|
Pak
Auk Forest Monastery
c/-
Major U Khan Sain (Rtd)
653
Lower Main Road
Mawlamyine,
Mon State, Myanmar
Tel:
032 22132
Web
site: www.paauk.org
Teacher:
Ven. Pa Auk Sayadaw
Rangoon
Contact:
U
Thet Tin
30
Myananda Lane
Kyank
Grove Quarter
Yankin
Township, Yangon
Method:
Pak Auk method of meditation |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
.
TRUNG
TÂM PA-AUK MIẾN ĐIỆN
(Tôi
tập Thiền)
Thích-Hạnh-Thức
|
|
(Click
vào ảnh để xem ảnh lớn hơn)
Vừa
qua, do đầy đủ nhân duyên, tôi được đi Miến-Điện (Myanmar/
Burma) 3 tháng để tu tập Thiền định tại trung tâm Pa-Auk.
Miến-Điện là một nước Phật-giáo Nam-Tông thuần thành.
Ngày nay, ranh giới địa dư không còn cách trở như xưa. Tây
Tạng có phương pháp phát Bồ-Đề Tâm và Kim Cang Thừa
cực mạnh, có thể một đời thành Phật. Các nước Phật-Giáo
Nam-Tông có Pháp môn thiền Tứ-Niệm-Xứ, Vipassana (thiền Minh
Sát) thanh lọc thân tâm, chứng đắc đạo quả, ngộ nhập
Niết-Bàn một cách dễ dàng. Xin ghi lại đây một vài nét
để trao đổi cùng quí vị đồng môn và quí Phật-tử.
Thích-Hạnh-Thức
"Không
cần phải ngồi theo thế kiết già đó, hoặc bán già. Vì
ngồi lâu trên 3 tiếng đồng hồ, chịu không nỗi đâu. Cứ
ngồi thoải mái như thế nầy, hai chân không cần chéo lên
nhau. Theo dõi hơi thở và điểm xúc chạm của hơi thở vào
ra nơi đầu mũi (nhân trung/ điểm rảnh trên môi trên). Chỉ
tập trung tư tưởng vào điểm xúc chạm đó mà thôi. Chỉ
khi nào đau chân quá chịu không nỗi mới đổi oai nghi (thế
ngồi). Trong khi đổi thế ngồi, vẫn chú ý đến điểm xúc
chạm…“ Vị Pháp sư người Miến-Điện nói như thế
bằng tiếng Anh và thầy Q.P. đã thông dịch lại. Đó là buổi
trình Pháp đầu tiên sau ngày chúng tôi đến đây.
Pa-Auk
là một trung tâm chuyên tu Thiền Vipassana (Thiền Minh Sát),
do Thiền sư Tawya Sayadaw hướng dẫn, toạ lạc tại Mawlamyine
Township-Mon State, Myanmar (Miến-Điện). Nhưng trước khi tu Vipassana,
Thiền sinh được hướng dẫn tu tập Thiền-chỉ (Samatha) cho
tới khi chứng được Tứ Thiền rồi mới chuyển qua. Thiền
có hai loại: Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana).
Muốn tu Thiền quán mau đạt kết quả thì phải tu Thiền chỉ
trước (1).
Mấy
ngày đầu, tôi ngồi rất khó khăn, hơi thở dồn dập, hổn
hển, đứt đoạn không đều; hai chân đau nhứt, tê buốt;
đầu óc mù mịt, rối bời, tán loạn, suy nghĩ miên man, hết
chuyện nầy đến chuyện khác; chẳng nhận ra được hơi thở
ở đâu cả. Mông lung, mơ hồ quá… Tôi thử tập theo cách
ngồi ở đây, 2 chân co lại, nhưng không chồng lên nhau. Tôi
cảm thấy 2 vai hơi chùng xuống, vì hai tay (để tựa lên hai
chân) phải xuống thấp hơn, và do đó, lưng hơi khòm, khó
chịu; đã vậy, hai chân vẫn cứ đau. Tôi không biết làm
sao. Vài ngày sau nghe mấy Thầy nói, ngồi thiền chỉ có ngồi
kiết già là nhất, vì đức Phật cũng ngồi như thế; tại
mình ngồi không được, chớ ngồi được thì cứ nên ngồi.
Có Thầy còn nói: ngồi kiết già một giờ bằng người ta
ngồi hai giờ. Vì thế tôi lại trở về thế ngồi kiết già.
Ngồi độ 15’, 20’ là tôi bắt đầu ngáp, cứ vài ba hơi
thở là phải đưa tay che miệng ngáp, nước mắt nước mủi
chảy ròng ròng. Cứ thế, tôi chịu đựng mỗi ngày 5 thời,
mỗi thời 1 tiếng rưỡi thật vất vả khổ sở…
"Thưa
Hoà-Thượng, đầu óc con cảm thấy mông lung mơ hồ, mịt
mù đen tối, chẳng cảm nhận được hơi thở“, tôi
thưa như vậy trong buổi trình pháp thứ hai với Hoà Thượng
Viện chủ (lần nầy không phải là vị Pháp Sư trước nữa).
