Chương
1
THIỀN VÀ SỰ
SỐNG
Chúng
ta có thể dùng văn tự ngôn ngữ để diễn tả hay định
nghĩa Thiền?
Nếu
Thiền có thể diễn tả bằng ngôn từ, lúc ấy không còn
là Thiền nữa. Ðức Phật thuyết pháp ròng rã 49 năm, cũng
không nói được đến chỗ nầy. Vì không thể tiếp cận
Thiền bằng ngôn ngữ, nên nhiều vị Thiền sư ngày xưa, khi
khai thị cho môn đệ, chỉ dùng những hành động kỳ quặc
hay lời nói vô nghĩa. Từ đó, Thiền mang một vẻ bí hiểm,
thậm chí quái dị đối với những người muốn nhận ra lẽ
thật bằng tri thức và kiến thức.
Thật
sự, ta không thể giới hạn Thiền trong một khuôn khổ, một
hình thức, cũng không thể lý giải bằng tư duy suy luận.
Thiền không thể tách rời khỏi cuộc sống, không thể tìm
thấy ở một nơi xa xôi bí mật nào đó. Bởi vì, Thiền là
Chân lý sống. Sự sống chỉ tươi nhuận luân lưu trong phút
giây hiện tại, nên muốn trực nhận và thẩm thấu Thiền,
chúng ta phải tự mình bơi lội trong dòng sống đang tuôn trào
trôi chảy.
Như
thế, Thiền có mặt trong mọi sinh hoạt đời thường. Nếu
hiểu Thiền là trốn chạy sự sống, là xa lánh cuộc đời,
thì vô tình ta đã đánh mất nghĩa vụ thiêng liêng của mình
đối với xã hội; và lúc ấy, ta đã biến Thiền thành mảnh
đất tâm hoang dại khô cằn.
I-
NỘI DUNG TU THIỀN TRONG CUỘC SỐNG
1-
Chánh niệm
Kinh
Niệm xứ, một Thiền kinh thuộc Trung bộ tập I, chỉ dạy
những điều căn bản về Thiền Vipassana thuộc truyền thống
Thiền Nguyên thủy. Nội dung Thiền Vipassana là Chánh niệm
trong từng giây phút của đời sống, qua 4 lãnh vực là Thân,
thọ, tâm, pháp. Hành giả luôn đặt tâm vào giờ phút hiện
tại, tỉnh giác biết rõ mọi vận hành biến đổi của thân
tâm bên trong và cảnh vật bên ngoài. Các pháp diễn biến
như thế nào, hành giả biết tường tận như thế đó, mà
không có một niệm phân biệt chia chẻ xen vào. Ðức Phật
gọi đó là Tuệ tri, sự biết về các pháp đúng như tự
thân của chúng.
Con
người thường thích tìm hiểu những điều cao siêu, xa rời
thực tế, trong khi cuộc sống luôn dàn trải trước mắt ta
với tất cả nhiệm mầu. Do chúng ta mong mỏi tìm cầu chân
lý ở đâu đó xa xôi, nên không thể thấy chân lý rất đơn
giản và ở ngay mảnh đất mình đang đứng. Và rồi, hoặc
chúng ta cảm thấy mình bất lực khi muốn vươn đến lý tưởng
tuyệt đối; hoặc thấy cuộc đời sao nhiều phiền não nhiêu
khê, muốn tìm nơi yên tĩnh, xa lánh hết mọi phù phiếm thế
gian.
Con
người cũng thường mơ mộng đến tương lai hoặc hoài niệm
về quá khứ. Những người lớn tuổi hay sống trong kỷ niệm;
kỷ niệm nào cũng đẹp dù vui hay buồn, vì đó là những
chuyện đã qua, không bao giờ trở lại. Tuổi thanh niên thì
thường phóng tâm đến những viễn cảnh huy hoàng, tuy là
những gì chưa đến nhưng nhờ có hy vọng về một cuộc sống
tốt đẹp hạnh phúc, người ta mới cố gắng làm việc, học
tập. Hy vọng như một tác nhân kích thích, một nguồn động
viên quý báu khi quanh ta đầy dẫy khó khăn gian khổ. Ðối
với người tu, cõi Cực Lạc hay Niết-bàn là phần thưởng
cao cả, là mục đích tối thượng kết thúc cuộc trường
chinh chống kẻ thù phiền não tham sân si ngay bản thân mình.
