không):
1-Trí Phân Tích.- Qua không gian, nhìn từ trí phân tích, sự vật hay
hiện tượng, hay thực tại kiến lập chỉ là quả của những chủng tử sinh ra,
hoặc giả dùng thực nghiệm (thí nghiệm) bằng kỹ thuật khoa học, hoặc do suy
luận mà phân tích các thành phần kết hợp thành sự vật hay hiện tượng. Như
nước, phân tích thành ra Hydrô và Oxy, cái bàn thì do cây, đinh, sơn...
hợp thành.
Dùng Trí phân tích phải trải qua nhiều giai đoạn suy luận, qua phân tích,
qua thí nghiệm, hoặc qua tưởng tượng mà nhận diện được sự vật là không có
thực thể mà do các thành phần khác tạo ra nó. Kỳ thực, trên mặt lý thuyết
ta thấy cái bàn, nước ngay trước mặt thì cái gì không thật là chúng nó?Ta
chỉ tưởng tượng rằng cái bàn, nước chỉ là giả lập vì dựa trên sự phân tích
thì đúng như thế. Phân tích sự vật là tiến trình trở về quá khứ của chủ
khách. Thời gian bất khả đắc.
2- Trí Phân Biệt.- Cái nhìn từ Trí Phân Biệt qua Thời tính, ta thấy
ngay và rõ ràng tính chất của sự vật.
Thí dụ: Ở T1 (thời gian) ta thấy ông A 1
Ở T2 ta thấy ông A 2 không phải là A 1 nữa.
Nếu ta nhìn ông A từ thời điểm T 1 đến T 2 thì ông A đã biến đổi theo thời
điểm ( T 2 - T 1 ); ông A đã thêm
( T2-T1 ) tuổi rồi.
Vậy ông A 2 không thật là A 1, và A 3 không thật là ông A 2, cứ như thế
tiệm tiến thành ra huyển hoá sự vật theo thời gian.
Dùng Trí Phân Biệt thì nhìn thấy sự vật chỉ là thực tại giả lập, huyển hóa
hay tướng hoa đốm theo thời gian mà thôi. Ðó là lịch trình huyển hóa sự
vật qua Trí Phân Biệt. Phân biệt dữ kiện ở tương lai là thấy tướng giả lập
của nó mà thôi, cũng là quá trình tri nhận của chủ khách. Thời gian bất
khả đắc.
3.- Trí Vô Phân Biệt -(Trí Vô Phân Biệt hay Vô Thời Không): Vượt
qua chủ khách, Tánh Giác (Hư không) hay Tâm trực nhận thể không của sự
vật. Tánh không của Tánh Giác thể nhập hay đồng nhứt với thể không của sự
vật, mà không qua tiền ngũ căn.
Nhìn một vật trong không gian, thật ra nhìn ảnh của nó ở nhãn căn, tức là
thấy hiện tượng giả lập, vì phân biệt được ý thức (biết) vật đó qua cảm
quan (chủ tri). Cái biết của cảm quan thì còn sai lầm, vì nhận hình ảnh
của sự vật cho là sự vật. Còn như dùng trực giác (không do cảm quan) mà
thể nhận ngay tánh không hay thể không của sự vật chiếm cứ không gian --
thì tánh không của (Tâm) trực giác và tánh không của vật là đồng một thể,
thì có gì phân biệt nữa. Lúc đó Tánh không (Hư không) là thiệt tánh giác
vì thiệt tánh giác là Hư không.
Sở dĩ nói Thiệt Hư không là nói đến đồng thể của Tướng không của sự vật.
Như thể không của chính Trực giác, Tánh giác hay Chơn tâm hay sự vật mới
thật là Hư không.
Còn thể không của hình ảnh của sự vật trong võng mạc mà ta thấy là không
thật là ảo ảnh. Cho nên Phật đã nói, Tánh Giác là Thiệt Hư không và Hư
không là Thiệt Tánh giác là ý đó. Ðó là Tánh Toàn Giác vì Tánh Giác có
nhiều bực như Tánh Giác từng phần... Tánh Giác toàn diện là Tự Tính Tuyệt
Ðối của Tâm, là Chơn Trí hay Chơn Tâm vậy.
