Chương
5
THUẦN NHẤT
VÀ ÐA THÙ
I-
DẪN NHẬP:
Ðề
tài nầy, mới nghe qua có vẻ lạ lẫm và khó hiểu, nhưng
rất quan trọng vì liên hệ đến tư tưởng vút cao của nhà
Thiền. Thuần nhất và Ða thù là những thuật ngữ Triết
học; các triết gia đã định nghĩa bằng hàng loạt ngôn từ
rối rắm, người càng nghe càng sa vào mớ bòng bong của chữ
nghĩa. Riêng các vị Thiền sư, bằng sự thấy biết của trực
giác không qua tư duy suy luận, đã có những cách giải thích
rất đơn giản nhưng kỳ đặc, đưa môn nhân đi thẳng vào
trạng thái tâm chứng, tức khắc nhận ra bộ mặt thật xưa
nay của chính mình.
Thế
giới chúng ta đang sống luôn biểu hiện muôn hình vạn tướng.
Nhà Phật dùng sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp)
để chỉ chung tất cả pháp tướng, trong đó mỗi trần lại
gồm vô số hình thức với những tính chất khác nhau. Chỉ
nói về sắc trần, liệu trí óc con người đã phân biệt
được bao nhiêu loại, từ vi mô đến vĩ mô? Ðôi mắt hoạ
sĩ có thể phân biệt 25 màu trắng khác nhau, nhưng đó mới
chỉ là nhục nhãn, có nghĩa là chỉ thấy một phần vô cùng
nhỏ của vạn tượng. Chính vì những biểu hiện trùng điệp
của các pháp dàn trải xung quanh ta, nên thế giới hiện thực
ta đang sống có tính Ða thù. Ðây là thế giới tương đối,
là cảnh giới vô thường duyên sinh bất thực, phát khởi
từ ý thức phân tích nhị nguyên. Ngày nay, do khoa học muốn
đáp ứng thị hiếu của con người nên chế tạo nhiều vật
dụng tiện ích, từ những phương tiện giải trí ăn mặc
đến học tập rèn luyện, với đủ chủng loại màu sắc.
Do vậy, tính chất Ða thù ngày càng phát triển.
Ða
thù là cành lá hoa quả, là phần nổi, là những hình thức
đa dạng của một thực thể toàn vẹn; còn nguồn gốc, bản
chất, nội dung của thực thể ấy được gọi là Thuần nhất.
Thuần nhất chỉ trạng thái chưa phân ranh, là cảnh giới
lý tưởng tuyệt đối, là bổn tâm bổn tánh của mọi chúng
sanh. Từ Thuần nhất phát sinh vô số hiện tượng, nếu chạy
theo hiện tượng là theo ngọn quên gốc. Tu là trở về nguồn
cội, tìm lại bản tâm; là vẫy vùng để thoát khỏi thế
giới tương đối Ða thù, trở về thế giới tuyệt đối
Thuần nhất. Một vị Tôn túc đã luận về hai chữ Hòa thượng
như sau: Hòa là thuần nhất bất tạp, là khởi nguyên của
vạn loại nhân sinh tức tri kiến Phật; Thượng là vạn loại
xưng tôn, được muôn loài chúng sanh xưng tụng tôn kính. Người
tu đến lúc tâm trở nên thanh tịnh thuần nhất thì xứng
đáng được muôn loài tôn kính cúng dường.
Thuần
nhất và Ða thù không phải là hai mặt đối lập, tương phản
nhau, cái này có thì cái kia không và ngược lại. Chúng tồn
tại song song nhau, nương nhau mà hiện hữu. Thuần nhất nằm
ngay trong Ða thù, Ða thù là hiển hiện bề mặt của Thuần
nhất. Không tìm Thuần nhất ở ngoài Ða thù, không tìm bản
chất ở ngoài hiện tượng. Thuần nhất không phải một khái
niệm thuần lý, cũng không là một thực thể có hình tướng
cho ta nắm bắt, một trạng thái có thể thức tri tưởng tri.
Nếu không nhận định rõ điều nầy, thì dù đạt cảnh giới
thiền định sâu xa, đó vẫn là trạng thái bị phân hóa có
sở đắc như Niết-bàn Hoá thành.
II-
KHẢ TÍNH BẤT NHỊ CỦA THUẦN NHẤT VÀ ÐA THÙ:
Khả
tính bất nhị của cặp phạm trù nầy biểu hiện trên rất
nhiều phương diện, vì thế giới hiện thực vốn muôn màu
muôn vẻ. Ở đây, chúng ta sẽ khảo sát một vài khía cạnh
để minh họa vấn đề nầy.
1/Tĩnh
và động:
Thiền
sư Sư-Nhan Ðoan-Nham, lúc còn hành khước, đến Ngài Nham Ðầu,
hỏi:
-
Thế nào là lý bản thường ?
Ngài
Nham Ðầu đáp:
-
Ðộng.
-
Khi động thì thế nào ?
-
Chẳng phải lý bản thường.
Sư
trầm ngâm giây lâu. Ngài Nham Ðầu liền nói :
-
Chấp nhận tức chưa ra khỏi căn trần; chẳng chấp nhận
tức hằng chìm sanh tử.