Diệt trừ phiền não, thủ chứng Bồ-đề là tinh thần tu
tập của những hành giả chưa thoát khỏi vòng kiềm tỏa
của thức tâm phân biệt, còn thấy phiền não đáng diệt
trừ, Niết-bàn đáng nương cậy như một thế giới lý tưởng
ở một tọa độ không-thời gian nào đó.
Thật
ra, chúng ta không thể rời thế gian tìm cầu Phật pháp, vì
pháp Phật và pháp thế gian là bất khả phân ly. Mọi sự
vật hiện tượng luôn biến chuyển trong từng sát-na, như
dòng sông luôn luôn trôi chảy. Nhưng trong dòng chảy bất tận
ấy vẫn có một thực tại bất động vĩnh hằng – chính
là cái bây giờ tuyệt đối, chỉ hiện hữu nơi đương xứ,
bây giờ và ở đây. Thiền định là đặt tâm vào cái bây
giờ tuyệt đối ấy để thẩm thấu thực tướng các pháp
đang là. Trong kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ dạy về Thiền
định như sau:
Ngoại
ly tướng tức Thiền
Nội
bất loạn tức định
Ngoại
thiền nội định, thị vi thiền định.
Tạm
dịch:
Ngoài
lìa tướng là thiền
Trong
chẳng loạn là định
Ngoài
thiền trong định, ấy gọi là thiền định.
Cũng
như trong kinh Niệm Xứ, Thiền định theo Lục Tổ chỉ dạy
không bị hạn cuộc ở thời gian, không gian và cuộc sống
của hành giả. Thiền định như một thực tại không lìa
thế gian, và phải được thể hiện ngay trong sinh hoạt thường
ngày. Trong từng phút giây, nếu ngoài không dính mắc với
trần cảnh (lìa tướng), trong không khởi niệm lăng xăng (chẳng
loạn), ấy là ta đang công phu thiền định một cách đắc
lực nhất. Khéo an trú trong hiện tại, tỉnh giác nhận diện
từng con sóng sanh diệt của thân-tâm-cảnh, ta không còn bị
dẫn lôi phiêu dạt trăm nơi nghìn chốn nữa. Ðây chính là
nội dung của Chánh niệm, bước đầu tiên căn bản của đời
sống thiền sinh.
Theo
lẽ thường, muốn tìm trâu phải theo dấu chân trâu. Cũng
vậy, muốn tìm tâm phải theo dấu vết của tâm. Dấu vết
của tâm là những niệm sinh diệt. Nếu lìa sinh diệt niệm
để riêng tìm tâm thì chẳng khác nào lìa sóng đi tìm nước.
Vì thế, sự tỉnh giác trong đương niệm là bí yếu để
nắm bắt sự thật ngay trong dòng sanh diệt của đương niệm.
Chúng ta không nên hiểu “tỉnh giác trong đương niệm” là
diệt niệm, mà là lặn sâu vào dòng sanh diệt của đương
niệm để thực hiện sự chuyển hoá tận gốc rễ. Mặt khác,
khi trí óc ta đầy kiến thức vay mượn và tự hào với chúng,
ta chưa dọn tâm để tiếp nhận chân lý Thiền. Trong tâm ta
phải dọn sạch mọi ý niệm có sẵn, mọi kiến giải gom
góp từ nơi khác. Yếu tố quyết định nhân cách của một
thiền sinh không phải là sự thông minh bác lãm, mà là công
phu hành trì đúng pháp. Bởi vì Thiền không thuộc lĩnh vực
lý luận tư duy, không nằm trong ngôn ngữ, mà ở ngay thế
giới hiện thực, trong cuộc sống hằng ngày; và sống Thiền
nghĩa là chánh niệm ở mọi thời mọi cảnh, khi tĩnh cũng
như khi động.
