Chương
4
THIỀN TRONG
ÐỜI THƯỜNG
I-
THIỀN TRONG NHỮNG HOÀN CẢNH THUẬN NGHỊCH:
Vì
Thiền không xa rời sự sống, nên Thiền cũng muôn màu muôn
vẻ theo sự sinh động của dòng sống luân lưu. Người sống
với bản tâm chân thật biết ứng xử linh hoạt tùy hoàn
cảnh tùy đối tượng, không theo một khuôn mẫu cố định
nào.
Ngày
xưa có hai ngôi đền Thiền, mỗi đền có một chú tiểu hầu
cận. Một lần, thiền sinh ở ngôi đền phương bắc gặp
thiền sinh phương nam giữa đường, bèn hỏi:
- Huynh
đi đâu vậy ?
Thiền
sinh phương nam đáp:
-
Ðôi chân nầy đưa đến đâu, tôi đi đến đó.
Thiền
sinh bắc không biết nói sao, về trình lại sư phụ. Sư phụ
bày : “Nếu lần sau nó nói vậy, con hãy hỏi lại : Nếu
không có chân thì huynh đi đến đâu?”
Hôm
sau hai chú gặp nhau, thiền sinh bắc hỏi lại câu trên, nhưng
chú kia lại trả lời:
-
Gió cuốn đi đâu, tôi đi đến đó.
Thiền
sinh bắc lại bí, về cầu cứu sư phụ, được chỉ dạy
: “Con hỏi lại: nếu không có gió, huynh đi đâu?”
Không
ngờ lần gặp sau, thiền sinh nam lại đáp một cách đơn giản:
-
Tôi đi chợ.(11)
Câu
chuyện trên cho thấy rõ sự khác biệt giữa hai người. Thiền
sinh phương nam sống với tâm Thiền nên ứng xử một cách
linh hoạt và hồn nhiên. Thiền sinh bắc thì sắp dặt trước
với sự hỗ trợ của thầy, nhưng vì không có vốn thật
của mình, nên không thể đối phó kịp thời. Như thế, vốn
sống thật sự là do tâm mỗi người lưu xuất, không nhờ
sự giúp đỡ tiếp sức của một ai, và hiện thực thế nào
thì ứng cơ tiếp vật thế ấy.
1-
Trong đau khổ–nghịch cảnh:
Theo
quan niệm của người xưa, có ba mức độ ở ẩn: Tiểu ẩn
là tu hành trong tu viện; Trung ẩn là sống đời tục gia cư
sĩ; Ðại ẩn là làm quan trong triều. Môi trường tự viện
ít náo động, tăng ni sống theo tinh thần lục hòa cộng trụ;
ấy là ngôi nhà chung êm đềm ấm cúng, là môi trường tốt
cho sự tu tập. Nhưng hoàn cảnh quá thuận tiện nên người
tu ít được thử thách, ít được rèn giũa nghị lực và
ít có điều kiện phát huy khả năng đối phó với ngoại
trần; cho nên gọi là Tiểu ẩn. Ðời sống gia đình nhiều
ràng buộc hệ lụy, phải lo toan nhiều bề cho cuộc sống
bản thân và quyến thuộc, phải lo toan nhiều bề cho cuộc
sống bản thân và quyến thuộc. Phải làm tròn nghĩa vụ với
xã hội và đất nước. Nếu người tu được trong hoàn cảnh
này là có đạo lực khá, tu có kết quả lại càng khá hơn,
vì thế là Trung ẩn. Ðặc biệt nhất là trường hợp người
giữ chức vụ cao trong triều đình, trong chính phủ. Quyền
lực càng lớn, trách nhiệm càng nặng nề, một quyết định
ban ra làm ảnh hưởng biết bao người. Công việc dồn dập
và căng thẳng mà có thể tu được thì vị ấy quá siêu xuất,
tu hành mà ngộ lại càng kỳ tuyệt, nên gọi là Ðại ẩn.