III. PHÂN TÍCH BÁT NHÃ TÂM KÍNH QUA LĂNG KÍNH THỜI KHÔNG
A.- Chủ Thể Quan Sát:
Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thế khổ ách.
Quán Tự Tại Bồ Tát, chủ thể quan sát, hay hành giả, trong quá trình tư duy
sâu sắc (Trí quan sát) mới thấy được ngũ uẩn đều không, nên vượt qua mọi
khổ ách.
Hành thâm: tức qua một thời gian thực hành nghiền ngẫm với Trí rộng khắp
nhiều phương diện, lúc ấy mới thấy được ngũ uẩn đều không. Không ở đây là
hai giai tầng thực tại của Tánh Không. Tánh Không thứ nhất là Tướng Không
của ngũ uẩn (dung thể Không của ngũ uẩn chiếm trong không gian) tức là Tự
tính Tuyệt đối; còn Tánh Không thứ hai là không thật là nó nữa, là thực
tại giả lập do lịch trình huyễn hóa ngũ uẩn. Cho nên suy xét kỹ thì thấy
rõ mọi khổ ách (là quá khứ)-- khi ở thể không tuyệt đối (hư không)-- không
thể chạm vào hư không được dù hiện tại hay quá khứ. Còn ở thực tại giả
lập, khổ ách quá khứ thì hiện tại không còn nữa. Sự đau khổ đã qua đi,
chúng ta chỉ còn vương vấn trong ký ức và luôn lập lại bằng ảo giác âm
vang trong tâm thức mà thôi. Vậy khi hành thâm Trí Bát Nhã mới thấy thực
tướng của ngũ uẩn là Tánh không, nên hiện tại không có khổ ách nào còn vì
vậy đã vượt khỏi khổ ách rồi vậy.
B.- Ðối Tượng Quan Sát:
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không
tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.
+Sắc không khác Không, Không không khác Sắc :
Sắc và dung thể Không của Sắc là Một, cho nên Sắc không khác Tướng Không
của nó và Tướng Không của Sắc cũng không khác Sắc. Vì Sắc chiếm cứ không
gian và không gian dung chứa Sắc khắn khít nhau như Một, cho nên dung thể
Không của Sắc và Sắc là Một. Không nầy là Tự Tính Tuyệt Ðối.
+Sắc biến thành Không, Không biến thành Sắc:
Thí dụ: Ta nhìn Sắc ở thời điểm T1 thì qua T2 (1 sát na), ta thấy Sắc ở T1
không còn thật là Sắc ở T2 nữa. Nhưng ở T2 ta vẫn thấy Sắc ở T2 là thật,
dù ở T2 xem Sắc ở T1 không thật. Chẳng hạn, ông A ở T1,qua T2 thì lập tức
ô. A thêm ( T2-T1) tuổi nên ô. A T2 không phải là ô. A T1. Tuy nhiên, dù
ô. A ở T1 không thật là ô. A ở T2, nhưng ở T2 ta vẫn thấy ô. A ở T2 là
thật. Ðó là lịch trình huyễn hóa của Sắc qua Trí Phân Biệt; hay Sắc và
Không có Tự Tính Tùy Thuộc (theo Thời gian). Rồi đến Thọ, tưởng, Hành,
Thức đều giống như vậy.
Theo triết lý Duy Thức, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, là tiến trình tri
thức đúng thực tướng của ngũ uẩn hay vạn pháp. Tri thức đúng chủ tri sai
lầm vì chủ thể nhận thức bóng dáng của ngũ uẩn cho là ngũ uẩn thật. Tri
thức đúng chủ tri sai lầm đó là tự giác. Ngũ uẩn mà chủ thể nhận thức sai
lầm đó chỉ là ngũ uẩn giả lập. Tri thức đúng tự tính giả lập của ngũ uẩn
là giải thoát khỏi nhân duyên chằng chịt, luân hồi, sanh diệt của ngũ uẩn,
đối tượng, hay tha nhân nói chung, tức là giác tha. Vậy tri thức đúng thực
tướng của vạn pháp là con đường giải thoát mọi ràng buộc, sai lầm, nhân
duyên, luân hồi, khổ đau để đến bờ giác ngộ Niết Bàn tịch tịnh. Ðó cũng là
con đường tự giác và giác tha.