Sư
nhân đây lãnh hội.
Câu
trả lời của Ngài Nham Ðầu điều hợp giữa Tĩnh và Ðộng,
hiển bày lý Trung Ðạo. Sư Ðoan Nham hỏi về lý bản thường
là thể tánh bất động tuyệt đối, Ngài dùng cái động
để đáp và ngược lại. Những câu đáp dường như mâu thuẫn
nhau, trườn uốn, vaàu7841?n vẹo khó nắm bắt, nhưng đó là
thủ thuật rất khéo giúp người nghe khỏi chấp chặt một
bên. Sư Ðoan Nham trầm ngâm suy nghĩ là đã khởi ý hiểu thức
tưởng, nên Ngài Nham Ðầu phải bồi một gậy cho con khỉ
ý thức chết lịm: “Chấp nhận tức chưa ra khỏi căn trần;
chẳng chấp nhận tức hằng chìm sanh tử”. Chấp nhận lý
bản thường là có sở thủ sở đắc, tức đã phân chia năng-
sở chủ – khách, vì thế chưa ra khỏi sự phân biệt căn
trần. Chẳng chấp nhận lý bản thường tức trạng thái trầm
không trệ tịch, không phải là sự buông xả tự tịnh tự
tri của bản tánh, nên vẫn còn chìm trong sanh tử. Phần đông
phàm phu chạy theo động tức những hiện tượng đa thù, sanh
tâm ái luyến các pháp nên tạo nghiệp, không thoát khỏi luân
hồi. Nhị thừa thì chấp vào trạng thái chứng đắc, vào
sự tĩnh lặng của tâm, như thế vẫn còn có ngã là ta chứng,
ngã sở là cảnh giới chứng đắc của ta. Tâm chấp vào động
của phàm phu và vào bất động của Nhị thừa đều chưa
phải yếu chỉ, vì còn mắt kẹt hai bên, chưa phù hợp Trung
đạo đệ nhất nghĩa đế.
Thật
ra, động và tĩnh chỉ là hai trạng thái đắp đổi của tâm,
không phải tồn tại độc lập với nhau, cũng không phải
đối nghịch nhau một cách cứng nhắc. Khi tu theo lối đè
dẹp vọng tưởng, ta nghĩ tâm được an nhưng một thời gian
sau, gặp chướng duyên ta lại thấy vọng tưởng còn lẫy
lừng hơn trước. Do ý thức phân biệt tiềm ẩn, ta không
nhận trạng thái động là ngã nhưng lại nhận tĩnh là ngã,
dù là cái ngã vi tế. Ta không biết rằng, bản tâm chân thật
vốn tự an tự tri, chứ không miễn cưỡng để có an có biết.
Chỗ lặng lẽ vốn có của tự tánh là lặng lẽ mà vẫn
có dụng chiếu soi, như gương sáng vốn lặng mà vốn chiếu.
Nơi bất động thanh tịnh vẫn khởi động dụng của thân
tâm, đây là ý nghĩa uyên áo của cặp phạm trù Thuần nhất
– Ða thù trên lĩnh vực Tĩnh và Ðộng.
Truyện
ngụ ngôn của La Fontaine kể về một cô gái bán sữa. Buổi
sáng, cô đội bình sữa đi bán. Vừa đi vừa suy tính, bán
xong sữa nầy sẽ mua trứng gà về ấp. Trứng nở thành gà
con. Gà lớn, cô bán mua heo. Heo nuôi lớn, cô bán mua dê ...
Dê cái sinh được mấy chú dê con, chạy nhảy rất vui. Cô
tưởng tượng đàn dê nhảy nhót, cô nhảy theo và làm rơi
vỡ bình sữa. Thế là chẳng còn sữa, chẳng còn gà heo dê.
Con người chúng ta vẫn thường cho tư tưởng chạy bốn phương
tám hướng như thế, khác nào cô gái nói trên. Hình ảnh Tề
Thiên Ðại Thánh có phép Cân đẩu vân là tượng trưng của
ý thức con người, có khả năng bay lượn khắp nơi chốn,
lại có thể trở về bao nhiêu thời gian quá khứ hoặc mơ
tưởng bao nhiêu bước tương lai. Tuy nhiên, dù tài phép đến
bậc nào, Tề Thiên cũng không thể bay qua khỏi bàn tay Phật
Tổ; dù ý thức suy tưởng động dụng cỡ nào, cũng không
ra khỏi nguồn gốc thường tịnh của thể tánh chơn như.
Ví như muôn đợt sóng to nhỏ trong đục khác nhau, dù sanh
dù diệt cũng không bao giờ ra ngoài mặt biển. Chúng ta nhiều
lúc thấy bất an nên có ý niệm đi tìm sự an ổn nội tâm.
Nhưng tâm an ấy cũng chỉ là khách; còn cái gì quán xuyến
tất cả những tình huống an – bất an, tĩnh – động ...,
cái ấy luôn hiện tiền và siêu việt mọi chấp trước nhị
biên. Sự chứng ngộ không phải trạng thái bất động mà
là thường chuyển, nhưng tuy thường chuyển mà vẫn tự do.