Kinh
Pháp Hoa, phẩm Như-Lai Thần Lực diễn tả một hình ảnh lung
linh huyền diệu: Từ các lỗ chân lông của Phật Thích Ca
phóng ra vô số tia sáng muôn màu rực rỡ, chiếu soi tất cả
cõi nước mười phương. Hình ảnh nầy tượng trưng ánh sáng
chánh niệm không thể nghĩ bàn, tỏa chiếu từ Pháp thân Ðức
Phật. Các bậc ngộ Ðạo khi còn sống ở thế gian, do tâm
luôn an trú trong thời điểm hiện tại bất động, nên những
công việc bình thường đơn giản trở thành phi thường thoát
tục. Và vì các Ngài đi từng bước bình an trong thực tại
hiện tiền, nên phương tiện cũng chính là cứu cánh, Niết-bàn
Cực-Lạc cũng chỉ ở tại đây và bây giờ !
2-
Lìa nhị biên
Con
người chúng ta khi tiếp xúc với ngoại cảnh, lúc nào cũng
khởi niệm phân biệt. Mắt thấy sắc liền phân đẹp xấu,
đẹp thì ưa, xấu thì ghét; ưa thì muốn chiếm hữu, ghét
lại muốn xa lìa. Các căn khác cũng cùng tình trạng như thế,
biết bao vọng niệm cuồn cuộn theo nhau như dòng thác lũ.
Ý sanh khởi, kích thích miệng nói thân làm. Ðó là tiến trình
của nghiệp, là động cơ của guồng máy sanh tử, dù nghiệp
thiện lành hay xấu ác. Cho nên, có khởi niệm là có tạo
nghiệp, có luân hồi. Nói khác đi, khi sáu căn (mắt tai mũi
lưỡi thân ý) tiếp xúc sáu trần (sắc thinh hương vị xúc
pháp), nếu khởi phân biệt hai bên là ràng buộc vào sanh tử.
Cũng sáu căn ấy, tuy vẫn tiếp xúc sáu trần mà bặt mọi
vọng niệm, thì vẫn thấy nghe hay biết rõ ràng mà không còn
động cơ tạo nghiệp, vòng luân hồi bị chặt đứt.
Ðối
với người bình thường, cái chết là nỗi sợ hãi lớn nhất
và trường diễn nhất. Bởi vì khi sống, con người có thể
hưởng thụ mọi lạc thú ngũ dục, có thể tiếp xúc và cảm
nhận mọi hiện hữu quanh mình. Sống là sinh hoạt nói năng,
là ánh sáng âm thanh muôn màu muôn vẻ; chết là mất tất
cả, là vô tri vô giác, là tối tăm ghê rợn, là rơi vào một
thế giới mịt mù vô tận vô biên ... Quan niệm như thế có
đúng không?
Thật
sự, thân người không phải là một cấu tạo đồng nhất,
mà do nhiều yếu tố kết hợp lại. Ðức Phật dạy, tứ
đại là đất nước gió lửa tạo nên sắc thân, thọ tưởng
hành thức là yếu tố tâm lý, nói chung là thân năm uẩn.
Các nhà khoa học ngày nay cũng đã chứng minh rằng, đơn vị
của cơ thể là tế bào; mỗi tế bào lại được cấu thành
bởi nhiều yếu tố, và từng nhóm tế bào đảm trách những
công việc khác nhau. Chúng liên tục sinh ra rồi chết đi trong
từng giây phút, nên thân ta cũng biến đổi không ngừng. Lại
nữa, những bộ phận trong cơ thể đều tự động làm việc
mà không theo ý muốn của chúng ta; chỉ khi nào có trở ngại
bệnh tật, ta mới ý thức sự có mặt của chúng, vì thế
thân nầy không có chủ tể. Không đồng nhất vì được cấu
thành bởi nhiều yếu tố, do không cố định vì biến đổi
liên tục, do không có chủ tể vì hoạt động độc lập,
nên thân này là vô ngã. Bằng cái thấy minh triết, Ðức Phật
dạy rằng, sự sống chỉ là vay mượn giả hợp. Hàng ngày,
con người phải vay tứ đại bên ngoài để bồi bổ và đổi
mới cho tứ đại bên trong, như mũi hít vào thở ra là vay
trả gió, uống nước vào thải ra là vay trả nước ... Vay
trả thông suốt là mạnh khỏe, vay trả bị trở ngại là
ốm đau. Ðáo cùng, không có cái gì là thật ngã.
Vì
không có cái sống thật nên cũng không có cái chết thật.
