Chương
6
KHỐI NGHI VÀ
THUẬT KHAI TÂM
I-
DẪN NHẬP
Trong
những thời kỳ hưng thịnh của Thiền tông Trung Hoa, nhất
là thời Ngũ gia tông phái (Lâm Tế, Tào Ðộng, Qui Ngưỡng,
Vân Môn, Pháp Nhãn), các vị Thiền sư vì lòng từ bi đối
với học nhơn, đã có nhiều cách khai thị về yếu chỉ nhà
Thiền. Người nghe giảng về nghĩa lý uyên thâm, dễ sanh lòng
tín kính, dễ phát tâm tu hành, ra sức nghiên tầm ngữ lục,
nghiền ngẫm suy lý. Tuy nhiên, một số người không thấu
rõ lẽ thật vô ngôn, nhận thức tưởng phân biệt làm phương
pháp, nhận tri thức lý luận làm cứu cánh, nên ngày càng
xa đạo lý.
Bằng
tâm lão bà tha thiết, các vị Thiền sư sử dụng những thủ
thuật đặc biệt khiến môn sinh bặt đường suy nghĩ. Các
Ngài không giải thích dài dòng cặn kẽ khi được tham vấn,
chỉ trả lời một câu bâng quơ khó hiểu, một cử chỉ kỳ
lạ hoặc đánh hét... Cốt ý các Ngài làm môn sinh khởi nghi
và đẩy khối nghi ấy đến chỗ bí cùng thành một khối.
Hành giả ngày đêm trăn trở với khối nghi, bao nhiêu tâm
tư chỉ dồn vào việc giải tỏa khối nghi, không thiết tha
đến việc gì khác. Khi đủ thời tiết nhân duyên, chỉ cần
một tác động nhẹ như chiếc lá rơi, tiếng chim hót..., đột
nhiên khối nghi bùng vỡ, hành giả đại ngộ. Ðây là khởi
đầu của thuật khai tâm qua một công án .
Tham
công án là một phương tiện khai tâm của Thiền tông; và
cũng ngay tự nó đã đầy đủ tinh thần Giới–Ðịnh-Huệ:
Chỉ chuyên tâm với công án, không màng đến mọi thứ bên
ngoài là Giới; không xao động theo trần cảnh khởi vọng
niệm là Ðịnh; khi khối nghi bùng vỡ, hành giả thấu suốt
mọi vấn đề là Huệ. Ðịnh ở đây cũng không tùy thuộc
thời gian, không gian và tư thế của hành giả, không có nhập
không có xuất. Tuy vậy, Tham công án có nhiều điểm khác
Tri vọng trong quá trình tu tập, dù cứu cánh vẫn là Kiến
tánh, tức nhận ra bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Pháp
Tri vọng về cơ bản là nhận diện mọi ý tưởng xuất hiện
trong tâm đều hư dối, biết chúng hư dối không theo là phá
ngã chấp về tâm; kết hợp với sự quán chiếu thân và cảnh
đều là duyên hợp không thật, hành giả phá ngã chấp về
thân–cảnh. Lối tu này không hạn chế việc học hỏi kinh
sách, miễn là không chấp chặt những kiến thức vay mượn
làm mục đích cuối cùng. Ngược lại, hành giả tham công
án phải dứt bặt mọi lý luận biện giải và nghiên tầm
kinh sách; khối nghi như một nỗi ám ảnh triền miên, phải
được đề khởi liên tục mà không một niệm nào khác len
lỏi vào. Mặt khác, tu theo Tri vọng có thể nương vào kinh
sách mà biết đường lối tu; đôi trường hợp có nhân duyên
nhiều đời, nghe một đoạn kinh lục, hoát nhiên đại ngộ,
như Lục Tổ Huệ Năng hay vua Trần Thái Tông kiến tánh nhờ
câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang.
Người tham công án, trước tiên phải nương một vị thầy
ngộ đạo; vị thầy sau khi tiếp xúc, sẽ trao cho hành giả
một công án thích hợp. Hành giả cần được thầy chỉ dẫn
từng bước trong lúc công phu mới khỏi lạc lầm .