Phàm phu chúng ta ở nơi động và động chuyển theo, nên quay
cuồng theo cảnh. Các bậc ngộ đạo thì ở nơi động mà
vẫn luôn ở trong sát-na hiện tiền bất động, nên các Ngài
rất tự tại nơi trần thế; vẫn làm mọi việc giúp người
mà luôn sống với tự tánh thanh tịnh thường nhiên. Và vì
tự tánh là “Không một vật”, không đến không đi, không
hề biến đổi, nên Lục Tổ bảo rằng : “Ðối cảnh tâm
thường sanh, Bồ-đề làm gì lớn”.
2-
Thể và dụng:
Kinh
Hoa Nghiêm có câu: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức
nhất”. “Nhất” là trạng thái chưa phân hóa của vạn
vật, là thể tánh thanh tịnh thuần nhất của muôn pháp. “Nhất
thiết” là tình trạng đã phân hoá, là biểu tướng đa thù
sanh diệt, là diệu dụng của Nhất. Kinh Niết –Bàn, Ðức
Phật dạy mọi chúng sanh đều là Phật vì đều sẵn đủ
thể tánh chân như. Ví như vàng trong quặng, dù còn lẫn nhiều
tạp chất nhưng bản chất vàng không bao giờ mất. Vì bản
chất vàng không bao giờ mất nên khi được tinh luyện, liền
trở thành vàng ròng. Tu hành có nghĩa là lọc bỏ những tập
khí phiền não để hiển lộ Phật chất có sẵn của mỗi
người.
Muôn
loài chúng sanh, thật ra chỉ khác nhau về nghiệp. Do nghiệp
tự tạo không đồng nên chánh báo và y báo không ai giống
ai. Tuy nhiên, tận cội nguồn tâm thể thì tất cả đều bình
đẳng; như muôn ngàn đợt sóng, dù khác nhau về hình tướng
nhưng cùng bản chất nước. Hình tướng thì đa thù, bản
chất luôn thuần nhất; trong lúc động dụng thi vi thì hình
tướng biến đổi sanh diệt, còn bản chất luôn hiện hữu
và không hề thay đổi bao giờ.
Thiên
giang hữu thủy thiên giang nguyệt,
Vạn
lý vô vân vạn lý thiên.
Một
vầng trăng trên trời soi bóng thành ngàn vầng trăng dưới
nước; bầu trời có một, nhưng nơi nào không mây nơi đó
có bầu trời. Trăng và bầu trời chỉ thể tánh thuần nhất;
ngàn trăng dưới nước và muôn dặm trời chỉ diệu dụng
đa thù. Thể thì có một nhưng phát sanh vô số dụng, và tu
có nghĩa là phăng từ dụng tìm về thể tánh. Ý nghĩa chăn
trâu của nhà Thiền, từ dấu chân trâu là dụng, phăng tìm
về nguồn thấy trâu là thể, tức từ vọng phăng về chơn
tâm. Vì thế, không thể bỏ vọng tìm chơn, bỏ đa thù mà
tìm được thuần nhất. Con người chúng ta nhỏ nhoi và sống
đời sống ngắn ngủi trong vũ trụ bao la, trong thời gian vô
tận, nhưng trong cái nhỏ nhoi có biểu hiện của bao la, trong
đời sống hữu hạn có biểu hiện nguồn nhân sinh vô hạn.
Trong cuộc trường chinh sanh tử, lăn lộn theo sáu nẻo luân
hồi, chúng ta đều sống chung với Phật; có điều ta không
biết nên cứ mãi làm kẻ bần cùng sống bên gia tài đồ
sộ. Ðây là bi kịch của chúng sanh, và các bậc Giác ngộ
thương tất cả chúng sanh cũng vì bi kịch vô minh ấy.
Một
lần Tôn giả Xá-Lợi-Phất đến bạch cùng Ðức Phật : “Bạch
Thế Tôn, tất cả chư Phật mười phương không vị nào có
trí tuệ như Thế Tôn”. Ðức Phật trả lời : “Này Xá-Lợi
Phất, Ông đừng nói như thế. Chư Phật mười phương đều
bình đẳng ở trí tuệ và công hạnh đôï sanh”. Nhiều cây
đèn cùng đặt trong phòng, tuy hình dạng khác nhau nhưng ánh
sáng chỉ có một thể. Chư Phật đều có trí tuệ như nhau,
công hạnh viên mãn; chỉ có những phương tiện đôï sanh
khác nhau nên mỗi vị thiết lập Tịnh- độ riêng, tùy nguyện
lực của mình. Các bậc Ðại Bồ-tát cũng thế, tùy hạnh
nguyện của các Ngài mà chúng ta tôn xưng bằng nhiều hồng
danh riêng biệt: Vị Bồ-tát chuyên quán xét tiếng kêu cứu
của thế gian, tùy cảm tùy ứng mà hoá độ, được tôn là
Ðại từ Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát ; vị Bồ-tát thệ
nguyện đôï tất cả chúng sanh cõi Ðịa ngục với lời nguyền
sấm sét : “Ðịa ngục vị không thệ bất thành Phật”,
được chúng ta vô cùng kính ngưỡng dưới danh xưng U minh
Giáo chủ Ðại nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát ...Các ngài
từ thể tánh chân như thuần nhất, phát khởi diệu dụng
như hằng sa, muôn hình ngàn trạng để muôn loài đều được
thấm nhuần ơn đức.