Hoà Thượng nói: "Nếu thế thì tôi sẽ dạy Thầy cách
quán Tứ Đại (đất, nước, gió, lửa). Nhưng…
(HT ngập ngừng một lát), phương pháp quán hơi thở nầy
tốt hơn. Thầy cố gắng đi. Để ý đến hơi thở. Nếu không
thở thì… chết sao?“ (HT cười).
Lần
trình pháp sau, tôi thưa:"Thưa HT, con vẫn chưa cảm nhận
được hơi thở; đầu óc nghĩ ngợi lung tung, đôi khi nó kéo
con đi thật xa, chìm đắm trong những vọng niệm. Con phải
mở mắt, vì nhắm mắt lại là buồn ngủ…“Vậy Thầy đếm
hơi thở. Thở vào đếm một, thở ra đếm hai… hoặc thở
vào đếm một, thở ra đếm một; vào hai, ra hai… đếm tới
8 rồi trở về một, một; hai, hai… Nhớ theo dõi hơi thở,
tập trung vào điểm chạm. Phải tập trung vào điểm đó suốt
ngày, trong khi đi đứng nằm ngồi, bất kể lúc nào…“.
Nghe
lời chỉ dạy, tôi cố gắng đếm hơi thở, nhưng cứ lộn
hoài, chỉ đếm được vài ba hơi rồi lại chạy theo những
ý nghĩ vẫn vơ; có lúc vọng niệm và đếm số chồng chéo
lên nhau, vừa suy nghĩ vừa đếm; cặp mắt không biết để
đâu, mở hay nhắm; cái thân cựa quậy hoài không yên, nhất
là hai chân cấn cái đau nhức, độ 15’, 20’ phải đổi
thế ngồi. Thời Thiền trôi qua một cách nặng nề, cứ mong
sao cho mau chóng hết giờ…
Hoà
Thượng sắp đi Mỹ an cư kiết hạ 3 tháng tại đạo tràng
chi nhánh bên đó. Trước khi đi, Hoà Thượng có nhã ý muốn
chúng tôi trình Pháp với ngài mỗi ngày. Và vì Thầy T.T. Anh
ngữ không được lưu loát lắm, nên Hoà Thượng cho gọi Sư
Cô Liên-Tường lên thông dịch. Sau khi Hoà Thượng đi Mỹ
rồi, cô vẫn tiếp tục thông dịch cho chúng tôi mỗi tuần
2 lần cho tới giờ phút chót. Đây quả là một may mắn lớn
cho chúng tôi. Có lẽ cô muốn đền đáp phần nào ân nghĩa,
vì trước đây khi còn học ở Ấn Độ cô đã nhận được
học bổng chùa Viên Giác qua Sư Phụ tôi.
Cô
Liên Tường thuộc hệ phái Khất Sĩ, đã tốt nghiệp tiến
sĩ Phật-học tại Ấn Độ. Thay vì về nước công tác Phật
sự, cô lại qua đây tu tập đã hơn 2 năm nay. Tôi có hỏi:
sao học xong không về nước nhận chức vụ, mà lại qua đây?
Cô bảo: ở tu một thời gian đã; chưa chứng đạt được
cái gì, về nước rủi phiền não ập đến, làm sao chống
đỡ? Tôi thầm cảm phục cô đã khéo lựa chọn, vừa biết
học vừa biết tu. Nếu không có thực tu, ra làm việc đạo
dễ đem phiền não tới cho người khác lắm…
Tôi
ở Kuti (thất) số 51, giữa đường đi lên Thiền đường
lớn trên đỉnh núi. Các Kuti đa phần bằng nhau, diện tích
độ 3m x 3m, có giường, 1 cái tủ nhỏ, 1 cái bàn thấp và
1 vòi nước để đánh răng rửa mặt. Cũng có vài Kuti lớn
hơn, được xây khuất trên núi cao, đa phần là của các vị
có hảo tâm, xây cất cúng dường, hoặc mỗi năm chỉ về
tu vài tháng thôi.
Khí
hậu rất tốt, mát. Ban đêm có khi xuống còn 15, 18 độ C.
Chỉ hơi phiền là nhà cửa ở Myanmar trên 90% là lợp bằng
tôn; mà ánh nắng ở đây thật là chói chan gay gắt; bị các
mái tôn dội lại, hắt hơi nóng vào, chịu không nỗi. Mồ
hôi ra nhuể nhại, mỗi ngày phải thay vài ba cái áo may-dô.
Ban ngày nóng bức nhưng từ 5 giờ chiều bắt đầu mát. (Nếu
nhà cửa ở đây được lợp bằng ngói như ở Việt Nam, thì
sống thoải mái lắm…). Ở đây một năm có 3 mùa, mùa nắng
từ tháng 2 đến cuối tháng 5, mùa mưa từ tháng 6 đến cuối
tháng 9 và mùa lạnh từ tháng 10 đến cuối tháng 1.