Hệ
thống Thiền công án được hình thành nhờ các Thiền sư
đời Tống, trong đó phải kể đến Ngài Ðại-Huệ Tông-Cảo
(1089-1163), đệ tử nối pháp Thiền sư Viên Ngộ (1063-1135)
thuộc tông Lâm Tế. Ngài chủ trương Ngộ là cứu cánh, là
sinh mạng của Thiền. Tham công án được xem là Ðộn công
phu vì khi khối nghi chưa được giải quyết thì chưa có Huệ;
tuy nhiên, khi bùng vỡ khối nghi thì lập tức Ðịnh-Huệ quân
bình. Lúc mới ra hoằng hoá tại am Trường Lạc, bằng pháp
tham công án áp dụng cho năm mươi ba môn đệ, Ngài đã ấn
chứng mười ba người đắc pháp chỉ sau năm mươi ngày. Về
sau, đồ chúng của Ngài có khi lên đến hai ngàn người. Ðiều
nầy cho thấy, người tu Thiền công án nếu có duyên lành
gặp Minh sư chỉ dạy, thường đạt kết quả nhanh, thẳng
tắt.
Tác
phẩm nổi tiếng về công án trong nhà Thiền là Bích Nham Lục
gồm 100 tắc công án. Nguồn gốc của tác phẩm nầy là do
Thiền sư Tuyết Ðậu (978-1052), cháu đời thứ tư trong tông
Vân Môn, thu thập và chọn lựa từ Nội điển, Ngoại điển
và Văn sử thành 100 tắc, mỗi tắc làm một bài tụng chỉ
ra những chỗ sâu mầu, gọi là Tuyết Ðậu Tụng cổ. Sáu
mươi năm sau khi Thiền sư Tuyết Ðậu thị tịch, Ngài Viên
Ngộ chú thích thêm và biên tập thành tác phẩm Bích Nham Lục.
Người mới đến với Thiền, đọc các công án ấy không
thể hiểu được gì; nhưng chính chỗ không hiểu ấy mới
làm khởi mối nghi. Khi chiêm nghiệm tới mức độ nào đó,
bừng hiểu ra ta sẽ vô cùng tâm đắc vì những ý nghĩa sâu
xa trong đó.
II-
Ý NGHĨA VÀ MỤC ÐÍCH:
1-Từ
đa niệm đưa về nhất niệm:
Trạng
thái của tâm thức như một dòng thác, như vượn chuyền cành,
không lúc nào dừng nghỉ; lại còn bị kích thích bởi trí
nhớ, sự tưởng tượng và hoạt động một cách thầm kín,
nên con người luôn bị quay cuồng trong đa niệm. Cả những
khi lạy Phật tụng kinh, tuy miệng đọc thân lạy mà nhiều
lúc ta vẫn nghĩ lan man chuyện nầy chuyện khác. Chính do tâm
lăng xăng suy nghĩ mà tạo nghiệp thiện ác, động cơ của
guồng máy luân hồi.
Tuy
nhiên, con người cũng có khả năng tập trung vào một vấn
đề, một nghi vấn. Khi ấy, những việc khác bị gác qua một
bên. Các nhà nghiên cứu, khi toàn tâm toàn ý suy nghĩ về một
đề tài khoa học, thường quên hết chuyện xung quanh. Ðây
là nguyên nhân của sự đãng trí, tạo ra nhiều giai thoại.
Chính nhờ sự tập trung nên trí óc sáng ra, con người có
thể tự mình giải quyết vấn đề, như ánh sáng mặt trời
đi qua thấu kính hội tụ có thể đốt cháy mảnh giấy để
dưới thấu kính. Có điều, vì do tập khí và vì không có
công phu tập luyện, nên con người chỉ chuyên chú trong một
thời gian nào đó, rồi vọng niệm cũng trở lại lẫy lừng.