C.- Ðặc Tính Các Pháp.-
Xá LợI Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh,
bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành,Thức; vô
Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô
Nhãn GiớI, nãi chí vô Thức Giới; Vô minh diệc Vô minh tận; nãi chí vô Lão
Tữ diệc vô Lão Tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Ðạo; vô Trí diệt vô Ðắc.
a).-Tự tính tuyệt đối.
Các pháp không tướng là tánh không của các pháp có đặc tính như sau : Bất
sanh bất diệt, là bản tánh cố định vì các pháp thuộc vào tự thân nó, không
có tự tính giả lập hay tùy thuộc áp đặt lên nó, nên nó chính là nó, không
gì ngoài nó. Dung thể không của vạn pháp và vạn pháp là một. Tánh Không
của vạn pháp tức nhiên không sanh không diệt; Tướng Không (dung thể Không
luôn khắn khít với vạn pháp nên không thay đổi) thì không tăng không giảm.
Chất thể Không (Hư không) thì không tốt không xấu, không thiện không ác,
và không sạch không nhơ.
b.-Tự tính giả lập.
Tự tính giả lập là tự tính của thực tại kiến lập tự nhiên. Khi sự vật nhìn
thấy qua nhãn căn thì chỉ nhìn thấy hình ảnh của sự vật ở võng mạc của
nhãn căn mà thôi. Hình ảnh nầy được lăng kính hội tụ ở nhãn căn từ sự vật
bên ngoài không gian. Hình ảnh ấy tăng hay giảm tùy theo khoảng cách không
gian gần hay xa đối với chủ thể. Cơ quan cảm giác của mỗi người đều khác
nhau, cho nên cái thấy đó cũng có chỗ khác nhau. Vì là hình ảnh của sự vật
nên nó không thật. tự tánh giả lập cũng là tánh không. Tánh không ở đây có
hai nghĩa :
(1). Hình ảnh là thể không (không nắm bắt được, là hư không), khi hình ảnh
thay đổi thì thể không có sanh có diệt.
(2). Hình ảnh đó không thật là của sự vật, vì do giác quan con người nhận
thấy.
Tự tính gỉả lập còn gọi là Báo Thân, vì tự tánh nầy hay thay đổi theo thời
không, nên nó có sanh có diệt, có tăng có giảm.
c.-Tự Tính Tùy Thuộc.
Thực tại được hình thành do nhân duyên của thọ tưởng hành thức nên có tự
tính tùy thuộc. Hình ảnh của sự vật nầy ở trong tâm thức mà tâm (Ý) trực
nhận, cũng thay đổi luôn theo nhân duyên. Thực tại được nhận thức theo
quan niệm, làm cho ta thấy chất thể của hình ảnh sự vật có màu sắc, tốt
xấu, thiện ác, sạch nhơ v.v...Tự tính của sự vật nầy cũng là hình ảnh của
sự vật trong tâm thức tùy thuộc nhân duyên (lục dục, thất tình), nên chất
thể thay đổi theo môi trường sạch nhơ và sanh diệt theo thời gian. Tự tánh
tùy thuộc còn gọi là Hóa Thân.
Tóm lại, trong không gian (Hư không) có hai thế giới:
+ Thế giới gác ngộ, thì mọi sự vật đều có sáu đặc tướng không: không sanh
không diệt, không tăng không giảm, không sạch không nhơ. Ở tự tính tuyệt
đối, Tánh Không của sự vật : không sanh không diệt; Tướng Không sự vật:
không tăng không giảm; Chất Không sự vật : không sạch không nhơ.
+Thế giới mê vọng thì có sanh có diệt, có tăng có giảm, có sạch có nhơ. Ở
tự tính giả lập, tánh và thể của hình ảnh sự vật có sanh có diệt, có tăng
có giảm theo thời không. Ở tự tính tùy thuộc, tánh và chất của hình ảnh sự
vật có sanh có diệt, có sạch có nhơ tùy thuộc môi trường nhân duyên và
thời gian.
d.-Tính Vô ngã.