Tuy nhiên thời tiết có thể thay đổi xê dịch, như chúng
tôi đang ở vào mùa nắng cuối tháng 4 thế mà đã bắt đầu
vào mưa.
Có
một điều tôi cho là trùng hợp rất ngẫu nhiên. Cái sân
nhỏ xung quanh thất tôi ở -mà tôi có bổn phận quét
dọn sạch mỗi ngày- rể cây trồi lên chắn lối, chạy ngang
dọc lung tung, làm trở ngại cho việc quét lá, mất nhiều
thì giờ rất bực mình. Những rể cây nằm ngang dọc nầy
cũng giống như đầu óc suy nghĩ rối bời chằng chịt của
tôi hiện giờ. Tôi liên tưởng đến bài Pháp Tảo Địa Đức
Phật đã dạy cho người đệ tử hay quên, tâm trí không được
định. Rác là những phiền não, vọng niệm. Quét rác là quét
đi những phiền não. Người ta quét độ 15’ là xong, còn
tôi phải mất gấp đôi thời gian. Mỗi lần cầm cây chổi,
nhìn những rể cây chạy ngang dọc, tôi lại bực mình. Tôi
không biết phải làm sao quét cho sạch, nhanh. Sao mình "xui“
quá, ở trúng cái thất "trời ơi“ thế nầy? Phải làm sao?
Đây là một bài học rất tốt cho tôi. Tôi suy nghĩ mãi, cuối
cùng cũng tìm ra được một phương án để giải quyết vấn
đề nầy: thay vì quét, tôi ngồi nhặt từng chiếc lá bỏ
vào thùng rồi đem đi đổ. Vừa sạch, vừa gọn nhanh,
lại đở bực mình. Nhưng… hãy coi chừng! Đang ngồi nhặt
từng chiếc lá bỏ vô thùng, tôi bỗng giựt mình. Tay tôi
vừa chạm phải vật gì mềm mềm, trơn trơn, ướt ướt.
Tim tôi đập mạnh. Tôi giựt tay lại nhanh, thảy vội chiếc
lá vừa nhặt, trố mắt nhìn kỹ trước mặt. Một chú nhái
màu xanh đậm, da trơn láng đang nằm thu mình núp trong kẻ
đá nhìn ra. Hú hồn! Hình như chú đã "cư ngụ“ ở đó từ
lâu, dưới chiếc lá khô. Nhìn chú tôi đỡ sợ hãi nhưng
cũng một lác sau mới lấy lại được bình tĩnh. May quá,
chỉ một chú nhái, rủi một chú rắn hay rít thì sao? Thì
ra nhặt lá -hay nhặt những phiền não- không phải là dễ.
Nhất là đối với những phiền não lâu đời, thâm căn cố
đế nằm sâu che khuất, nguỵ trang khéo léo bằng mọi cách…,
nếu không cẩn thận sẽ rất nguy hiểm…
Chiều
hôm nay trời chuyển mưa thật lâu. Mây đen ùn ùn kéo đến,
gió thổi tứ tung, sấm chớp gầm gừ suốt buổi. Đến sẩm
tối mới bắt đầu mưa, trận mưa đầu tiên trong mùa. Những
hạt mưa nặng hạt rơi lốp đốp rào rạt trên mái tôn, rả
rích kéo dài suốt đêm. Điện cúp từ lâu. Tất cả
chìm trong bóng đen như mực. Tôi nằm nghe mưa rơi nỉ non buồn
bã, nghĩ về cuộc đời lang bạc. Ngọn gió nào đã mang tôi
đến đây? Thật là một sự bất ngờ, không định trước.