Nhà
Phật có nhiều phương pháp giúp tâm hành giả từ đa niệm
trở về nhất niệm. Người tu Tịnh Ðộ niệm Lục tự Di-Ðà,
Mật tông dạy trì chú, Thiền Nguyên thuỷ có Tứ Niệm Xứ,
Thiền Phát triển có Lục diệu pháp môn... Những phương tiện
ấy đều nhằm đưa hành giả đạt định. Pháp tham công án
của Thiền tông cũng vậy. Có thể vị thầy cho ta một công
án, hoặc ta tự chọn một vấn đề khó hiểu trong kinh sách,
thường là những nghi vấn trọng đại, như công án “Vô”
của Ngài Triệu Châu hay “Tiếng vỗ một bàn tay” của Ngài
Bạch Ẩn, hoặc các câu hỏi “Thế nào là ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang ?”, “Ðại ý Phật pháp là gì ?”...Khi đến
tham vấn, thường vị thầy không giải thích mà còn dùng nhiều
thủ thuật vun bồi mối nghi thêm lớn mạnh, khiến ý thức
không còn chỗ bám víu, bặt đường lý luận suy tư. Một
Thiền sư dạy: “Vọng tưởng khởi lên, làm nó lặng đi;
vọmg tưởng lặng, làm nó không khởi lên nữa. Ðược vậy
thì chẳng nhọc công mười năm hành khước”. Ở đây, hành
giả không loại trừ vọng tưởng bằng cách đè nén, vì muốn
trừ dẹp vọng, sẽ có niệm hướng đến chỗ không vọng
tức sa vào sở đắc, lại là một loại vọng tưởng vi tế.
Hơn nữa, nếu sợ động và ưa thích trạng thái bất động,
hành giả vẫn còn ý niệm phân biệt hai bên. Hành giả phải
ôm mối nghi trong thao thức triền miên, một bề chuyên tâm
vào mối nghi thì vọng tưởng tự nhiên lặng. Nhờ kề cận
bên thầy, vị thầy có cách giúp môn đệ công phu một cách
dũng mãnh và vững chãi. Mối nghi dần dần ung đúc thành khối,
nghi niệm trở thành nghi tình, nghi đoàn, tức từ đa niệm
trở về nhất niệm.
Một
điều quan trọng khi tham công án, hành giả không phải để
tâm suy luận lý giải, tìm hiểu ý nghĩa của công án, vì
đó là hành vi của ý thức. Ví như đối với công án Vô,
hành giả không suy nghĩ “Vô là không, không là Tánh Không
chứ chẳng phải không ngơ”..., vì như thế một lúc sau sẽ
sa vào mớ bòng bong của ý niệm. Hành giả phải đề khởi
“Vô” như thế nào để nó gắn chặt, đóng chặt vào tâm,
không một phút giây ngừng nghỉ, không một kẻ hở cho niệm
khác len vào. Một Thiền sư đã ví người tham công án giống
như rơi xuống giếng sâu, chỉ nghĩ một việc duy nhất là
làm cách nào ra khỏi giếng. Thiền sư Viên Ngộ trước tác
Bích Nham Lục với văn chương siêu xuất, biện biệt tuyệt
luân; nhưng người sau chỉ đọc tụng ngôn cú, bàn huyền
nói diệu, nên Ngài Ðại Huệ mang những bản khắc gỗ đốt
hết, chấm dứt lưu truyền tác phẩm nầy đến 200 năm. Cả
hai vị Thiền sư đều có tâm lão bà, vì người mà giảng
giải, cũng vì người mà đốt bỏ.
Thiền
sư Bạch Ẩn Huệ Hạc bắt đầu tham công án Vô năm 22 tuổi.
Suốt ba năm trường, Ngài vật lộn với chữ Vô, quên hết
mọi chuyện xung quanh. Ngài đã diễn tả quá trình công phu
của mình, từ lúc bắt đầu được trao công án đến khi
thành khối nghi : “Tôi tham chữ Vô cả ngày lẫn đêm, không
giây phút nào xao lãng, chỉ chăm lo sao cho được thanh tịnh
và kết mối nghi thành khối. Năm được 24 tuổi, một mình
tôi vật lộn trong đau đớn, quên cả ăn ngủ. Bỗng nhiên,
tôi nhận thấy một cảm giác trong suốt cực độ như đang
bị đóng băng, chết cứng trong một cánh đồng giá rét trải
rộng cả ngàn cây số. Tôi không thể tiến, cũng không thể
lùi. Tôi như người mất hết trí khôn, không còn gì hiện
hữu trong tôi ngoài Vô. Tôi biết trong tôi đã kết thành khối
nghi”.