Do đó, trong Không hay tánh Không của ngủ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là tự tính Không của nó mà thôi, nên ngũ uẩn không có thực thể.Thường thì
Thân ngũ uẩn được con người tri nhận sai lầm là Cái Ngả của mình, kỳ thực,
thực tướng của ngũ uẩn là tánh không, nên ngũ uẩn vô ngã.
e.- Không gian tính :
+Nhân.
Tánh không của Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý của thân xác là thể không của
cảm quan. Lục căn là căn để chủ yếu tiếp xúc đối tượng trong không gian,
là nguồn gốc, là những chủng tử, khi có điều kiện, sinh ra các cảm giác.
Tánh không của lục căn tùy thuộc vào duyên mới phát sinh cảm giác, nên
chúng chỉ là tự tính giả lập.
+Duyên.
Tánh không của Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Lục trần cũng không có
thực thể; thật sự chúng là thực tại giả lập và chúng là những yếu tố
(duyên) tạo ra cảm giác và ý thức khi kết hợp với lục căn. Lục trần tùy
thuộc vào lục căn mới phát sinh ra cảm giác. Lục trần được xem là duyên,
nên chúng có tự tính tùy thuộc.
+ Quả.
Tánh không của Nhãn giới cho tớiThức giới. Lục Thức chỉ là Ý thức do Nhân
Lục căn, Duyên Lục trần kết hợp thành Quả là Lục thức. Nhân đã không có
thực thể, Duyên cũng không có thực thể, thì Quả làm gì có thực thể. Do đó
Lục thức là hiện tượng vô thường của tánh không, của tự tính tùy thuộc.
Lục thức là sự hiểu biết đối tượng Lục trần qua Lục căn của chủ thể, nên
lục thức được tri nhận sai lầm là Tâm. Theo đặc Tướng Không của vạn pháp,
thì Tâm hay Pháp tức chủ thể hay đối tượng đều không có thực thể. Tâm vô
thường, Pháp vô Ngả.
f.- Thời Gian Tính.
Tánh Không của thập nhị nhân duyên. Không có Vô Minh, không tận Vô Minh,
cho đến không có Lão và Tử, cho đến không có tận diệt Lão và Tử. Ðặc Tướng
Không của Vô Minh là tánh không, nên Vô Minh tự nó rỗng không vì nó là Tri
kiến mà Tri Kiến là một thực tại giả lập hay tùy thuộc vào nhân duyên áp
đặt lên nó. Có Vô Minh (Sanh) thì Không có Vô Minh (Diệt) là giai đoạn 1.
Không có Vô Minh (Diệt ), thì Không không có Vô Minh ( Sanh), là giai đoạn
2 và cứ như thế theo thời gian sanh, diệt, sanh v.v...; Có Lão và Tử
(Sanh), không có Lão và Tử (Diệt), là giai đoạn 1. Không có Lão và Tử
(Diệt), Không không có Lão và Tử (Sanh), giai đoạn 2, và cứ như thế chạy
dài theo thời gian vô tận. Ðó là Biện Chứng Nụ Hoa Quả của Hegel. Nụ tàn
thì Hoa trổ, Hoa rụi thì Quả sanh. Ðó là nhị bội phủ định. Hai lần phủ là
một quyết. Ðói thì ăn. Không đói thì không ăn. Không phải không đói mà
không ăn.
Nói tóm lại, Tánh Không của Thập Nhị Nhân Duyên là Tính Không duyên khởi
là lịch trình (thời gian) huyễn hóa sự vật mà thôi.
g.- Giải Kiến: Tánh Không của Tứ Diệu Ðế.
Tánh không của Khổ, Tập, Diệt, Ðạo được giải kiến bằng Thọ, Tưởng, Hành,
Thức.
Cảm thọ Khổ là quả, do Tập là Tưởng, là ký ức là nhân. Hành là Diệt là
quả, nên Thức là Ðạo là nhân. Con đường tri thức đúng của Khổ,Tập, Diệt,
Ðạo là Thực Tướng Không của Thọ, Tưởng, Hành,Thức. Tánh không của Tứ Diệu
Ðế cũng được giải kiến theo hai hướng của thực tại. Thực tại tương đối là
tính không của Khổ Tập Diệt Ðạo với Tự tính giả lập hay tùy thuộc. Còn
Thực tại tuyệt đối là tánh không của Thọ Tưởng Hành Thức với Tự tính tuyệt
đối.
h.- Giải Kiến: Tánh Không của Trí và Ðắc.