Tôi nghĩ đến những người thân, anh chị em, cha mẹ... Má
tôi, một người đàn bà hiền thục, suốt đời chỉ biết
gầy tạo sự nghiệp cho chồng con; đã lìa nơi thôn dã, từ
bỏ nếp sống thanh bần ra thành phố theo nhiệm sở của cha
tôi. Từ đó, chúng tôi cũng xa dần những điệu ru ngày nào
người
đã thường ru chúng tôi vào mộng:
Ầu
ơ…
Chiều chiều ra đứng ngã sau,
nhớ về quê mẹ… à… ruột đau… chín chiều
Ầu ơ…
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống đông đông tịnh…à…lên đoài...à… đoài… ư…
yên
Ầu ơ…
Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy… ư… ra
một lòng thờ mẹ kính cha
cho tròn chữ hiếu… à… mới là… đạo…ư… con…
…
Có
lẽ nhờ những điệu ru đó (hay là do "chủng tử“ của cha
tôi?) mà anh chị em chúng tôi đều có một chút vốn liếng
về âm nhạc. Bài hát một thời vẫn còn vang vọng trong tôi:
Ngày
còn thơ nằm trên võng đưa mơ màng,
lòng
hằng mơ bao nhiêu giấc mơ huy hoàng
cuộc
sống êm trôi, từng cánh hoa đời, sắc màu thắm tươi…
Mẹ
hiền xưa ngày nay đã xa xôi rồi,
lời
mẹ ru khi xưa vẫn nghe muôn đời…
nhịp
võng ngày xanh
còn
thắm lòng tôi… (2)
Tôi
nhớ đến cha tôi, người suốt đời gương mẫu, tận tuỵ
trong công việc tại nhiệm sở, lúc nào cũng nghiêm nghị không
một lời dởn đùa với các con; đến chị em tôi, những người
thân và những người thương. Tôi đã tạo ra những lỗi lầm,
làm khổ rất nhiều người. Tôi vốn là một đứa con ngỗ
nghịch bất hiếu, một người thân tồi. Giờ đây tôi rất
ăn năn hối hận. Tôi chắp tay, xin được sám hối. Hãy tha
thứ cho tôi những lầm lỗi dại khờ! Cha mẹ nay không còn
để cho con được săn sóc hầu hạ; các chị em tôi mỗi người
mỗi ngã, không còn trong một mái nhà êm ấm như xưa
để tôi có thể trao những cử chỉ dịu dàng, những lời
êm dịu. Thời gian ơi, làm sao quay trở lại thủa ấu thơ,
nơi những người thương yêu đang quây quần dưới mái nhà
êm ấm! Trong một góc rừng hẻo lánh cô quạnh của xứ Miến
Điện huyền bí, tâm tôi đang thổn thức hướng về những
người thân…
Trời
càng về khuya càng lạnh, tôi choàng dậy lấy thêm đồ ấm
ra mặc. Cái lạnh của đêm trường làm cho lòng tôi se lại.
Đâu đây vọng lại vài tiếng kắc kè như nguyền rủa oán
trách cuộc đời đen bạc: "đách cần, đách cần…“, sau
một hồi nghiến răng dài, làm tôi chạnh nghĩ đến những
mãnh đời lang bạt, thiếu thốn, nghèo khổ, đang co ro trằn
trọc trong đêm trường, chờ cho trời sáng để bắt đầu
một ngày lao động mệt nhọc mới. Tiếng con thằng lằn chắp
miệng ngậm ngùi… Tôi thắp ngọn nến, đọc tiếp cuốn
Khảo Nghiệm Duy Thức Học. Vâng, cuộc đời chẳng qua là
những chuổi dài nhân quả nghiệp báo. Chúng ta đã trôi lăn
từ bao nhiêu kiếp và sẽ còn mãi đến bao giờ? Vạn vật
và thế giới là những ảnh tử của thế giới Chân Như,
ảnh hiện qua lớp màng vô minh nghiệp tướng (3). Tôi đang
cố sức trở về lại nơi chốn từ đó tôi đã xuất
thân …
Có
một buổi sáng tôi ngồi thiền không yên. Lúc xả thiền,
mặt mày xây xẩm, tái xanh, phải ngồi lại nghỉ một lúc
lâu. Buổi trưa tôi cố gắng ăn nhưng nuốt không vô. Chiều
lại, bị ói mữa. Hai Thầy hàng xóm chạy qua đở tôi lên
giường. Độ 15’ sau có Thầy T. Trí và T. Lưu lại, cạo
gió và giác hơi cho tôi. Thấy tôi mữa, Thầy bảo tôi uống
nước muối pha loãng, và tôi lại mữa thêm một trận nữa;
cơ thể mệt đừ suốt tuần lễ sau đó. Tôi nhịn đói ít
ngày để chữa bệnh, thanh lọc cơ thể…
Năm
ngày tết tại Miến Điện (từ 13-4 đến17-4-06) Trung Tâm lại
đón nhận một số lượng Phật tử khá đông, có ngày lên
đến cả ngàn người. Một số tham quan và số khác đến
tu học; đa phần là những người trẻ, từ những thành phố
lân cận, mặt mày trông sáng sủa, khác với dân địa phương.
Đó là tục lệ của dân Miến. Ngày Tết, ngày nghỉ, họ
vào chùa tu (còn dân mình, những ngày nghỉ họ làm gì ?!).
Thiền
đường lớn trên đỉnh núi cao tu bổ tạm xong, được xử
dụng để tiếp đón số lượng người đến tu tập đông
đảo đó. Họ ngồi đầy cả thiền đường. Tất cả đều
yên lặng không một lời nói. Từ ban-công tầng hai của Thiền
đường tôi được ngắm cảnh mặt trời lặn đẹp tuyệt
vời, với dòng sông bạc nhấp nhô phía dưới; bên trên, một
quả cầu đỏ tươi đang lần lần chìm xuống sau dãy núi
lam xa tít; trên nền trời là những tia ráng đủ màu sắc
và núi rừng bao la một màu xanh thẩm bao quanh. Thật là một
cảnh đẹp thần tiên!...