Những
trạng huống thay đổi của tâm thức như trên có thể chứng
minh bằng quan điểm triết học. Bình thường, con người không
tự chủ được đối với ý niệm vì chịu sự chi phối của
hai yếu tố: Một là kích thích của cảm quan đối với trần
cảnh bên ngoài, nhà Phật gọi là năm căn tiếp xúc với năm
trần phát sinh năm thức; hai là hoạt động của tiềm thức,
pháp trần khởi dậy tạo nên dòng chảy liên tục của vọng
niệm. Khi tâm chuyên chú vào một đề mục, hai yếu tố kích
thích trên không thể chi phối được. Trước tiên, hành giả
không bị dính mắc theo sắc thinh hương vị xúc; sau đó, hạt
giống có sẵn trong tiềm thức không có điều kiện khởi
hiện hành. Khi công phu thuần thục, hành giả thoát khỏi sự
chi phối của tiềm thức. Ðây là lúc mà Ngài Bạch Ẩn bảo
rằng cảm thấy mình “trong suốt như bị đóng băng”.
2-
Bùng vỡ khối nghi :
Một
hình ảnh linh động diễn tả người ôm khối nghi, như cảnh
một con chó thấy chảo mỡ sôi thật hấp dẫn; chó muốn
liếm nhưng sợ phỏng, mà bỏ đi thì tiếc, nên cứ quanh quẩn
bên chảo mỡ mà không biết làm cách nào. Tình trạng bế
tắc nầy là triền miên; khối nghi cứ đeo đẳng không rời
khiến hành giả quên ăn bỏ ngủ. Vị thầy biết rõ tình
trạng ấy của môn đệ, nhưng không can thiệp vào khi chưa
đến thời kỳ. Lúc đủ nhân duyên, vị thầy dùng một thủ
thuật đặc biệt, hoặc nhờ một ngoại duyên nào đó, tự
nhiên khối nghi bùng vỡ, hành giả đại ngộ.
Sự
bùng vỡ khối nghi là thời điểm cuối cùng của quá trình
tìm lại con người thật của chính mình. Thời điểm này
xảy ra thật đột ngột, không có dấu hiệu gì báo trước,
biểu hiện mỗi người mỗi vẻ, cơ hội không ai giống ai,
thời gian cũng khác nhau tùy trường hợp. Thiền sư Linh Vân
và Quốc sư Huệ Trung mất 30 năm. Thiền sư Bạch Ẩn mất
3 năm .... Cũng có những người ôm khối nghi suốt đời, đến
lúc chết cũng chưa tìm ra lời giải đáp. Ðó là những trường
hợp rất đáng tiếc mà vị thầy cũng không thể làm gì để
giúp môn đệ. Vì sao có sự khác nhau đó? – Theo Philip Kapleau,
một môn sinh của Thiền sư Suzuki và được lão sư Yasutani
ấn chứng, sự giác ngộ nhanh hay chậm là do chính tự thân
của hành giả. So với các pháp tu khác, tham công án đưa đến
giác ngộ nhanh hơn, nhưng còn tùy nghiệp lực, tùy sự khát
ngưỡng được giải thoát cấp bách hay không, và tùy công
phu tham cứu miên mật nhiều hay ít. Cho nên, tự lực là chủ
yếu, tha lực là trợ duyên. Tha lực đóng vai trò một tia
lửa điện khởi phát phản ứng hoá học, một cái ấn trên
nút khởi động máy. Không có tia lửa, phản ứng không xảy
ra; không có cái ấn nút, máy không vận hành. Nhưng những
sự chuyển động ấy không phải chỉ nhờ tia lửa hay cái
ấn nút, mà chủ yếu do đủ yêu cầu về lượng và chất
của những thành phần trong phản ứng, do máy móc đã hoàn
bị và sẵn sàng hoạt động. Cũng vậy, sự thao thức trăn
trở, sự dấn thân đến tột độ, sự toàn tâm toàn ý sống
chết với khối nghi làm vắng bặt mọi vọng niệm, là công
việc của bản thân hành giả. Sự giúp đỡ của Tôn sư,
như cố ý kích thích khối nghi ngày càng mãnh liệt để kết
thành khối nghi (nếu môn đệ không tự mình làm được),
hoặc tạo cơ hội thúc đẩy quá trình công phu sớm đến
đỉnh cuối, hay đập một phát dứt điểm khi thời cơ chín
muồi... là tha lực cần thiết đối với hành giả. Do đó,
trong Thiền công án, cả tự lực và tha lực đều quan trọng
không thể thiếu, song hành giả phải nhận định yếu tố
chính và phụ để khỏi lầm lẫn khi dụng công.