Tinh
thần Thể - Dụng được biểu hiện rõ trong Tâm kinh Bát-Nhã
chúng ta đọc tụng mỗi ngày: Sắc là dụng với muôn màu
muôn vẻ, nhưng bản thể của tất cả đều Không. Không ở
đây chẳng phải không có gì, mà là không có tự thể. Muôn
pháp đều do các duyên hợp lại mà thành, khi hết duyên, chúng
trở về không. Một cái hoa do từ những cái không phải hoa
tụ hội theo một cách thức, một trình tự nào đó; rồi
sau một thời gian, hoa héo rồi tàn và cuối cùng trở lại
hư không. Như vậy, Sắc do các Phi sắc kết hợp theo duyên,
tức từ Không mà có; lúc hết duyên, Sắc thành Không. Lại
nữa, chẳng phải trước khi Sắc sanh hoặc sau khi Sắc diệt
mới là Không, mà trong hình tướng Sắc đã là bản thể Không
ngay đó. Vì thế, Sắc tức Không và Không tức Sắc; Không
là thể tánh thuần nhất, Sắc là động dụng đa thù.
3-
Lý tưởng và hiện thực:
Lục
Tổ có bài kệ nổi tiếng :
Phật
pháp tại thế gian
Bất
ly thế gian giác
Ly
thế mích Bồ đề
Kháp
như tầm thố giác.
Lông
rùa và sừng thỏ được xem như những vật không có thực,
và người tu xa lánh thế gian tìm cầu giác ngộ cũng giống
như kẻ bỏ công kiếm sừng thỏ lông rùa. Ngày nay, tại một
vùng ở Trung Quốc đã thấy xuất hiện loại rùa xanh có lông
trên mai, và có người đã chụp được bức ảnh một con
thỏ có sừng. Nhưng dù lông rùa và sừng thỏ là thực tại
đã hiện hữu, thì ý nghĩa của bài kệ vẫn luôn là chân
lý. Không thể tìm Phật pháp ngoài thế gian, không thể tìm
thế giới lý tưởng ngoài cảnh đời hiện thực.
Thế
giới hiện thực chúng ta đang sống là hoàn cảnh chánh báo
và y báo của tất cả chúng sanh. Thế giới nầy có tính lưỡng
thể: âm và dương, sanh và tử, hạnh phúc và đau khổ ...,
biến đổi không dừng và biểu hiện bằng vô số ảnh tượng,
tùy nghiệp lực của từng loài. Ví như cùng một dòng sông,
đối với loài cá là môi trường sống, với loài ngạ quỷ
là một dòng thác lửa, với chư thiên lại là dãy lưu ly ...
Loài người chúng ta, nhìn một cảnh nhưng cũng có những cái
thấy khác nhau; hoặc tùy tâm trạng lúc vui lúc buồn mà thấy
cảnh tượng khi thế nầy khi thế khác. Tất cả những biến
đổi thiên hình vạn trạng của thế giới đa thù nầy đều
do tâm ta xáo động bất an, lại đem tri kiến đầy ngã chấp
của ta áp đặt lên các pháp. Rồi sau đó, chúng ta thấy cuộc
đời nhiều khổ não, đầy bon chen xấu ác, muốn tìm đến
một nơi hoàn toàn an lạc thiện lành. Ta phân biệt rạch ròi
giữa một thế giới lý tưởng thuần nhất với cảnh giới
hiện thực đa thù ta đang sống. Ta tu hành cũng với mục đích
vươn đến cái vô hạn, cái mênh mông phi thời gian, nhất
là khi gặp hoàn cảnh bức bách khốn cùng, vì ta thấy mình
là sinh linh nhỏ nhoi yếu đuối.
Tuy
nhiên, ý nghĩa tu hành không phải là sự trốn tránh thế gian
tìm cầu Phật pháp, mà là chuyển hoá tự tâm. Khi tâm ta thanh
tịnh thì nơi nào cũng là Tịnh độ, dù đang ở cõi trần;
nếu còn phiền não bất an thì ở đâu cũng chỉ là cảnh
đời đau khổ. Các Thiền sư khi nghe hỏi thế nào là đại
ý Phật pháp, thường trả lời bằng những cảnh những vật
đang hiện hữu, như cây bá trước sân, ba cân gai, chén trà
... Phật pháp ở ngay hiện tượng giới, là bất cứ pháp
thế gian nào. Phàm phu chúng ta để tâm dong ruổi bốn phương,
lúc đối duyên xúc cảnh luôn khởi niệm phân tích, nên mỗi
ngày đều uống trà mà có thấy Phật pháp ở đâu. Các Ngài
do tâm tĩnh lặng mà hằng tri, dung thoát mọi trần cảnh, nên
Phật pháp tại hiện tiền. Hoa sen chỉ mọc tốt tươi và
tỏa hương tinh khiết ở chỗ bùn nhơ nước đục, các bậc
Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ phải thị hiện vào cõi Ta-bà mới
thành tựu Phật quả. Ðối với các Ngài, Tịnh độ và Ta
bà không hai, như Thiền sư Ðạo Giai nói: “Sanh không thích
Thiên đường, tử không sợ Ðịa ngục. Buông tay đi ngang
ngoài tam giới, mặc tình vươn bổng nào buộc ràng”.