"Tôi
qua đây đã được hơn 2 năm rồi. Lúc đầu chỉ định qua
tu tập vài tháng rồi về, đã tu ở Shwe Min (Trung Tâm Siêu-Minh)
tại thủ đô Yangon 6 tháng, sau mới lên đây. Thấy người
ta tu hành đàng hoàng, giới đức trang nghiêm, đạo tràng thanh
tịnh, tôi thích quá. Tôi đã suy nghĩ, dằn vặt rất nhiều,
đến nỗi phát bệnh. Không lẽ mình cứ phí bỏ cuộc đời
tu hành như trước đây mãi sao? 16 năm rồi, đã quá đủ!
Và tôi đã đi đến quyết định, bắt đầu làm lại từ
đầu.Tôi đã xin thọ giới lại, đổi màu y, chuyển qua Nam
Tông. Chuyến về Việt Nam lần đầu, tôi đã mặc lại chiếc
áo tràng nâu; khi qua lại tôi cởi chiếc áo tràng ra, thay y
Nam Tông vào. Nhưng sau đó tôi bị dằn vặt vì nếu làm vậy
là không thành thật với chính mình. Nên lần về sau tôi không
còn đổi màu áo nữa“…
Người
tu sĩ trẻ trên dưới 40 ngồi đối diện với tôi, người
nhỏ thó, gương mặt đăm chiêu, đôi mắt sáng, giọng nói
nhẹ nhàng, từ tốn. Tôi ngồi nghe anh tâm sự. Từng lời
nghẹn ngào phát ra tự đáy lòng sâu thẳm. Tôi thông cảm
với anh, anh rất có lý trong sự lựa chọn đó; nhưng lòng
không khỏi dằn vặt xót xa...Trên đời nầy có những cái
đẹp, mỗi địa phương đều có một sắc thái, mỗi truyền
thống đều có cái hay riêng. Mình đi là để học hỏi những
cái hay, cái tinh-hoa của người để về làm giàu, bổ túc
những khiếm khuyết của truyền thống mình. Phật giáo có
nhiều truyền thống, truyền thống Trung Quốc, truyền thống
Tây Tạng, truyền thống Nam Tông. Việt Nam, Nhật Bản, Đại
Hàn theo truyền thống Trung-Quốc. Thầy tổ chúng ta đều xuất
thân tại đó. Tôi đã đi nhiều nơi, trong đó có Trung Quốc,
Nhật-Bản, Thái-Lan, Ấn-Độ…; thấy không nơi nào có nền
văn hoá cao bằng Trung Quốc. Dĩ nhiên là hiện nay có nhiều
vấn đề, đặc biệt là sau khi chế độ Cộng Sản đã đi
qua Trung Quốc và Việt Nam. Trong một bài giảng tại Việt
Nam trong chuyến về nước vừa rồi, H.T. Nhất Hạnh cũng có
đề cập đến vấn đề nầy (4). Trước đây Thái Hư đại
sư đã làm cuộc cách mạng canh tân Phật giáo, nhưng không
thành công. Nếu ngài có cơ duyên qua đây tham cứu, chắc là
vấn đề đã khác… (nếu có dịp, tôi sẽ đề cập đến
vấn đề nầy sau).
Quả
thật đạo tràng ở đây thanh tịnh thật. Mọi người
đều cao ráo, mặt mày sáng sủa, trầm tĩnh, lúc nào cũng
như nở nụ cười. Họ yên lặng, để tâm vào việc tu tập,
không nói năng ồn ào tán loạn. Họ đắp chỉ một màu y,
màu gạch đậm. Trông họ hình như đã chứng được cái gì
rồi. Dự lưu? A La Hán? Trung Tâm chiếm hữu cả một khu rừng
núi to lớn. Có hai "xóm“, xóm trên và xóm dưới, cách nhau
chừng 2 Km. Xóm trên nằm ở trong rừng, dành cho chư Tăng,
khoảng độ 500 vị; xóm dưới dành cho các tu nữ, độ trên
300 người; và độ vài chục vị cư sĩ (Ở Miến và các nước
Nam Tông khác không có Tỳ Kheo Ni, chỉ có các Tu Nữ thọ trì
8 giới Bát Quan Trai mà thôi).
Thời
khoá biểu hằng ngày như sau:
3g30
sáng : thức dậy
4g00-5g30
: ngồi thiền
6g00
: ăn
sáng (và sau đó làm vệ sinh, quét dọn, giặt rửa)
7g30-9g00
: ngồi thiền
9g00-11g00
: trình Pháp
11g00
: quá đường (ăn trưa,
dưới hình thức khất thực)
13g00-14g30:
ngồi thiền
14g30-15g30:
thiền hành
15g30-17g30
: ngồi thiền
17g00-18g00:
trình Pháp hoặc thiền hành
18g00-19g30:
nghe giảng Pháp hoặc nghe băng (bằng tiếng Miến)
19g30-21g00:
ngồi thiền
Một
ngày tổng cộng 5 thời ngồi Thiền, vị chi là 7 tiếng rưởi.