Khi ta lìa bỏ thân nầy, thần thức chờ hội đủ duyên, theo
nghiệp mà gá vào thai thành thân sau, cứ thế quẩn quanh trong
lục đạo. Sự luân hồi như một dòng chảy tương tục không
bao giờ dừng, mà cái chết chỉ là sự tạm ẩn tàng để
rồi tái hiện dưới một hình thức khác. Ngay cả dạng thân
vô hình mà mắt thường không nhìn thấy và cho là hồn ma
bóng quế, cũng là những cõi sống thuộc loài ngạ quỷ hoặc
thân trung ấm của người mới mất. Và như vậy, sống và
chết chỉ là hai cảnh huống đắp đổi cho nhau như sự hiện
và biến của một cảnh trên màn hình.
Hiểu
sâu thêm một bậc, tất cả những khái niệm phân biệt hai
bên đều chỉ là tương đối; chúng là hai mặt đối lập
nhau của một thực thể duy nhất và cùng nương nhau mà tồn
tại. Có trắng mới có đen, có tốt mới có xấu và ngược
lại. Thánh –phàm, Bồ đề – phiền não, Sanh tử - Niết-bàn
cũng như thế. Khi tâm an định, siêu việt mọi chấp trước
thì tất cả đều là Phật pháp; khi tâm loạn động, dù ở
nơi thanh tịnh vẫn thấy khổ sở buồn phiền. Những bậc
đã giác ngộ nhìn vạn pháp đều vi diệu nhiệm mầu, vì
toàn bộ đều ở trong ánh giác. Cho nên, phải nhận cái thanh
tịnh vĩnh cửu ngay chỗ vô thường ô trược, cái phi tục
ngay từ phàm tục, cái xuất trần ngay trong trần thế. Ðây
là tinh thần bất nhị, tư tưởng vút cao của nhà Phật, nơi
không thể diễn tả bằng văn tự nên Ngài Duy-Ma chỉ còn
cách biểu hiện bằng sự im lặng sấm sét (mặc như lôi).
Trong
kinh A-Hàm, Ðức Phật nói Ðề-Bà-Ðạt-Ða sẽ đoạ địa
ngục vì tội phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu. Ngụ
ý Ðức Phật muốn cảnh tỉnh những môn đệ còn yếu về
mặt nhận thức tương phản hai chiều, phải bỏ xấu về
tốt, bỏ mê về ngộ, phải phân biệt rạch ròi giữa thiện
và ác. Nhưng trong kinh Pháp Hoa, Ngài lại bảo Ðề-Bà-Ðạt-Ða
là thiện hữu tri thức đệ nhất của Ngài, vì nhờ ông ta
mà Ngài sớm thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Có phải chăng, Ngài muốn nâng trình độ môn đệ có khả
năng hướng đến một cấp độ cao hơn, bằng một bước
nhảy siêu vượt cả thiện và ác, cả mê và ngộ ?
Nhà
Thiền có câu “Niệm niệm tùng tâm khởi, Niệm niệm bất
ly tâm”. Mọi ý niệm đều từ tâm mà khởi, đều không
rời khỏi tâm. Tâm là nguồn cội, niệm là ngọn ngành. Tâm
là bất sanh bất diệt, niệm thì lúc hiện lúc biến; nhưng
khi hiện sanh là từ cái vô sanh, và khi biến diệt lại trở
về cái vô diệt. Cho nên, đứng từ Sinh diệt môn hay Tích
môn thì thấy có biến có hiện có đi có đến, còn đứng
từ Chơn như môn hay bản môn thì không có sanh diệt bao giờ.
Niệm như những đợt sóng, tâm như biển cả mênh mông; sóng
có khi nào rời nước, vọng và chơn cũng không thể tách rời.