Những
người luyện khinh công, đầu tiên đào một hố sâu dưới
đất, đổ đất vào ống quần và buộc túm lại cho người
nặng thêm, tập nhảy từ hố lên mặt đất. Lần lần hố
đào sâu hơn, đổ cát nặng hơn. Khi tập thuần thục, trở
lại trang phục bình thường, người ấy có thể nhảy rất
cao. Ðây là cách luyện võ trong nghịch duyên. Người tu chúng
ta cũng thế, đôi khi hoàn cảnh khó khăn giúp ta tiến nhanh
trên đường đạo, vì đây là cơ hội để ta phát huy trí
sáng tạo, khả năng ứng phó, và cũng là thước đo định
lực của mình. Nhà Thiền quan niệm, tu không phải trốn chạy
nghịch cảnh mà là dũng cảm đương đầu với mọi tình huống;
là trong mọi cảnh ngộ đều biểu hiện sức tự chủ kham
nhẫn; là thể hiện sự tự do tự tại trước những ràng
buộc của tiền trần. Trong đời, nhiều lúc bình thường
ta thấy tâm thanh tịnh an lạc, ta nghĩ mình tu có kết quả.
Nhưng khi gặp việc không hay xảy đến, những kiết sử lâu
nay ngủ ngầm bỗng sống dậy, phát tác; vỡ lẽ ra rằng,
ta vẫn còn tâm thị phi nhân ngã, vẫn còn nguyên là phàm phu
với mọi nỗi phiền não khổ đau. Cho nên, chúng ta cần duy
trì sức cảnh giác liên tục, phát hiện ngay những vọng niệm
từ lúc mới manh nha. Câu chuyện sau đây đáng để chúng ta
suy gẫm : Có một chàng thanh niên nghèo khổ, cha mẹ không
còn, vợ con không có. Nghe nhà vua ban chiếu chống giặc ngoại
xâm, chàng hăng hái gia nhập quân ngũ. Nhờ chiến đấu dũng
cảm, chàng lập nhiều công trận, được vua phong làm quan.
Một thời gian sau lại có giặc, chàng phụng mệnh vua lãnh
quân đi dẹp, nhưng đánh trận nào thua trận ấy. Nhà vua tức
giận, triệu chàng về hỏi nguyên do. Chàng thật thà tâu rằng:
“Muôn tâu bệ hạ, ngày xưa hạ thần là kẻ vô gia cư vô
nghề nghiệp, không có gì để mất, nên không sợ chết; do
vậy vào chỗ quân địch như chỗ không người. Ngày nay được
bệ hạ ban cho phẩm lộc, hạ thần thấy mình là quan trọng,
đâm ra sợ chết, vì thế không còn tinh thần chiến đấu
nữa”.
Bài
pháp đầu tiên Ðức Phật dạy tại Lộc Uyển là Tứ Diệu
Ðế, trong đó Khổ đế được đặt lên hàng đầu. Trong
Phạn ngữ, Dukkha ngoài nghĩa Khổ còn có nghĩa là Bất toàn,
bất như ý, Vô thường ... Tựu trung, con người có tám điều
khổ chính: Sanh-Già-Bệnh-Chết-Cầu mong không thành tựu-Thương
mà phải xa lìa-Ghét mà gặp gỡ - Thân năm ấm lẫy lừng.
Trong văn học Việt Nam cũng có nhiều lời thơ rất hay diễn
tả nỗi khổ của kiếp người. Ngay từ phút đầu làm quen
với cuộc sống, có phải em bé đã biết khổ nên mới cất
tiếng khóc chào đời, như Nguyễn Công Trứ đã tự hỏi:
Thoạt
sinh ra thì đà khóc choé
Trần
có vui sao chẳng cười khì ?
Khi
lớn lên, trải qua nhiều phen thăng trầm vinh nhục, con người
thấy rõ việc đời mình có khác gì việc của trăng :
Tuy
là soi khắp mọi nơi
Khi
mờ khi tỏ, khi vơi khi đầy.
(Nguyễn
Ðình Chiểu)
Dù
vất vả đua tranh với đời suốt kiếp, cuối cùng sẽ còn
lại những gì ngoài những nếp nhăn trên trán và hố thẳm
trong tâm hồn ?
Nếu
chỉ dừng lại nơi phạm vi ý thức về sự khổ, chúng ta
có cái nhìn bi quan yếm thế về cuộc đời. Ðạo Phật với
tinh thần tích cực và tôn trọng sự thật, nhận chân về
cái khổ nhưng còn đi xa hơn, biết rõ nguyên nhân của khổ,
cách thoát khổ và kết quả cuối cùng của việc làm ấy.