Pháp môn tu ở đây -cũng như hầu hết các nước Nam Tông-
là thiền Tứ Niệm Xứ và Vipassana. Tứ Niệm Xứ thì
lấy niệm thân làm chính, căn cứ theo kinh Quán Niệm
Hơi Thở (tức An Bang Thủ Ý/ Anapanasati). Kinh nầy được Đức
Phật dạy cho các Tỳ Kheo để tu tập Thiền định:
…“Thở
vào một hơi dài, vị ấy biết “ta đang thở vào một hơi
dài”;
Thở
ra một hơi dài, vị ấy biết “ta đang thở ra một hơi dài”;
Thở
vào một hơi ngắn, vị ấy biết “ta đang thở vào một hơi
ngắn”;
Thở
ra một hơi ngắn, vị ấy biết “ta đang thở ra một hơi
ngắn”;
“Cảm
giác toàn thân hơi thở, ta sẽ thở vào”, vị ấy tập như
vậy;
“Cảm
giác toàn thân hơi thở, ta sẽ thở ra”, vị ấy tập như
vậy;
“An
tịnh thân hơi thở, ta sẽ thở vào”, vị ấy tập như vậy;
“An
tịnh thân hơi thở, ta sẽ thở ra”, vị ấy tập như vậy…
…….
(5).
Làng
Mai cũng lấy kinh nầy làm căn bản cho việc tu tập chánh niệm.
Hoà Thượng Nhất Hạnh đã khai triển ra thành một bài kệ:
“Vào…,
ra…,
sâu…,
chậm…,
khoẻ…,
nhẹ…,
lặng…,
cười…”
Nghĩa
là thở vào thì nói (nhẩm thầm) “vào”; thở ra thì
nhẩm
“ra”; thở vào sâu thì nhẩm “sâu”; thở ra chậm
thì nhẩm “chậm”…
Nhưng
bí quyết ở đây là tập trung tư tưởng vào điểm xúc
chạm (Nhân-Trung) và như vậy dễ vào định hơn (6). Nếu
mình tu tập giỏi, có thể một ngày là thấy được Tâm-ảnh
(nimitta); hoặc trể thì một tuần, 3 tháng… tuỳ theo mỗi
người. Thấy được nimitta rồi là sắp vô Sơ Thiền. Từ
Sơ Thiền tới Tứ Thiền (cõi sắc), cần khoảng vài ngày
tới một tháng (cô L.T. từ khi thấy nimitta cho đến khi đi
hết Tứ Thiền mất 8 ngày). Từ Tứ Thiền (cõi Sắc), nếu
mình muốn, có thể đi tiếp lên cõi Vô Sắc (Không-Vô-Biên-Xứ,
Thức-Vô-Biên-Xứ, Vô-Sở-Hữu-Xứ, Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ).
Nhưng thường thường, để khỏi phí thì giờ, tu tới Tứ
Thiền họ sẽ dạy cách chuyển qua Vipassana để có được
Minh Sát Tuệ, thấy rõ Danh, Sắc, chứng được Vô Thường,
Vô Ngã, Khổ (chiếu kiến ngũ uẩn giai không). Chứng trên
sự thể nghiệm, chớ không phải trên lý thuyết suông. Đức
Phật cũng thường dạy, không phải do nghe và tư duy suông
mà chứng ngộ được (7). Rồi từ đó mình mới có thể buông
bỏ hết để chứng đắc đạo quả và ngộ nhập Niết Bàn…(Xem
bài chi tiết về pháp môn tu ở đây của Sư Cô Liên Tường
trong số nầy).
Thật
là dễ tu, rõ ràng từng bậc thứ lớp, chứng tới đâu là
biết tới đó. Mỗi ngày đều phải trình Pháp. Mỗi lần
trình Pháp là một lần học hỏi thêm kinh nghiệm của các
bạn đồng tu, và vị Pháp sư sẽ biết mình đang ở đâu.
Đạo tràng đông như vậy nên có nhiều vị Pháp Sư để mình
trình (4, 5 vị). Khi gặp vấn đề gì các vị ấy sẽ bày
cách cho mình giải quyết.
Về
chế độ ăn uống, mỗi ngày chỉ ăn hai buổi, 6 giờ sáng
và 11 giờ trưa, theo lối khất thực (tất cả các nước
Nam Tông đều không dùng cơm chiều, nhưng được quyền ăn
mặn). Ở đây Hoà Thượng áp dụng
chế độ ăn chay. Đến giờ ăn,
tất cả mang bình bát sắp hàng theo tuổi hạ trước sau, đi
một vòng ngang qua phòng ăn theo lối khất thực, họ bỏ gì
thì ăn nấy. Các cư sĩ và nữ tu sắp làm hai hàng đứng hai
bên để bỏ thức ăn vào cho chư Tăng. Vừa nhanh vừa gọn.