Chúng sanh chấp vọng tâm là mình nên mải mê đuổi theo ngoại
vọng, bị nghiệp thức dẫn lôi vào vòng xoáy sanh tử; người
tu biết trở về nguồn cội, ngay vọng nhận ra chơn, ngay hiện
tượng vô thường nhận ra bản chất hằng hữu. Một người
tu lý tưởng không phải là người nhắm mắt bịt tai trước
trần cảnh, mà là người hàng ngày vẫn tiếp xúc với các
duyên nhưng không dính mắc ; và thực tế hơn, là người dù
bị vấp ngã vẫn đứng lên, tiếp tục bước đi. Minh chứng
cho tinh thần nhập thế là gương các cư sĩ Thiền sư, dù
trăm công nghìn việc như Tướng quốc Bùi Hưu hay vua Trần
Thái Tông, dù thê tử đông đảo và của cải sung mãn như
Tuệ Trung Thượng sĩ, vẫn sáng đạo và nhiêu ích cho bao người.
Kinh
Lăng Nghiêm mô tả đoạn Tôn giả A-Nan hỏi Ðức Phật về
đầu mối sanh tử và nguồn gốc giải thoát. Ngay lúc ấy,
mười phương chư Phật đồng thanh cất tiếng: “Hay thay cho
An Nan! Ông muốn biết cái câu sanh vô minh là cái đầu nút
khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn
của ông, chứ không phải là vật gì khác; ông lại muốn
biết tính Vô thượng Bồ đề, khiến ông chóng chứng đạo
quả an vui, giải thoát, vắng lặng, diệu thường, thì cũng
chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác”(1).
Tổ Quy Sơn cũng dạy: “Văn thinh kiến sắc cái thị tầm
thường, Giá biên na biên ứng dụng bất khuyết”. Nghe tiếng
thấy sắc thế nào để tâm bình thường, được như vậy
thì bên này (sáu căn), bên kia (sáu trần) tự nhiên ứng dụng
toàn vẹn toàn hảo. “Tâm bình thường” là lúc tiếp xúc
với trần cảnh, vẫn thấy biết tất cả nhưng không có ý
thức phân tích hai bên. Sống với tâm bình thường là giải
thoát, là lục tặc biến thành lục thông, diệu dụng bất
khả tư nghì.
Lý
thuyết nghe rất dễ, nhưng khi thực hành mới vô cùng khó
khăn. Bởi vì tập khí nhiều đời, chúng ta quen dính mắc
với cảnh, thấy cảnh liền sanh tâm phân biệt. Nhờ công
phu miên mật, trong phút giây nào đó ta nhận ra lẽ thật,
nhưng cũng chỉ như ánh chớp trong đêm đen, không phải đã
xong việc mà còn cần kiên trì gột sạch tập khí, buông bỏ
vọng tưởng. Ðời tu rất gian nan vất vả, nhưng bù lại,
chúng ta có lúc cảm nhận sự bình an hỷ lạc của Thiền,
khi sống với bản tâm sẵn đủ. Bản tâm vốn lặng vốn
chiếu, là bổn tịch bổn tri. Bổn tịch là trạng thái lặng
lẽ thanh tịnh sẵn có nên không miễn cưỡng để vào định.
Bổn tri là cái thường biết sẵn có nên không cưỡng cầu
thêm hiểu biết.
Khi
các căn tiếp xúc với các trần, không có ý niệm phân ranh
là Ðịnh nhưng vẫn rõ ràng thường biết là Huệ. Ðịnh-
Huệ đồng thời là trạng thái vô niệm mà tùy cảm tùy ứng,
đúng yếu chỉ Thiền tông. Khéo hiểu những điều này, công
phu của chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn và kết quả nhanh hơn.
Ai cũng có phiền não kiết sử, nhưng khi rõ tất cả đều
không thật và không ở ngoài thể tánh bổn tịch bổn tri,
ta sẽ hiểu vì sao không tìm Bồ-đề ở ngoài phiền não.
Người biết tu là người gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng
không mất tự chủ tỉnh giác. Các vị Thiền sư vẫn sinh
hoạt, nói năng như mọi người, không hề có một biểu hiện
phi thường xuất thế như thi triển thần thông, pháp thuật.
Chúng ta hay đánh giá người khác qua hình tướng, qua ngôn
ngữ cử chỉ bên ngoài, nên đôi khi nhận lầm thầy bạn.
Trong đời sống thường nhật, tốt nhất là dùng bát phong(2)
(*) đo định lực của mình và người.