Nhìn chung, khổ là do tập khí chấp ngã quá nặng. Chấp ngã
thô là Phân biệt ngã chấp, có tính chất nông cạn trên mặt
ý thức; chấp ngã tế là Câu sanh ngã chấp, rất khó nhận
diện và khó tẩy trừ. Tập khí là thế lực hùng mạnh vô
biên, làm chuyển động bánh xe luân hồi, lôi cuốn con người
vào guồng máy sanh tử không cách nào thoát khỏi, nếu không
biết đường tu. Chính vì chấp ngã nên ta thích khen sợ chê,
thích sướng sợ khổ. Ta thương người nhưng muốn người
ta thương phải là sở hữu của riêng ta; nên khi xa người,
ta lại như Hàn Mặc Tử :
Làm
sao giết được người trong mộng,
Ðể
trả thù duyên kiếp bẽ bàng.
Một
thi sĩ có bốn câu thơ sau đây :
Không
đau khổ lấy chi làm chất liệu
Không
buồn thương sao biết chuyện con người
Không
nghèo đói làm sao thi vị hoá
Không
lang thang sao biết gió mưa nhiều.
Ðau
khổ là chất liệu của cuộc sống, vì nhờ đau khổ con người
mới có kinh nghiệm trên trường đời, mới thức tỉnh tìm
cách thoát khổ. Trong bốn châu nhân gian, chỉ có cõi Diêm-phù-đề
là Nam-thiệm-bộ-châu, nơi chúng ta đang ở là có đủ điều
kiện tu hành; trong khi Bắc-câu-lô-châu quá sung sướng, người
ở đó không có cơ hội thức tỉnh. Mặc khác, nhờ những
khi mưa nắng dãi dầu, ta mới hiểu rõ nỗi khổ của người
nghèo khó. Nếu suốt đời chỉ sống trong nhung lụa, luôn
được thành công đắc ý, làm sao ta thấm thía sự bần cùng
thất chí của kẻ khác, làm sao thông cảm được tội lỗi
của người? Cho nên sự từng trải đủ mùi đắng cay của
cuộc sống cũng là một điều kiện phát khởi tình thương
và lòng bao dung đối với đồng loại.
Nhưng
có khi nào ta tự hỏi : những cảnh thuận nghịch vui buồn
ấy có phải do từ bên ngoài đưa đến? Cũng cùng một cảnh
giới, sao bậc đạt đạo luôn an lạc mà chúng ta lại thấy
phiền não khổ đau? Cùng một buổi chiều trên sông, người
vui cho là êm đềm thơ mộng, người buồn lại cảm thấy
cô đơn trống vắng : “Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ”. Thi hào Nguyễn Du đã có nhiều kinh nghiệm sống, nên
diễn tả thật sâu sắc tâm trạng con người. Tất cả hoàn
cảnh trên đời đều do tâm ta vẽ vời hết thảy; và nếu
ta có sự an lạc nội tâm, ta có thể trực diện với mọi
tình huống, giải quyết tốt đẹp mọi vấn đề. Nguyễn
Công Trứ khi còn hàn vi, dù trong cảnh nghèo cùng cực vẫn
thi vị hoá cuộc sống của mình :
Ngày
hai bữa vỗ bụng rau bình bịch,
Người
quân tử ăn chẳng cầu no.
Ðêm
năm canh ngon giấc ngáy pho pho,
Thời
thái bình ngủ thường mở cửa.
Ðến
khi làm quan lại thăng trầm nhiều nỗi, có lúc tột đỉnh
là Tể tướng, có khi bị giáng xuống làm lính thú, ông vẫn
bình thản bảo rằng: “ Lúc làm Tể tướng ta không cho đó
là vinh, thì khi làm lính sao gọi là nhục?”. Ðôi lần thấm
thía mùi đời, ông cũng đã cay đắng thốt lên :
Kiếp
sau xin chớ làm người,
Làm
cây thông đứng giữa trời mà reo.