Chân Trí hay Chân Ðắc là thực tướng của Tri và Hành. Tri thức đúng (tự
tính tuyệt đối) là Chứng, là giác ngộ, mà giác ngộ mới thực hành đúng là
Ðắc. Chứng (Tri) và Ðắc (Hành) tự nó đầy đủ, là chân lý tối hậu, không có
gì áp đặt lên nó như dùng ngôn từ hay công ước. Như vậy Không Trí Không
Ðắc được giải kiến bằng Tướng Không (tuyệt đối) của Trí và Ðắc. Vì Trí và
Ðắc là thực tại giả lập, nên tri thức đúng thực thể của chúng tức là nắm
bắt tự tính tuyệt đối của chúng.
D.-Quả Ðạt Ðược.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, Tâm vô quái
ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo, mộng tưởng, cứu
cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, đắc A Nậu Ða La
Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Ða, thị Ðại thần chú,thị đại
minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết
khổ, chân thực bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Ða chú, tức thuyết chú
viết :
Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha.
(1).- Quả: Khi hành Trí Bát Nhã Cứu Cánh thì đạt được hai quả sau
đây :
a). Thoát khỏi khổ ách. (Thời gian huyễn hóa sự vật) Như ngay
khi chiếu kiến ngũ uẩn giai không của Bồ Tát Quán Tự Tại thì quả là thoát
mọi khổ ách.
Ngũ uẩn là thực tại kiến lập, là tánh không. Cho nên, Thọ (Sợ hải), Hành
(điên đảo), Tưởng (mộng tưởng) là tánh không hay là cái không thật có đó,
nên không có gì chướng ngại, liền vượt qua mọi sợ hãi, điên đảo, mộng
tưởng. Tri thức đúng tự tính giả lập là giải thoát mọi khổ ách, vì khổ ách
không thật có. Sắc tức thị không, và không tức thị sắc
b).-Giác ngộ Niết Bàn. (vô thời không)
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không trên bình diện tuyệt đối, tức ngũ uẩn và
không không khác, tánh không của ngũ uẩn là thể không của ngũ uẩn,là tự
tính tuyệt đối. Cho nên, thực hành Trí Bát Nhã Cứu Cánh là Tri thức đúng
thực tướng (thể không tuyệt đối) của vạn pháp, tức là con đường giải thoát
đến bờ giác ngộ Niết bàn, đến cứu cánh.
c).- Chứng Minh:
Các đức Phật ba đời, cũng hành trì theo pháp Bát Nhã Cứu Cánh đều chứng
quả Vô Thượng Giác.
Phật ba đời là Phật Tánh hay Tánh Không của Tự Tính Tuyệt Ðối. Vì ba đời,
là quá khứ đã qua không thật; vị lai chưa đến cũng không thật; hiện tại
không nắm bắt được: ba thời đều bất khả đắc. Ðó là Pháp Ðẳng Không. Trong
Kim Cang Tam Muội, phẩm 23, Phật dạy :
--Ðúng như lời Tu Bồ Ðề nói: Ðại Thừa đồng đẳng với hư không.
Như hư không không có phương hướng, chẳng phải dài vắn vuông tròn, chẳng
phải vàng đỏ trắng đen. Ðại thừa cũng như vậy.
Như hư không chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng cấu chẳng tịnh,
chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh chẳng diệt, không dừng thay đổi, chẳng
phải thiện hay bất thiện, ký hay vô ký, chẳng thấy nghe hay biết v.v...
Ðại thừa cũng lại như vậy. Thế nên Ðaị Thừa đồng đẳng với hư không.
--Tu Bồ Ðề! Ðúng như lời ông nói, hư không dung thọ vô lượng vô biên vô số
chúng sanh. Ðại Thừa cũng lại như vậy. Vì chúng sanh vô sở hữu. Do vì
chúng sanh vô sở hữu, hư không vô sở hữu, đại thừa vô sở hữu nên đều bất
khả đắc.