Có
người hỏi một Thiền sư :
-
Thế nào là Phật ?
Ngài
trả lời :
-
Ông già phàm phu.
Câu
đáp mới nghe dường như quá vô lễ, nhưng thật đã đền
ơn Ðức Phật đến tột cùng. Chúng ta thường nghĩ về Ðức
Phật như một đấng siêu nhiên, luôn ở trong tư thế kiết
già trên toà sen, hay khoác cho Ngài những chiếc áo mầu nhiệm
khác thường. Nhưng khi Ðức Phật còn tại thế, Ngài vẫn
sinh hoạt, nói năng, vẫn làm mọi việc như người thường;
chỉ khác ở chỗ Ngài làm mà không khởi vọng niệm, làm
với tâm vô trụ vô trước nên luôn ở trong đại định.
Ngài không sống nơi thế giới lý tưởng xa rời thực tế,
mà là một người bình thường nhưng phi thường vì dứt sạch
phiền não lậu hoặc. Những pháp tu Ngài dạy chúng ta không
trốn chạy sự sống, không xa lánh cuộc đời, mà luôn biểu
hiện sức sống nơi dòng chảy bất định của muôn pháp.
Từ chỗ nầy, nhà Thiền có công án nổi tiếng : “Vạn pháp
quy nhất, nhất quy hà xứ ?” (muôn pháp về một, một về
chỗ nào ?). Muôn pháp và một là bất khả phân, vì muôn pháp
là ngọn, còn một là nguồn. Ðã là nguồn thì còn trở về
đâu nữa? Muôn pháp hình thành nên thế giới hiện thực;
một là thế giới lý tưởng, là bản tâm chân thật bất
sanh của tất cả mọi loài. Nếu ta còn thấy lý tưởng và
hiện thực là hai đối cực, thì ta vẫn còn tâm lấy bỏ,
còn trụ vào Niết-bàn Hoá thành mà không siêu vượt được
mọi đối đãi nhị nguyên, thể nhập Niết-bàn Bảo sở.
4-Thể
tánh và vạn tượng:
Thiền
sư Tam Bình Nghĩa Trung có bài kệ :
Tức
thử kiến văn phi kiến văn
Vô
dư thinh sắc khả trình quân.
Cá
trung nhược liễu toàn vô sự
Thể
dụng hà phòng phân bất phân.
Dịch:
Chính
nơi thấy nghe chẳng thấy nghe
Không
còn thinh sắc để trình anh.
Trong
ấy nếu liễu toàn vô sự
Thể
dụng ngại gì phân chẳng phân.
Nơi
thấy nghe vẫn hay biết rõ ràng, nhưng không khởi niệm biện
giải nên cũng như chẳng thấy nghe. Tri kiến vô kiến chính
là Niết-bàn, vì không tạo ý nghiệp tức không còn sanh tử.
Nơi thinh sắc nếu tự liễu hội tất cả đều vô sự, tức
hiện tiền không một vật, thì như trồng hoa trên đá, cần
chi phân biệt tánh-tướng lý-sự. Ðây là cái thấy của bậc
đạt đạo, hoàn toàn thể nhập bản tánh bất sanh.
Nhưng
từ đâu bậc đạt đạo ngộ ra thể tánh? Một Thiền sư
bảo tri sự đánh kiểng họp chúng tại phương trượng. Ngài
bảo, ta chuẩn bị ra đi, hãy nghe ta nói kệ. Toàn chúng yên
lặng chờ nghe, lúc ấy bỗng có tiếng chuột kêu. Ngài an
nhiên thị tịch, không thêm lời nào, vì tiếng chuột kêu
là bài kệ quá sống động rồi. Một thiền khách mới đến,
nghe tiếng roi của Tri sự đánh, liền ngộ đạo. Thiền sư
Linh Hựu tỏ ngộ nhờ Tổ Bá Trượng vạch trong lò được
chút than lửa, đưa cho. Ðạo lý gì ở những biểu hiện trùng
điệp của vạn tượng?.
Các
pháp tuy thiên sai vạn biệt nhưng đồng nhau ở tính chất
duyên sinh giả hợp. Chúng là sự hội tụ của các duyên,
Sanh là tạo ra; Chúng sanh có nghĩa là nhờ các duyên tụ họp
nhau mà sanh khởi. Các pháp trong vũ trụ là chúng sanh vô tình,
con người và các động vật là chúng sanh hữu tình; tất
cả được gọi theo danh từ Duy thức học là Y tánh duyên
khởi pháp.Y tánh là từ tánh Không, Duyên khởi là nhờ duyên
mà sanh khởi. Không có pháp nào rời thể tánh mà có thể
sanh ra, nên dù hình tướng khác nhau nhưng vẫn đồng nhau ở
thể tánh. Vạn tượng thì đa thù, thể tánh thì thuần nhất
không tạp. Tất cả đạo lý đều quy thú về thể tánh, như
đạo Phật có thuyết Chơn như duyên khởi, Chơn như là thể
tánh, Duyên khởi ra vạn tượng; Lão Tử chủ trương “Muôn
vật sanh ra từ cái có, Có sanh từ nơi Không”. Khổng Tử
gọi cái Không ấy là Thiên lý, Thiên mệnh; Ðạo Thiên chúa
cho rằng Chúa trời là Ðấng sáng thế tạo ra toàn thể vũ
trụ nhân sinh. Triết thuyết Ðông phương có khái niệm Hình
nhi thượng là Chơn như, Hình nhi hạ là vạn tượng. Tuy các
học thuyết dùng nhiều danh từ khác nhau, nhưng tựu trung cũng
chỉ nói về cái bản thể không tên gọi ấy mà thôi.