Nhưng
những lúc khủng hoảng ấy cũng qua đi, ông trở lại con người
thật của mình, bằng lòng với những gì đang có, bởi vì
hạnh phúc hay đau khổ cũng chỉ ở nơi mình.Cho nên:
Tri
túc tiện túc, đãi túc hà thời túc
Tri
nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.(12)
Cầm
kỳ thi tửu với giang sơn
Dễ
mấy kẻ xuất trần xuất thế.
Một
tài danh khác của nền văn học Việt Nam, Cao Bá Quát, lại
không có cái nhìn về cuộc đời khoáng đạt như vậy. Ôâng
nổi tiếng về văn chương thi phú, nhưng cũng nổi tiếng về
tính kiêu căng, như có lần tuyên bố : “Trong thiên hạ có
bốn bồ chữ, mình ta chiếm hai bồ; một bồ là của anh ta,
bồ còn lại chia cho hết thảy thiên hạ”. Nhậm chức Giáo
thọ tại huyện Quốc Oai, một nơi không phải nhỏ, ông không
cam phận nghèo:
Biết
nhàn ấy là nhàn,đợi nhàn bao giờ mới nhàn.
Nhà
trống ba gian, một thầy một cô một chó cái,
Học
trò dăm đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.
Thất
chí, hận đời, ông theo giặc làm loạn, và chấm dứt cuộc
đời trên pháp trường, để lại cho đời những câu thơ
tự trào và một bài học về phong cách sống :
Ba
hồi trống dục, mồ cha kiếp
Một
nhát gươm đưa, bỏ mẹ đời!
Biết
nhàn ấy là nhàn,đợi nhàn bao giờ mới nhàn.
Chúng
ta hiểu thực chất của cuộc đời là khổ, không phải để
buông xuôi phó mặc dòng đời đưa đẩy, mà phải dùng trí
tuệ để giải quyết mọi công việc, để chiến thắng mọi
nghịch cảnh một cách hiệu quả nhất. Nhờ công phu thiền
tập, biết thiểu dục tri túc nên gặp khó khổ, ta có sức
định tĩnh để vượt qua; ta không mất nhiều thời giờ lo
cho cái ăn cái mặc, dành tâm trí giải quyết việc lớn của
đời mình. Chánh niệm trên từng biến chuyển của thân, trên
từng vận hành của tâm và trên từng đổi thay của cảnh,
ta thấy rõ tất cả đều như huyễn.Tất cả đều như huyễn,
nghĩa là tuy huyễn mà vẫn ở trong Như tánh, do vậy ta được
bình an trước mọi cảnh ngộ, dù xấu nhất, và đặc biệt
trước sự tráo trở của lòng người. Ví như lúc ta giàu
có, nhiều người nhờ vả kính trọng; khi ta nghèo, họ ngoảnh
mặt khinh khi. Ta vẫn là ta, sao có lúc được trọng có lúc
bị khinh? –Ấy là do họ khinh trọng cái nghèo giàu của ta,
chứ con người thật tuyệt đối trong ta có gì dính dáng?
Vả lại, trong đời người đâu phải lúc nào cũng an ổn
hạnh phúc, ngay Ðức Phật còn chịu nạn kim thương mã mạch,
huống gì là phàm phu chúng ta. Ðã mang thân năm uẩn thì phải
gặp những cảnh ngộ thuận nghịch vui buồn khác nhau, vì
đó là bản chất của cuộc đời. Trong Luận Bảo Vương tam
muội, Ðức Phật dạy Mười điều tâm niệm là cách đối
phó với những hoàn cảnh khó khổ. Tu không phải là trốn
chạy chính mình để tìm an ủi nơi ngoại duyên, nơi người
khác- mà cũng không thể chạy trốn được. Người tu phải
gan dạ trực diện với nỗi khổ trong tâm, với tình huống
khó khăn bên ngoài; chánh niệm soi rọi từng ngõ ngách của
tâm thức và thực trạng của hoàn cảnh, để cuối cùng chuyển
hoá.