Ðịnh
Thượng tọa hỏi Tổ Lâm Tế: “Thế nào là đại ý Phật
pháp?”. Câu hỏi nầy là một vấn đề trọng đại của
người tu. Thượng tọa cũng đã ôm ấp nghi vấn từ lâu,
có thể cũng tham vấn nhiều nơi nhưng chưa tìm ra giải đáp.
Tổ Lâm Tế nghe hỏi, lặng thinh bước xuống toà, nắm cổ
áo Thượng tọa, tát một cái thật mạnh. Thượng tọa Ðịnh
kinh ngạc đứng sững. Một vị tăng đứng kế bên vụt bảo
: “Ðịnh Thượng tọa sao không lễ Hòa thượng đi !”. Thượng
tọa sắp cúi xuống lạy, tức khắc bừng ngộ.
Ðây
là một câu chuyện có tác động rất mạnh đến những hành
giả tu Thiền. Tổ Lâm Tế là một vị Thiền sư rất kỳ
đặc, cơ phong cao vút, người thường không thể lường nổi.
Ngày trước, Tổ cũng ba lần ăn gậy của sư phụ Hoàng Bá
chính vì câu hỏi nầy, đã từng đau khổ tột cùng vì ôm
khối nghi : “ Hỏi như vậy có lỗi hay không lỗi ?”. Nay
nghe Thượng tọa Ðịnh hỏi lại câu ấy, Tổ bằng tâm lão
bà như Tôn sư khi xưa, tát Thượng tọa một cái nẩy đom
đóm mắt. Uy lực của các Thiền sư rất lớn, nên dù làm
gì, học nhơn cũng không dám phản ứng. Thượng tọa Ðịnh
bị bất ngờ, mọi vọng niệm đều dứt bặt. Cơ duyên đã
chín muồi, nên khi cúi xuống lạy liền hoát nhiên đại ngộ.
Tổ
Qui Sơn một hôm gởi cho Ngài Ngưỡng Sơn tấm gương. Ngài
Ngưỡng Sơn thượng đường bảo đại chúng: “Các vị hãy
nói, đây là gương của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn? Nếu
của Qui Sơn, sao ở trong tay ta? Nếu của ta, sao nhờ Qui Sơn
gởi đến mới có? Ai nói được thì không đập nát”. Toàn
chúng đều không đáp được. Ngài liền đập nát tấm gương.
Tấm
gương ở đây trở thành một bài pháp siêu tuyệt. Trả lời
gương của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn đều bị lỗi. Môn
đệ lúng túng vì không thể đáp, như thế là đã khởi mối
nghi. Ngài đập nát tấm gương làm khối nghi càng lớn. Tấm
gương là thực tại hiện tiền, nhận ra thì vượt thoát rào
cản nhị biên, vượt thoát cái bẫy của Thiền sư. Thủ thuật
khai tâm của các Ngài nhằm chấm dứt mọi lý giải biện
luận, nhằm đập chết con khỉ ý thức, dồn môn sinh vào
chỗ bế tắc và tự mình tìm chỗ thoát thân, trực nhận
tánh giác sẵn đủ. Công án Chích thủ diệu thanh ( tiếng
vỗ một bàn tay) của Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc nhằm giúp
học nhơn phản tỉnh trở về con người biết nghe luôn luôn
hiện diện. Có tiếng hay không tiếng là duyên bên ngoài, còn
cái thường biết mới là chân thật.