Chúng
ta tu, chính là trở về với bản tâm thể tánh. Nhưng nhận
ra thể tánh phải từ vạn tượng, như từ những con nước
mà phăng tận đầu nguồn. Từ thể tánh phát sanh vạn tượng,
và trong sự sống động của vạn tượng luôn luôn hiển bày
thể tánh, nên thể tánh và vạn tượng không hai. Khi mê, chúng
ta chạy đuổi theo các pháp, khởi niệm phân biệt, tạo nghiệp
và thọ khổ. Nhưng ngay trong mỗi thân tứ đại vô minh đều
có sẵn tánh giác chưa hề vắng thiếu. Nếu không có tánh
giác thì người tu không thể thành Phật, như nấu cát không
bao giờ thành cơm được. Có thể nói, lúc mê là chúng sanh,
thấy các pháp hiện bày ngàn sai muôn khác; khi giác là Phật,
các pháp trở về trạng thái nhất như. Các pháp không tự
biến đổi, chỉ do tâm ta thanh tịnh hay não loạn mà hiển
hiện nơi thể tánh thuần nhất hay vạn tượng đa thù. Mê
là bóng tối, giác là ánh sáng. Khi đèn bật lên, mọi vật
trong phòng hiện bày rõ rệt ; nhưng lúc chưa có đèn, mọi
vật vẫn chưa hề biến đổi, chỉ vì tối tăm nên người
lẫn lộn chúng mà thôi. Bậc Giác ngộ nhìn các biệt tướng
rõ ràng trong một bản thể duy nhất, như gương soi rõ vật
nào ra vật ấy, và khi không có vật, gương vẫn sẵn bản
chất vốn lặng vốn chiếu xưa nay. Hiểu tường tận vấn
đề này, ta sẽ rõ vì sao nhà Thiền không loại bỏ Ða thù
thủ chứng Thuần nhất, vì chúng sanh và Phật là hai mặt
của một tổng thể toàn vẹn bất khả phân ly.
III-
ÁP DỤNG THỰC TẾ:
1-
Khoa học và Ðạo học:
Pascal
nói: “Tôi tư duy, do vậy tôi hiện hữu”(Je pense, donc je
suis). Tư duy là hành vi của ý thức, có phân biệt giữa chủ
thể và đối tượng, có lúc sanh lúc diệt, khi đến khi đi.
Nếu nhận tư duy là mình thì khi không suy nghĩ gì cả mà vẫn
biết, cái biết đó là ai? Và nếu tư duy là mình thì chẳng
lý nào mình lại biến thiên nhiều mặt buồn vui thiện ác
... đến thế? Quan niệm “ Có tư duy là có mình” thật ra
cũng hợp lý trên phương diện tục đế nhưng không chính
xác trên chân đế, bởi vì ta lầm cái giả ngã động dụng
là mình mà không thấy chân ngã bất động, nhận hình tướng
sai biệt đa thù mà không nhận bản chất thuần nhất bất
sanh. Ðây là sự mê lầm của con người, và chư Phật thương
chúng sanh một cách bình đẳng cũng vì cái vô minh ấy.
Ngày
nay, khoa học đã đi đôi hia bảy dặm để có những bước
đột phá về cả hai lĩnh vực vũ trụ và nhân sinh. Tinh thần
khoa học là dám hoài nghi và tiếp thu có chọn lọc những
tri thức và kiến thức của nhân loại. Sở trường của khoa
học là vận dụng chất xám trong suy luận, phân tích và tổng
hợp để khám phá những bí mật của con người và thế giới,
mục đích phục vụ cho cuộc sống con người. Tuy nhiên, vì
có đối tượng là bản ngã nên khoa học lầm lẫn ngay từ
đầu, vì còn ngã chấp là còn đau khổ, còn bất an. Nhiều
thành tựu của khoa học lại bị áp dụng để phục vụ cho
tham vọng của con người, tạo điều kiện cho kẻ mạmh ức
hiếp kẻ yếu, nước giàu lấn át nước nghèo. Ngay đối
với ngành Y, một ngành khoa học có ý nghĩa cao đẹp là chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ con người, hiện tại cũng bị
những người vô đạo đức biến thành một thứ kỹ nghệ,
một ngành kinh doanh mới, thậm chí trở thành tội ác. Ví
như kỹ thuật ghép nội tạng, mục đích cứu mạng sống
cho bệnh nhân, nhưng có những tổ chức biến công việc này
thành thị trường mua bán nội tạng, con người trở thành
món hàng trao đổi. Từ đó những phương pháp điều trị
hiện đại bỗng trở nên xa lạ với truyền thống nhân bản
của ngành Y. Cho nên, một nhà khoa học đã nói “Khoa học
không có lương tâm chỉ là sự hũy hoại linh hồn”.