Mặt
khác, hành giả tu Thiền phải trực diện với những phút
giây cô đơn. Một mình đối diện với chính mình, ta mới
có cơ hội thấy lại con người thật từ muôn thuở. Chúng
ta thường sợ sự cô đơn trống vắng, lúc nào cũng muốn
có bạn bè, người thân bên cạnh; nhất là khi có chuyện
đau buồn, phải tìm người để tâm sự hoặc tìm những thú
vui tạm bợ để giải khuây. Nếu gặp bạn tốt, có trí tuệ
đạo đức, ta có thể khuây khỏa hay được góp ý để giải
quyết vấn đề. Nhưng nếu gặp bạn không tốt, không có
trí tuệ thì nỗi đau ấy lại càng nhân lên, đôi khi bị
xúi dục làm điều càn quấy. Cho nên, thiền tập là chánh
niệm trên những nỗi buồn niềm đau ấy, là nhận rõ bản
chất không thật của chúng và thực hiện sự chuyển hoá,
chứ không phải tô đậm thêm nỗi đau khổ đã có. Người
tu đúng theo chánh pháp, càng ngày càng thấy bình an tươi mát,
và có thể đứng vững trước mọi thử thách nghiệt ngã
của cuộc đời. Những bậc đạt đạo, khi đã nhận ra và
sống hoàn toàn với lẽ thật tuyệt đối, sẵn sàng thỏng
tay vào chợ, lăn lộn trong sáu nẻo luân hồi làm lợi ích
cho chúng sanh. Tâm thênh thang không hình tướng nên bụi trần
không thể bám, như mưa gió bão bùng cỡ nào cũng chẳng hề
dính dáng đến hư không.
2-
Trong hạnh phúc-thuận cảnh:
Tuy
đau khổ là bài hoïc cần thiết cho con người, nhưng không
ai không muốn mình hạnh phúc. Mỗi người quan niệm về hạnh
phúc theo suy nghĩ tưởng tượng của mình, theo hoàn cảnh mình
đang sống; nhưng tựu trung, ít ai bằng lòng với cuộc sống
hiện tại. Người nghèo muốn giàu, người giàu muốn giàu
thêm; người có thứ nầy mong được thêm thứ khác. Họ cứ
phóng tâm theo một ngày mai không thực, chẳng biết ngày mai
ấy liệu có đến không; mà dù có đến, họ lại tiếp tục
mơ về một ngày mai khác với những điều kiện tiêu chuẩn
cao hơn. Tất cả đều do lòng tham, và tham chính vì vô minh
mà có.
Cũng
vì vô minh, con người tự chui vào lưới ngũ dục, cho đó
là hạnh phúc, là cứu cánh của đời mình, gọi đó là Thú
đau thương, dù đau thương nhưng vẫn thú vị, vẫn cám dỗ
không cùng. Nhiều người biết tứ đổ tường là những thứ
cần lánh xa vì tác hại rất lớn cho bản thân và cho xã hội,
nhưng vẫn nhắm mắt lao vào. Ðây là do tập khí thúc đẩy,
khiến họ cảm thấy hạnh phúc trong những đam mê ấy. Chư
Phật nhìn thấy chúng sanh lặn hụp trong ngũ dục một cách
say sưa, chẳng khác nào đám côn trùng chui rúc trong phân rác,
thấy rất tội nghiệp nên tận tình cứu vớt không hề mệt
mỏi.