3-Thiền
suy tiến cá nhân nhưng không suy tiến bản ngã:
Quyển
Góp nhặt cát đá do tác giả Ðỗ Ðình Ðồng dịch, có kể
chuyện một người cha truyền nghề đạo chích cho con. Nếu
người cha cứ cho con theo sát mình từng bước, chỉ dẫn con
từng việc, thì không thể giúp con phát huy tính sáng tạo
và nắm vững những bí quyết trong nghề. Cha phải dồn con
vào thế bí để con tự phát hiện, tự kinh nghiệm trên thực
tế và tự tìm giải pháp. Chỉ có việc ăn trộm mà còn phải
nhọc công như vậy, huống nữa là việc tu hành. Người tu
phải có những cuộc thăm dò phiêu lưu gian khổ, tự mày mò
kinh nghiệm, tự mình khám phá những bí ẩn kỳ diệu trong
mảnh đất tâm của chính mình. Vị thầy chỉ hướng dẫn
và trợ duyên cho môn đệ, có lúc phải dồn môn đệ vào
chỗ nguy hiểm để môn đệ phát huy nội lực. Ðó là tinh
thần tự thắp đuốc lên mà đi, nhưng phải thắp lên với
chánh pháp. Những môn đệ biết tự mình bước trên đôi
chân của mình, mới đáng tin cậy và đáng giao phó việc lớn
trong tông môn.
Với
tinh thần tự lực, nhà Thiền chủ trương mỗi cá nhân đều
là–và phải là– yếu tố quyết định trong sự giác ngộ
và giải thoát. Không ai làm thay được cho ai, kể cả chư
Phật chư Bồ-tát. Mỗi người phải tự xoay lại chính mình,
thầm nhận bản tâm chân thật sẵn đủ, bằng sự thể hiện
của tầng sâu thẳm trực giác siêu ý thức, cuối cùng thể
chứng chân tánh bất sinh. Khi tất cả những bí mật ngàn
đời của vũ trụ vạn loại đã được dàn trải, mỗi vị
sáng đạo sẽ có một cách sống khác nhau, một cách giáo
hóa khác nhau tùy bổn nguyện. Nhưng muốn đạt đến mục
đích tối thượng, người tu phải trang bị cho mình một ý
chí kim cương, ngoài kiến thức vững chãi về pháp tu và những
kinh nghiệm trong công phu hành trì. Nếu không đầy đủ nghị
lực để đương đầu với bao sóng gió cuộc đời, chúng
ta khó thể thấu triệt đến mức độ sâu xa siêu tuyệt của
đạo lý. Con người yếu hèn bạc nhược thì không thể thành
công trong bất cứ công việc nào, huống chi là việc thoát
ly sanh tử.
Thiền
sư Hoàng Bá có bài kệ rất hay:
Trần
lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ
bã thằng đầu tố nhất trường.
Bất
thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh
đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Nghĩa:
Vượt
khỏi trần lao việc phi thường,
Ðầu
dây nắm chặt giữ lập trường.
Nếu
chẳng một phen sương lạnh buốt,
Hoa
mai đâu dễ ngát mùi hương.
Ðây
là tiếng chuông cảnh tỉnh và khuyến khích người tu chiến
thắng mọi chướng duyên, viên thành đạo quả. Vượt khỏi
trần lao không phải việc tầm thường, nên ý chí người
tu cũng phải phi thường, có bản lĩnh dám làm dám chịu. Người
có bản lĩnh là người biết rõ khả năng của mình và công
việc mình đang làm; trước khi làm có đắn đo, cân nhắc,
và khi biết việc làm ấy là đúng thì gan dạ giữ vững lập
trường, đi cho đến đích. Hoa mai trước khi tỏa hương thơm
ngát vào mùa xuân, phải trải qua ba tháng đông lạnh lùng
buốt giá. Người tu cũng thế, phải trải qua cuộc sống độc
hành độc bộ, tu tập tinh cần, tam thường bất túc; phải
có sức mạnh tự nội, gan dạ chiến đấu với những cám
dỗ của ngũ dục bên ngoài và ma chướng bên trong. Ðời sống
thiền sinh chúng ta thú vị ở chỗ, dù phải chiến đấu với
bản thân trong từng giây phút, phải cảnh giác cao độ với
những quyến rũ ràng buộc của tiền trần, nhưng khi chiến
thắng một trận, ta lại thấy mình trưởng thành thêm một
ít, và càng vững tin mình sẽ có ngày chiến thắng trận cuối
cùng.