Có điều mình không thể lựa chọn được thức ăn mình thích
hay không thích. Ngày nào cũng hình như chừng đó món ăn quen
thuộc và một ly nước (trà sửa, cà phê, hoặc sửa đậu
nành…). Đặt biệt có hai nồi cơm riêng, một nồi gạo
lứt và một nồi cơm trắng. Đi một vòng nhận thức ăn
rồi ai về vị trí nấy, ngồi theo chỗ quen thuộc của mình
mỗi ngày; hoặc ngồi bệt xung quanh thiền đường (từng 1
và từng 2), hoặc xuống dưới tầng hầm ngồi bàn bưng bình
bát ăn (thường là dành cho các vị khách tăng người Tây
Phương và… Việt Nam như chúng tôi)…
Trước
đây tôi cũng có tập qua Thiền, nhưng không đi tới đâu,
vì mỗi ngày chỉ ngồi được ½ tiếng hoặc tối đa là 1
giờ. Và theo phương pháp đuổi vọng: “vọng tới bỏ,
không theo; vọng tới bỏ…” Nhưng vọng cứ tới hoài,
làm sao hết vọng được? Thành thử tu một thời gian lâu
rồi chán, không tu nữa. Nay học được Pháp-môn nầy, rõ
ràng minh bạch, lại rất dễ tu, tôi rất thích nên cố
gắng đặt hết tâm trí vào đó. Theo thời khoá biểu, và
nhờ lực của đại chúng, lần lần tôi vượt qua được
những khó khăn tưởng như chẳng bao giờ vượt qua nỗi. Lúc
đầu tôi phải đổi thế ngồi 5, 6 lần, tay chân nhức mỏi,
đầu óc rối vùi như cục chỉ. Dần dần ngồi yên được
lâu, không còn cựa mình nhiều, ít đổi thế. Bốn lần, ba
lần, hai lần và sau cùng là không còn đổi thế nữa, ngồi
suốt buổi theo thế kiết già. Thân từ từ yên, tâm cũng
bớt giao động. Tôi đã tập trung được nhiều vào hơi thở,
cảm giác được điểm chạm. Đôi mắt không còn trở ngại
nhiều nữa. Tôi tập nhìn mà không thấy, chỉ tập trung
vào hơi thở (sau nầy tôi nhắm hẳn lại được,
theo cách tu ở đây).
Có
những lúc, sau khi đạt được một ít tiến bộ, thân tâm
đã yên ổn không còn cựa quậy nhiều, bỗng dưng tôi bị
khựng lại. Đầu óc trống rỗng, chai lì, dậm chân tại chỗ
không biết bao lâu!... (Sau nầy tôi nghiệm ra, có lẽ do ảnh
hưởng sức khoẻ). Trong những ngày ở đó, tôi đã 2 lần
bị bịnh. Lần đầu bị ói mữa, và lần sau bị tiêu chảy.
Mỗi lần như vậy, mệt cả tuân lễ. Lỗ mũi thường hay
bị nghẹt, không tập trung tư tưởng vào điểm chạm được.
Tai vì thiếu vận động, vì sức khoẻ yếu nên bị ù. Có
những lúc muốn bỏ cuộc, nhưng nhờ lực của đại chúng
thúc đẩy, nên tôi mới cố gắng vượt qua được. Thật
là một thành công lớn…
“Thưa
Thầy hôm nay con ngồi rất là yên. Độ 20’ sau thì thấy
tia sáng loé lên. Lúc đầu chỉ một đốm chớp, sau nhiều
lần, và cuối cùng sáng ngập cả toàn thân…” “Tốt,
anh hãy tập trung vào điểm xúc chạm, đừng để ý đến
nó. Khi nào ánh sáng gom lại một điểm nơi điểm xúc chạm
thì lúc đó anh mới có thể theo nó…”.