Một
triết gia Tây phương nói: “Hạnh phúc là cái gì khi bạn
đuổi bắt thì nó vuột khỏi tầm tay; nhưng khi bạn dừng
lại thì nó cùng với bạn”. Có ý niệm truy đuổi tìm cầu
tức không bằng lòng với hiện tại, như kẻ thả mồi bắt
bóng, tìm đến bao giờ mới thấy hạnh phúc. Biết dừng lại
tức ổn cố được tâm, không dính mắc với trần cảnh bên
ngoài, biết vui với những gì mình đang có, ta sẽ thấy hạnh
phúc tại hiện tiền. Có lần, Ðức Phật đã khuyên những
người dân Kalamas: “Hãy dùng trí tuệ như tấm gương soi
lại chính mình, xem còn tham lam sân hận không. Khi tham lam sân
hận không còn trong tâm ta thì niềm hạnh phúc an lạc hiện
bày”. Ta hiểu rằng đau khổ là do mình tự tạo, nên không
huân tập những hạt giống tham lam sân hận là những yếu
tố phá hoại hạnh phúc. Thiền sinh chúng ta có quyền hoạch
định tương lai, vạch chương trình cho cuộc sống, nhưng làm
sao không để tham sân chi phối, không đánh mất thực tại
sinh động, đó là cái khéo của mỗi người. Có chủ trương
tu là không nghĩ đến tương lai, không màng đến mọi chuyện
bên ngoài. Chủ trương ấy e là tiêu cực không tưởng. Thiền
sinh cần nhịp nhàng theo dòng sống đang vận hành, cần phù
hợp với đà tiến hoá của xã hội; quan trọng là ở chỗ
biết phản quan tự kỷ, chánh niệm tỉnh giác và an trú nơi
đương xứ. Khi đạt đến mục đích mà không mục đích,
ấy mới là sự minh triết đời đời, là bình an vĩnh cửu,
là hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc ấy không đến từ bên
ngoài, không phụ thuộc vật chất, không có tính cách nhất
thời, mà do từ nội tâm an định, có tính vĩnh cửu và siêu
việt thọ tưởng. Thọ là cảm giác, Tưởng là hy vọng tưởng
tượng. Chỉ trong trạng thái thiền định ta mới vượt thoát
mọi cảm thọ đối đãi và quan niệm hình dung, và hạnh phúc
vĩnh cửu ấy là cảnh giới của riêng hành giả tự thầm
nhận biết.
Lão
Tử nói : “Vinh nhục phải đều sợ”. Khi vinh hiển, được
nhiều người xưng tụng, nếu ta thấy đó là hạnh phúc thì
lỡ khi bị sỉ nhục, ta sẽ đau khổ vô cùng. Chúng ta có
công phu, quán chiếu thân tâm cảnh đều không thật, sự vinh
nhục cũng như những chiếc áo khoác bên ngoài, thì bất cứ
lời khen chê nào, bất cứ tình huống nào ta đều phải tỉnh
giác. Không kiêu mạn khi được tôn vinh, không buồn đau khi
bị hạ nhục; một bề ta sống với bản tâm thênh thang thanh
tịnh, từng bước thảnh thơi trước mọi biến đổi thuận
nghịch của dòng đời.
Chúng
ta đang từng bước điều phục con trâu tâm, nên dễ choáng
ngợïp trước những niềm vui sướng bất ngờ. Ví như một
người thân tưởng đã mất bây giờ gặp lại; được thăng
chức tăng lương trước thời hạn; con cái báo tin vui đã
đỗ đạt thành danh hay vừa hạ sanh quý tử; hoặc hôm nào
đó đẹp trời, Thần tài gõ cửa mang cho ta một phần thưởng
độc đắc nằm mơ cũng chưa thấy... Nhưng rồi, sự vui sướng
ấy cũng qua mau khi xung quanh ta còn nhiều bộn bề chưa giải
quyết; hoặc bất hạnh hơn, chính cái hạnh phúc trước đó
lại đưa đến cho ta những hệ luỵ khó lường, cũng như
tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó. Chúng ta đã
thấy nhiều trường hợp được của bất ngờ, đâm ra tiêu
xài phung phí, hoặc tranh chấp tiền bạc gây cãi vã, thậm
chí sát hại nhau. Có người được đề bạt lên một chức
vị cao, có quyền thế sanh ra hủ hoá, phạm tội và cuối
cùng thân bại danh liệt. Cho nên, không có đạo đức dẫn
đường, bất cứ cám dỗ nào của ngũ dục cũng làm con người
sa ngã; và người biếùt tu càng phải cảnh giác trước những
viên đạn bọc đường ấy.
II-
SỐNG THIỀN:
Theo
tinh thần nhập thế của đạo Phật, hành giả tu Thiền cần
hòa nhập vào hơi thở của cuộc sống. Vừa làm tròn những
trách nhiệm đối với thế gian, vừa khéo sống với “con
người thật” của chính mình, ấy gọi là Sống Thiền.
Chúng
ta sẽ xét đến những trách nhiệm đối với bản thân, với
người khác, và cả với môi trường sinh thái, mà một thiền
sinh chân chánh phải biết xác định và đảm đương.