Vìû đến tất cả pháp đều bất khả đắc, nên đại thừa dung chứa và thọ nhận
tất cả ( vô lượng vô biên vô số chúng sanh ).
Vì tất cả các pháp bất khả đắc, nên trong quá khứ hiện tại vị lai, Thanh
Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Phật đều bất khả đắc. Thế nên trong ba đời
đều bình đẳng, vì tất cả đều bất khả đắc.
--Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát an trụ Bát Nhã Ba La Mật học tướng ba đời bình
đẳng, sẽ được nhứt thiết chủng trí.
--Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Ðối với Ðại Bồ Tát đại thừa an trụ
Bát Nhã Ba La Mật :
Quá khứ chư Ðại Bồ Tát học nơi đây được Nhứt Thiết Chủng Trí.
Vị lai chư Ðại Bồ Tát học nơi đây sẽ được Nhứt Thiết Chủng Trí.
Hiện tại chư Ðại Bồ Tát trong vô lượng vô số quốc độ 10 phương cũng học
được nơi đây mà học được Nhứt Thiết Chủng Trí.
--Bạch Thế Tôn! Nhứt Thiết Chủng Trí chính là Ðại Bồ Tát Ðại Thừa vậy.
--Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. (tr. 70-71)
Do đó trongba đời chư Phật (dùng Phật tánh hay Tánh không), hành trì theo
phép Bát Nhã Cứu Cánh đều chứng quả Vô Thượng giác (Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác) hay Vô Thượng Bồ Ðề tức là Nhứt Thiết Chủng Trí là Trí giác
tuyệt đối.
2.- Tán Tụng
Thế nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật, chính là thần chú vĩ đại nhứt, thần
chú chiếu minh, thần chú vô thượng, thần chú đẳng không hay tuyệt đỉnh,
chính là chân lý bất vọng, có năng lực siêu phàm tiêu trừ tất cả khổ nạn.
Ðó là lời tán tụng thành quả của hành trì Trí Bát Nhã Cứu Cánh.Thần chú là
kỷ thuật, phương pháp đi vào thực tính của vạn pháp. Ðó là pháp đại thần
diệu vì nó vĩ đại, tuyệt đối tác năng vô tận. Ðại minh chú là pháp Ðại
chiếu minh, giải trừ sự tối tăm (vô minh), dứt mọi phiền não kiến chấp.
Voâ Thượng chú là pháp vô thượng Bồ Ðề là chỗ giác ngộ của Phật, không còn
ai hơn nữa gọi là Vô Thượng; xa lìa tà vọng gọi là chánh,ngộ được chân lý
gọi là Giác. Phật tâm Vô Thượng Giác là phát tâm mong cầu trí giác vô
thượng, quả Phật cứu cánh. Vô Ðẳng Ðẳng chú tức là pháp đẳng không, học
tướng ba đời bình đẳng (Phật ba đời) sẽ được Nhứt Thiết Chủng trí. Hay Tâm
Vô Ðẳng Ðẳng cũng là Tâm Vô Thượng bồ Ðề trên Tâm Thinh Văn, Bích Chi Phật
và tất cả mọi thứ tâm. Cho nên Trí Bát Nhã Cứu Cánh là phương pháp diệt
trừ khổ ách, bởi vì phương pháp trí cứu cánh cũng là phương pháp tri nhận
đúng chân lý, không hư dối, tức là tri nhận tự tính tuyệt đối. Trí Bát Nhã
Cứu Cánh là Tri Thức Ðúng, tức là tiến trình nhận thức đúng thực thể, nên
giải thoát mọi sự hiểu biết sai lầm ràng buộc bởi nhân duyên chằng chịt,
khổ đau, luân hồi mà đến bờ giác ngộ Niết bàn. Ðó là kỷ thuật hay phương
pháp thiết thực như hành trì các pháp (thần chú) như pháp tuyệt đối vĩ
đại, pháp chiếu minh, pháp vô thượng, pháp đẳng không, chắc chắn sẽ giác
ngộ Niết bàn như hành trì Trí Bát Nhã Cứu Cánh vậy.