Tuy
nhiên, tinh thần suy tiến cá nhân trong nhà Thiền không nên
đồng hóa với lối suy tôn bản ngã vốn xa lạ với đạo
Phật. Chúng ta thường nhìn nhận sự vật theo cái thấy biết
chủ quan thiên kiến của mình. Ðây là hành vi của bản ngã.
Ngã tướng biểu hiện qua muôn vàn khía cạnh từ thô đến
tế, mà nếu không chánh niệm tỉnh giác nhận diện và chuyển
hoá chúng, ta khó thể thấu triệt bản chất chân thật của
vạn pháp. Chúng ta sẽ bàn đến vấn đề này kỹ hơn ở
chương Con đường thiền tập, nhưng ở đây, cần đề cập
đến một khía cạnh của tinh thần vong ngã: Lòng từ bi của
những bậc Giác ngộ.
Phẩm
Phổ môn kinh Pháp Hoa diễn tả lòng từ bi của Bồ-tát Quán
Thế Âm như sau:
Bi
thể giới lôi chấn
Từ
ý diệu đại vân
Và
:
Cụ
nhất thế công đức
Từ
nhãn thị chúng sanh
Vì
sao bản chất của lòng Bi (Bi thể) được ví như tiếng sấm
động (lôi chấn), và lòng Từ như đám mây hiền? – Bởi
vì tình thương của Bồ-tát là tình thương tích cực, vừa
cứu khổ vừa ban vui, như sấm chớp báo hiệu cho mây bao phủ,
và mưa trút xuống dập tắt những đám cháy phiền não, làm
muôn người muôn vật được tươi mát bình an. Và vì Bồ-tát
có đầy đủ công đức, nên nhìn tất cả chúng sanh bằng
đôi mắt từ hòa. Ðây là tình thương chân chính và vong ngã
của một bậc giác ngộ và từ bỏ đắm say vào cuộc sống.
Tại sao nói như thế?
Con
người thường cho rằng, mình là chủ nhân của vũ trụ, nên
mọi loài mọi vật đều phải chịu sự chi phối của mình;
thậm chí dùng mạng sống của chúng để thỏa mãn những
nhu cầu ẩm thực giải trí cho riêng mình, không biết rung
động khi thấy chúng sợ hãi, đau đớn. Tàn nhẫn hơn, có
kẻ chủ trương tàn sát những người bị xem là thuộc chủng
tộc hạ đẳng hoặc không cùng tôn giáo. Nếu ai có tình thương
với người với vật, thì đó cũng là tình thương chiếm
hữu, vị kỷ. Cha mẹ nuôi con, muốn con sau này có hiếu với
mình, chăm sóc mình lúc già yếu; nam nữ kết hợp với nhau
cũng có chọn lựa cân nhắc, có đòi hỏi sự đền đáp tương
xứng; bạn bè giúp nhau cũng mong có sự trao đổi, biết ơn
... Bồ-tát không như vậy. Các Ngài thương chúng sanh một
cách tự nhiên, không phân biệt, không điều kiện. Ðây là
tâm Vô duyên từ. Bằng ánh sáng giác ngộ, các Ngài thấy
mọi loài chúng sanh đều bình đẳng ở Phật chất, nên thương
tất cả những ai còn vô minh. Tình thương của các Ngài chan
hòa và bình đẳng khắp vũ trụ vạn loại, không vướng mắc
vào nhân- ngã, không bị ràng buộc vào ý tưởng biết ơn
– đền ơn. Bồ-tát thị hiện nơi đời làm lợi ích cho
chúng sanh, không bao giờ để lộ hành tung. Hai Ngài Hàn Sơn
– Thập Ðắc, mang thân phận người tu căn cơ hạ liệt,
bị mọi người rẻ rúng khinh khi, vẫn bình thản và hành
mật hạnh. Khi bị mọi người phát hiện là Bồ-tát hoá thân,
hai người đưa nhau vào núi ẩn tích. Ngày nay, trên thế giới
cũng có nhiều tổ chức phi chính phủ, những người tình
nguyện vào mọi nơi khổ đau bệnh tật, di chứng chiến tranh,
để cứu giúp đồng loại một cách vô điều kiện. Các vị
ấy cũng đang hành hạnh Bồ-tát, dù thuộc sắc tộc nào,
tôn giáo nào. Hình ảnh lạ lùng trong nhà Thiền như gái đá
nhảy múa, người gỗ hát ca hay sáo không lỗ, đàn không dây
... cốt nói lên diệu dụng bất khả tư nghì, khi các Ngài
sống bằng bản tâm thanh tịnh, làm mọi Phật sự với tinh
thần vong ngã.