1-
Trách nhiệm đối với bản thân:
Phương
pháp công phu và những điều kiện làm nên phong cách của
một hành giả tu Thiền, chúng ta đã khảo sát trong chương
Con đường Thiền tập. Ở đây, chúng ta bàn đến vài vấn
đề cần thiết để hoàn thiện đời sống của thiền sinh,
làm sao để vừa phù hợp với trào lưu tiến hoá của xã
hội, vừa không đánh mất bản sắc riêng của mình.
Trước
tiên, chúng ta phải tự xác định cho mình một lý tưởng.
Người có lý tưởng mới sống hết mình với cuộc đời
mà tính cách riêng vẫn lung linh tỏa sáng, nói theo từ hiện
đại là hòa nhập mà không hoà tan. Hermann cho rằng: “Giá
trị mỗi người tùy thuộc vào lý tưởng của người ấy
cao hay thấp”. Có người mang hoài bão học hành đỗ đạt,
thành người có ích cho xã hội; người có nguyện ước phụng
vụ, trọn đời hy sinh cho những người nghèo khổ hay nạn
nhân chiến tranh; người mang lý tưởng cách mạng nhân sinh,
tạo dựng một thế giới hòa bình thịnh vượng. Khi đã có
lý tưởng, phải trung thành với lý tưởng ấy đến cùng,
vì nếu thối lui là ta đã bội bạc chính mình. Thiền sinh
chúng ta chọn lý tưởng cao siêu, theo chân Phật-Tổ trên đường
Giác ngộ-Giải thoát, vì ta biết ngũ dục lạc thế gian không
phải là nơi nương tựa đời đời. Sự hưởng thụ dục
lạc không bao giờ thực có thỏa mãn, như người uống nước
muối, càng uống càng khát. Chúng thật tạm bợ mong manh như
lửa đom đóm, chỉ có ánh sáng mãnh liệt và vĩnh viễn là
tánh giác sẵn đủ mới là nơi hướng đến của đời mình.
Tuy
nhiên, không đắm luyến ngũ dục không có nghĩa là lãnh đạm
với thế gian. Chúng ta vẫn có cảm xúc, nhưng xúc cảm ấy
được tịnh hóa. Ta vẫn yêu thương mọi người mọi vật
nhưng tình thương yêu không có tính cách chiếm hữu, mà bình
đẳng và vong ngã. Ðây là tiền đề của lòng từ bi, tinh
thần của đạo Phật, vì nếu chủ trương dửng dưng với
mọi nỗi khổ của người, thì đạo Phật đâu có ích lợi
gì đối với cuộc sống. Tổ Bá Trượng có một câu nổi
tiếng, sau thành chủ trương chung của nhà Thiền : “Nhất
nhật bất tác, nhất nhật bất thực”(Một ngày không làm,
một ngày không ăn). Sự lao động chân tay vừa tạo sinh kế,
vừa giúp cơ thể khoẻ mạnh, chịu đựng nắng gió hơn người
có nếp sống tĩnh tại; nhưng mục đích chính là giúp thiền
sinh không chìm vào trạng thái tịch mặc, xa rời cuộc sống.
Công
phu thiền tập nặng về tự lực, nếu ta không tự giúp mình
thì không ai có thể giúp được ta. Thầy bạn chỉ là người
dẫn đường và hỗ trợ ta trong công phu, chứ không thể thay
ta cất bước. Khi nào còn có một ý niệm tựa nương là ta
chưa được hoàn toàn tự do tự chủ. Người thế gian thường
tựa nương vào tiền bạc danh vọng, vào gia đình bạn bè;
người tu tựa nương vào Thầy-Tổ, vào huynh đệ, vào cảnh
giới an lạc của tâm. Nhưng hễ còn tựa nương là còn chấp
ngã, có ta là chủ thể, có người và cảnh là đối tượng.
Hòn bọt không còn chỗ nương vào mặt biển mới thật sự
hòa nhập vào đại dương bao la. Hòn bọt năm uẩn cũng vậy,
khi buông tận gốc rễ mọi chấp trước, kể cả ý nghĩ ta
không nương tựa, ta mới thể nhập trọn vẹn vào pháp giới.
Phải buông tay cho chết một lần, từ đó mới có cuộc tái
sinh.