Những
lời khuyên của vị Pháp Sư làm cho chú TL và tất cả chúng
tôi đều hoan hỷ ghi nhận để tu tập…
Thời
gian rồi cũng qua nhanh, thấm thoát đã đến ngày chúng tôi
phải về lại Đức. Những ngày ở Trung Tâm Pa-Auk thật nhẹ
nhàng an lạc. Trước khi đi, Sư Phụ và các Thầy trong chùa
Viên Giác đều lo ngại, sợ tôi không theo kịp thời khoá
gắt gao hằng ngày ấy. Nhưng thấy tôi nhất quyết, người
cũng chìu theo và nói: “ừ thôi thì cứ thử đi, hy vọng
lúc trở về sẽ có một chú Phật con!”. Lời tiên đoán
đó nay hình như đã trở thành sự thật vì lúc đi ba người,
lúc về chỉ còn có hai. Một người đã tình nguyện ở lại
tiếp tục tu: chú T.L.! Thật là một chuyến đi đặc biệt,
bổ ích, khó quên. Tôi đã học được rất nhiều trong chuyến
đi nầy: một pháp môn vi diệu, một đạo tràng trang nghiêm
thanh tịnh, một đất nước xanh tươi tràn ngập chùa chiền
và một dân tộc thuần thành hiền hoà chất phát…
Ghi
lại tại chùa Viên-Giác Đức-Quốc ngày 21-6-2006
Hạnh-Thức
(1)-
sách “Giác niệm về hơi thở”
của Ajahn Buddhadasa, Thiện Nhựt phỏng dịch, in tại Canada
(2)-
“Nhip võng ngày xanh”, thơ Thanh-Nam, nhạc sĩ Hoàng-Trọng
phổ nhạc
(3)-
sách “Khảo nghiệm Duy Thức Học” Thích Thắng Hoan tái bản
lần thứ hai 1998, Đường Sáng Printing, CA 95112 .
(4)-
bài Pháp Thoại ngày 13-03-05 tại chùa Từ Hiếu Huế của HT
Nhất Hạnh; (Lá Thư Làng Mai số 29 ngày12-01-2006)
(5)-
sách ”biết và thấy (knowing and seeing”) Hoà Thượng Thiền
Sư Pa-Auk Tawya Sayadaw, Tỳ Kheo Pháp Thông dịch, bài giảng số
1 tại Đài Loan; hoặc:
-
xin xem đầy đủ chi tiết bản Kinh nầy trong cuốn “Giác
Niêm Hơi Thở” đã dẫn, phần phụ lục.
(6)-
“không nên theo dõi hơi thở đi vào trong thân hoặc đi ra
khỏi thân vì làm như vậy, hành giả sẽ không thể hoàn thiện
được định của mình. Chỉ cần ý thức rõ về hơi thở
ở chỗ nó chạm vào hay tiếp xúc dễ nhân ra nhất,
hoặc ở môi trên hoặc quanh lỗ mũi” (sách Biết Và Thấy
đã dẫn); hoặc: - chỉ cần trú niệm (tức là biết)
ở nơi chót mũi hay môi trên là nơi hơi thở ra vào. Như người
thợ cưa cây xẻ gỗ, sau khi lấy mực xong, không cần để
ý tới lưởi cưa đi xuống sâu hay cạn, chỉ chú ý đến
lằn mực, chỗ lưỡi cưa lên xuống, điều chỉnh sao cho lưởi
cưa không ra khỏi lằn mực ấn định (sách”Tìm hiểu pháp
giác ngộ” tỳ kheo Minh Chánh, trang 63, NXB Tôn Giáo 2004)
(7)-
Xin trích dẫn một đoạn trong kinh Hoa Nghiêm: Thiện Tài đồng
tử hỏi: “Môn giải thoát nầy làm sao hiện tiền? lam sao
chứng đắc? Diệu Nguyệt trưởng giả đáp: “Một người
thân chứng hiện tiền môn giải thoát nầy khi nào người
ấy khởi tâm Bát Nhã Ba La Mật và cưc kỳ tương thuận; rồi
thì người ấy được chứng nhập trong tất cả những gì
mà mình thấy và hiểu. Thiện Tài đồng tử lại thưa: “có
phải do nghe những ngôn thuyết và chương cú về Bát Nhã Ba
La Mật mà được hiện chứng?” Diệu Nguyệt đáp: “Không
phải. Tại sao thế? Bởi vì Bát Nhã Ba La Mật thấy suốt
thể tánh chân thật của các pháp mà hiện chứng vậy”.
Thiện Tài thưa: “Há không phải do nghe mà có tư duy, và do
tư duy và biện luận mà được thấy Chân Như là gì? Và há
đây không phải là tự chứng ngộ?” Diệu Nguyệt đáp:
“Không phải vậy. Không hề do nghe và tư duy mà chứng ngộ
được….”
Website
của Thiền Viện:http://www.paauk.org
Đọc
Thêm:
Thiền
Lâm Pa-Auk, Miến Điện
Căn
Bản Pháp Hành Thiền, Bình Anson
Giác
Niệm Về Hơi Thở, Tỳ Kheo Phật Lệ - Thiện Nhựt phỏng
dịch
Giới
thiệu pháp Thiền Nguyên thủy của Đức Phật
Giới
Thiệu về Thiền Vipassana
Những
Bài Giảng Tóm Tắt của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày
Những
Nguyên Tắc Căn Bản của Thiền Quán, HT. Sayādaw U Janaka
Sống
Trong Hiện Tại, Nguyên tác: H. E. LIM - Dịch giả: Trần Minh
Tài
Thiền
Tứ Niệm Xứ, Thích Trí Siêu
Thiền
định sáng suốt thực tiễn, Venerable Mahāsi Sayādaw - Dịch
Việt : Mỹ
|