Từ
sự bế tắc của khoa học, một số nhà bác học quay sang
nghiên cứu về Ðạo học, và cho rằng thế kỷ 21 là thế
kỷ của khoa học và tâm linh. Albert Einstein, nhà bác học hàng
đầu thế giới của thế kỷ 20 đã nhận xét: “Tôn giáo
tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi ý
nghĩa thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy sẽ
bao quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt
trên cơ sở đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể
mà không rời nhất thể. Phật giáo đáp ứng được những
yêu cầu ấy”. Ðạo Phật vượt lên ý nghĩa thần linh, vì
Ðức giáo chủ đã xác nhận mình chỉ là một vị Thầy dẫn
đường, không là một đấng quyền năng ban phước giáng hoạ.
Ðạo Phật không có giáo điều vì không hề đưa ra những
khuôn khổ cứng nhắc, không hề có giáo quyền bắt buộc
người khác tuân theo; và nhờ uyển chuyển tùy duyên, suy tiến
sự tự nguyện tự giác nên suốt 25 thế kỷ truyền đạo,
chưa bao giờ làm hại một ai. Giáo lý của đạo Phật không
mang tính mặc khải thần học, mà bao quát cả tự nhiên lẫn
siêu nhiên; tự nhiên là tự nó vốn có, tồn tại độc lập
với ý thức con người như lý vô thường, nhân quả; siêu
nhiên là sống ngay cảnh đời mà không bị đời ràng buộc.
Người tu Phật biết thân mình là vô thường sanh diệt, nhưng
ngay thân vô thường nhận ra tự tánh bất sanh; biết con người
nhỏ nhoi hữu hạn, nhưng ngay thân phận hữu hạn nhận ra
bản thể vô hạn bao la. Tự nhiên là thuộc Tục đế có sanh
có diệt, siêu nhiên là Chân đế bất sanh; cả hai đều được
liễu hội và tiêu dung trong tinh thần bất nhị độc đáo
của nhà Phật. Và chính trong tinh thần ấy, những bậc đạt
đạo đã có kinh nghiệm tổng thể lẫn biệt thể về vũ
trụ vạn loại bằng sự thấy biết như thật. Ðây là hành
vi của trực giác Bát-Nhã, của trí vô sư nên không có ngã
tướng. Những nhà tu Phật cũng là những khoa học gia, nhưng
là khoa học tâm linh vượt lên trên khoa học vật thể, vì
các Ngài khám phá được bản thể của muôn pháp và thực
hành những phương tiện giúp mình giúp người vượt thoát
trần lao sanh tử.
Như
vậy, khoa học muốn là công cụ hữu ích thì phải song hành
với Ðạo học. Khoa học là hình thức đa thù của cuộc sống,
Ðạo học là nội dung thuần nhất của cuộc sống ấy. Hình
thức và nội dung phải đi đôi, phải hòa hợp, phải quân
bình. Nhiều người là Phật tử, nhưng do choáng ngợp trước
sự phát triển vượt bực của khoa học mà muốn xét lại
quan điểm của đạo Phật, cho rằng như thế là phù hợp
với thời đại. Quả thật khoa học là phương tiện hữu
ích để kiểm chứng và xác định giá trị của giáo lý đạo
Phật, nhưng không vượt qua được hệ thống giáo lý ấy.
Cái nhìn của khoa học chỉ phiến diện theo thức tri tưởng
tri trong phạm vi thế gian mà không khám phá được pháp giới,
và không bơi lội vào trạng thái siêu nhiên của những bậc
đạt đạo. Ðối tượng nghiên cứu của khoa học chỉ ở
trong thế giới hữu hình, tinh tế nhất là dạng sóng và hạt
cũng chỉ là hữu hình trong vũ trụ; trong khi đạo Phật bao
quát cả pháp giới vừa hữu hình vừa vô hình. Ðức Phật
bằng cái thấy minh triết, đã triển khai cặn kẽ về lý
duyên sinh vô thường của các pháp, đồng thời chỉ dạy
cùng tột về bản thể chân như vô tướng. Ánh sáng khoa học
lần lượt soi rọi những bí mật về vũ trụ nhân sinh, càng
chứng minh những điều Ðức Phật đã nói trước đây 25
thế kỷ là vô cùng chính xác. Và trí tuệ siêu xuất của
Ngài đã làm thế giới văn minh phương Tây ngạc nhiên bái
phục, đến nỗi một lần nữa, Einstein phải thừa nhận:
“Nếu có một tôn giáo nào thoả mãn được các nhu cầu
của khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo. Phật giáo
không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hoá
với những khám phá mới. Phật giáo không cần từ bỏ quan
điểm của mình để theo khoa học, vì Phật giáo bao gồm cả
khoa học, và hơn thế, vượt qua khoa học”.
Trong
cuộc sống thường nhật, nếu con người áp dung khoa học
song song với Ðạo học, nếu nền văn minh nhân loại có đạo
đức soi đường, thì cuộc đời là Thiên đàng hạnh phúc.