E.- Kết Luận.
Phật liền đọc (nói): Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ
Ðề Tát Bà Ha, là chấm dứt ngay mọi vọng tưởng, đạt cứu cánh niết bàn.
Thật ra nói đến thần chú--dù có nghĩa là kỷ thuật hay phương pháp--thần
chú là mật ngữ không cần biết tới nghĩa của nó.
Khi hành giả đọc thần chú, hành giả (chủ thể) nghe (biết) tiếng thần chú
(đối tượng). Nghe là năng tri, thần chú là sở tri. Còn chủ tri và khách
thể là còn nhị nguyên, đối đãi, nhân duyên chằng chịt. Như đã trình bày ở
phần trước theo quan điểm duy thức, là Tri Thức đúng cái tri thức sai lầm
đó (chủ thể cảm giác và đối tượng giả lập ) là quá trình giải thoát mọi
vọng tưởng điên đảo, đạt được cứu cánh niết bàn.
Vậy khi hành giả đọc câu thần chú xong thì năng sở song vong có nghĩa là
khi đọc thần chú tức là chủ thể đọc (nghe), thần chú (đối tượng), hành giả
ngay đó Biết được mình đang nghe âm thanh đọc. Bởi vì Biết được là trực
giác (do tâm, chứ không do cảm quan của chủ thể tri thức) được âm thanh
đó. Năng tri (đọc: phát ra âm thanh của chữ) là nghe âm thanh của thần chú
là do căn tai. Câu thần chú là tiếng được nghe (sở tri), nó là thực tại
giả lập. Cho nên dùng trực giác (tâm) nhận thức ngay thể không của chủ tri
và sở tri, tức là biến nhị nguyên (chủ khách) thành nhứt nguyên (chủ khách
đều không). Ðó là tri thức đúng thực tướng của tâm và vật.
Nói rõ hơn là khi hành giả đọc câu chú, ngay đó nhận Biết đang nghe âm
thanh đọc mà thôi. Vì lẻ, khi đọc dùng tánh nghe của căn tai (cảm giác)
chuyển cho trực giác từ tánh nghe đó mà thể nhận nơi thể không của của
tiếng đọc thần chú được nghe thành âm thanh. Do đó nghe đọc thần chú, nhận
Biết ngay đang nghe âm thanh đọc mà thôi.
Dù thần chú có nghĩa là--Vượt qua, vượt qua, đến bờ bên kia một cách nhanh
chóng-- nhưng hành giả chỉ cần thể nhận nơi thực tướng (âm thanh đọc) mà
không cần biết ý nghĩa của thần chú là ngôn ngữ giả lập.
Vậy khi đọc câu thần chú xong, ngay đó nhận biết tánh nghe mà thôi, đó là
đạt được Giác Ngộ viên mãn.
Nên nhớ rằng, Giác Ngộ nầy chỉ trong khoảnh khắc Tĩnh Giác, là Trực Tâm,
nên phải tiếp tục để được Thâm Tâm chí đến Bồ Ðề Tâm mới gọi là Giác Ngộ
Niết Bàn.
Vài thí dụ về thực hành Trí Bát Nhã Cứu Cánh. Ðó là,
Tri thức đúng cái Tri Thức sai lầm của chủ khách:
--Ðọc thần chú là Biết cái đang đọc thành tiếng; hay Biết đang nghe tiếng
đọc (chỉ nghe âm thanh, không cần hiểu nghĩa thần chú).
--Biết (Tâm) Cái mình biết (Năng Sở).
--Nhìn vào trong (thể không của sự vật), như Trực tâm là Tâm trực nhận nơi
thể không của sự vật.
--Hoặc giả, thực hiện Chân Trí
ngay nơi đối tượng hiện quán v.v (Giải lý chi tiết ở phần Thắp Sáng Hiện
Hữu)
---o0o---
Mục
Lục
Phần 1:
Chương 1 |
2 | 3 | 4 |
5
Phần 2:
Chương 1 |
2 | 3
|
Kết luận &
phụ trang
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Diệu Tường - Cát Tường
Cập nhật : 01-01-2003