II-
THIỀN THỂ HIỆN VÀO ÐỜI SỐNG
Bằng
tinh thần nhập thế của Ðạo Phật, Thiền hòa quyện vào
đời sống nhờ tính chất thực tiễn, linh hoạt và bình đẳng,
làm cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Ðồng thời,
nhờ uyển chuyển tùy duyên một cách hiệu quả nhất, nên
Thiền trở thành muôn màu muôn vẻ, phù hợp với tất cả
mọi người.
1-
Tính thực tiễn
Nhà
đại bác học Albert Einstein từng thừa nhận “Nếu có một
tôn giáo phù hợp với những yêu cầu của khoa học hiện
đại, thì đó là đạo Phật”. Ðể “phù hợp với những
yêu cầu của khoa học hiện đại”, trước tiên đạo Phật
phải có tính thực tiễn, vì khoa học không chấp nhận mê
tín thần quyền. Yêu cầu này cũng là chủ trương của đạo
Phật, một đạo trí tuệ và vô cùng thực tiễn. Thiền tông,
một tông phái trong nhà Phật càng đặt nặng tinh thần này.
Thiền
sư Suzuki nói: “Thiền là biển nước, là không trung, là núi
non, là sấm sét, là hoa xuân nắng hạ tuyết đông. Không những
thế mà còn hơn thế, Thiền chính là con người”. Thấy biển
nước không trung một cách sâu xa tức tự tri tận bản chất
các pháp. Thiền không phải xa rời thế giới hiện thực để
tìm kiếm một thế giới lý tưởng xa vời, mà là thực tại
nhiệm mầu khi tâm ta bất động nơi đương xứ. Thiền không
phải biểu hiện trên từ chương ngôn ngữ, trong khái niệm
tư duy, mà hiện sinh trong từng giây phút của đời sống thiền
tập. Khi trở về bản thể thanh tịnh và hằng tri, an trú
vào giờ phút hiện tại bất động, chánh niệm tỉnh giác
trên từng biến đổi động thái của sự vật và bản thân,
hành giả nhận rõ rằng, Thiền-Ðạo–bản thân và muôn pháp
thật sự không hai không khác.
Một
Sa-di đến hỏi Ngài Tùng Thẩm Triệu Châu:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp ?
Ngài
hỏi lại:
-
Chú ăn cháo chưa ?
-
Bạch Hòa thượng, con ăn rồi.
-
Rửa chén đi !
Sa-di
liền ngộ, sụp lạy tạ ơn.
Sự
ngộ đạo sao quá dễ dàng đơn giản? Nghĩa lý nào ở chỗ
ăn cháo rửa chén? Nếu công phu của chúng ta chưa có chiều
sâu, ta khó thể hiểu ý nghĩa thâm trầm trong câu chuyện nầy.
Sa-di đã từ lâu thao thức, từ lâu tinh cần công phu mà vẫn
chưa tỏ ngộ lý Thiền nên cầu sư phụ chỉ dạy Pháp yếu.
Ngài Triệu Châu hỏi “Ăn cháo chưa?” là một thủ thuật
vì đương cơ mà quyền biến. Ai biết ăn cháo, ai biết rửa
chén? Khi ăn cháo, rửa chén mà thầm nhận người thật sẵn
đó thì rõ ràng Thiền có mặt trong những công việc tầm
thường ấy. Chúng ta quá phức tạp, tâm cứ lăng xăng rối
rắm, làm việc này nghĩ việc khác nên tâm không thấy cái
xuất trần ngay trong trần tục. Vị Sa-di đã dọn sẵn tâm
mình, nên khi Ngài Triệu Châu điểm nhẹ, cửa tâm liền mở
rộng đón nhận chân lý ngàn đời.