Có đạo lý, sự vui tươi giải trí mới có ý nghĩa, nếu
không thì chỉ thỏa mãn những thị hiếu, những dục vọng
tầm thường. Một số thanh thiếu niên ngày nay không có hướng
đi đúng đắn, gia đình quá nuông chìu, đã lãng phí tuổi
xuân vào những cuộc vui không lành mạnh, cuối cùng chuốc
lấy những hậu quả khó lường. Ngay cả những tiện nghi
sinh hoạt, người sản xuất phải luôn thay đổi kiểu dáng,
mặt hàng và đủ cách tiếp thị, khuyến mãi. Con người cứ
thế bị vây hãm trong trường hỗn độn của màu sắc, mùi
vị, âm thanh; bị lôi kéo bởi tính đa thù của sự vật bên
ngoài mà quên mất thể tánh thuần nhất bên trong. Từ đó,
đánh mất luôn sự bình an muôn thuở.
Ném
một hòn sỏi xuống hồ, sức chấn động từ hòn sỏi tạo
thành những vòng tròn đồng tâm lan khắp mặt hồ. Ðây là
ảnh hưởng tương tác. Biệt nghiệp của mỗi chúng sanh khác
nhau, nhưng cộng nghiệp cũng ví như sự lan truyền của chấn
động nói trên. Mỗi người có ảnh hưởng hỗ tương với
những người xung quanh và môi trường họ đang sống. Ta khởi
một niệm ác thì niệm ác này có tác dụng xấu ra chung quanh;
nếu tâm từ phát sinh thì cả cây cỏ chim muông cũng đều
cảm nhận được. Ðiều này thấy rõ khi ta ở gần một vị
chân tu đắc đạo, tư tưởng của Ngài tỏa lan khiến ta có
cảm giác bình an tươi mát, dù Ngài không làm gì, nói gì.
Ðức
Khổng Tử đã nói : “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ
ngu là chẳng thể dời đổi. Những hạng trung gian có thể
chuyển đổi từ ác sang thiện và ngược lại”. Chúng sanh
đa phần không hiểu đạo lý, mãi tạo nghiệp hư vọng điên
đảo, không việc ác nào chẳng làm, không việc làm nào chẳng
ác, như kinh Hoa Nghiêm diễn tả: “Giả sử nghiệp ác có
hình tướng thì mười phương hư không cũng chẳng dung chứa
hết”. Ðó là nhân đọa vào ba đường dữ. Người biết
đạo đức, bỏ ác làm lành là tiến một bước trên đường
hướng thượng, tạo phước báo nhơn thiên, nhưng còn hữu
vi hữu tướng, nên chưa ra khỏi luân hồi. Các vị Thánh Nhị
thừa lánh xa tướng đa thù, rũ sạch nợ đời đoạn ly sanh
tử, trở về bản thể thuần nhất bất động và an trú trong
đó. Các Bậc Bồ–tát và những vị A-la-hán lợi căn thì
sau khi liễu đạo, các Ngài thấu triệt tinh thần bất nhị
nên siêu vượt thiện-ác, phiền não và Bồ đề, phát nguyện
trở lại Ta-bà độ tận chúng sanh.
2-Áp
dụng trong công phu:Từ đa thù nhận ra thuần nhất
Là
thiền sinh, chúng ta phải có công phu thiền tập. Dù tư biện
huyền đàm khéo giỏi đến bao nhiêu mà không đi sâu vào mảnh
đất tâm của chính mình, thì chỉ như đếm tiền dùm người
khác. Chứng nghiệm Thiền không nhờ chữ nghĩa chuyên chở,
mà nhờ quá trình tu tập giúp mình nhận rõ từng dấu vết
của tâm niệm, từng sự biến đổi của vạn hữu, từ đó
phăng tìm nguyên uỷ là thể tánh tự tịnh tự tri. Ðây là
tiến trình bơi ngược dòng nước, từ vạn tượng đa thù
nhận ra bản thể thuần nhất.
Con
người chỉ tin vào những điều mắt thấy tai nghe, và cho
đó mới là trí tuệ. Thật ra, có những việc ở ngay trước
mắt mà nhục nhãn không thấy được, trí óc giới hạn của
con người không hiểu thấu. Thấy biết được thì cho là
có, không thấy biết cho là không; nhưng có và không đều
do ý thức lập bày, mà ý thức chỉ là phần nổi của tâm.
Tâm là bản thể, là nguyên ủy của mọi sự vật hiện tượng,
là họa sĩ vĩ đại vẽ ra hoàn cảnh chánh báo và y báo của
chúng sanh. Ðức Phật dạy: “Tam giới hư vọng đản thị
nhất tâm tác”, ba cõi đều hư vọng, chỉ do một tâm tạo
ra. Tùy phước nghiệp và tâm mỗi người mà các pháp biểu
hiện thành nhiều vẻ khác nhau. Chỉ một tâm mà tạo dựng
muôn loài chúng sanh cùng khắp pháp giới; nên nếu muốn nhận
ra tâm, phải phăng tìm từ muôn pháp hay từ thân năm uẩn
của chính mình.
Kinh
Pháp Hoa có bốn câu kệ:
Chư
pháp tùng bổn lai
Thường
tự tịch diệt tướng.
Phật
tử hành đạo dĩ