Thượng
tọa Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ muốn giành lại y bát. Ngài
đã có công phu trước đó, đã từng trăn trở làm sao tìm
được bộ mặt thật xưa nay, nên khi thấy y bát để trên
tảng đá mà không ôm lên được, Ngài đổi lòng cầu y bát
thành tâm cầu đạo. Lục Tổ bảo Ngài đứng im giây lát,
sau đó hạ một câu: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái
gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?” Ngài liền
đại ngộ. Thời gian tu trước, Ngài đem tâm bỏ ác cầu thiện,
bỏ vọng cầu chơn theo tinh thần phất bụi trừ dơ của Ngài
Thần Tú. Thật ra, chơn và vọng cũng chỉ là sự phân biệt
tương đối của ý thức, cũng đều cùng một tâm; vọng sanh
từ tâm và diệt cũng không ra khỏi tâm. Lục Tổ dạy Ngài
siêu vượt thiêïn ác tức vượt khỏi ý niệm phân biệt
hai bên; làm sao nhận ra bản tâm bất diệt nơi vọng tâm sanh
diệt, ấy là tu có chánh kiến. Các vị Thiền sư sử dụng
các thủ thuật khác nhau tùy đương cơ, như thầy thuốc giỏi
tùy bệnh cho thuốc, và khác với lối dạy của Pháp sư. Pháp
sư thường giản trạch Phật pháp một cách biện chứng, rõ
ràng khúc chiết; còn Thiền sư thường dùng lối dạy nửa
vời khó hiểu, nhưng giúp môn đệ mau khai ngộ, và khi ngộ
rồi thì không thể nào quên. Tuy vậy, trong thời đại khoa
học hiện nay, mỗi vấn đề đều phải được trình bày
minh bạch và hợp lý, nếu dạy đồ chúng theo cách xưa e khó
thuyết phục người nghe. Ngài Trường Sa Cảnh Sầm ngày xưa
còn bảo: “Nếu lúc nào ta cũng nói tột lý Thiền, thì sân
chùa nầy mọc đầy cỏ dại”, vì chẳng còn môn đệ nào
quét đất Già-lam. Vì thế, các ngài phải kết hợp Thiền
và Giáo, trừ một số người có căn cơ đặc biệt hoặc
thích hợp với Thiền công án thì các Ngài có cách dạy riêng,
nhằm khơi dậy tiềm năng vô tận vượt khỏi tri kiến lập
tri, là trực giác Bát-Nhã sẵn đủ nơi mỗi người.
Sau
đây là tự thuật của Ngài Bạch-Ẩn lúc vượt thoát nhị
biên đối đãi giữa ta-người, sanh-tử, tất cả đều được
bao trùm trong ánh giác: “Một buổi chiều nọ, tôi bỗng nghe
từ xa vọng đến tiếng chuông chùa, giống tiếng ầm của
một tảng băng hay một ngọn tháp ngọc rơi xuống. Tôi chợt
nhận ra, mình là vị tiền bối Nham Ðầu. Dù đã xa xưa rồi,
Ngài vẫn chẳng có gì thay đổi. Khối nghi vỡ tan tành. Tôi
la lớn: Thật là vi diệu! Không còn sanh tử để thoát ra,
không còn giác ngộ để tìm kiếm. Tất cả 1700 công án từ
trước đến nay, không cần tham nữa!”. Khi trực giác phóng
xuất, hành giả thâm nhập vào cảnh giới tuyệt đối, nhận
ra con người thật, là giải quyết xong vấn nạn của đời
mình. Ðến đây rồi, mới thấy con người thật ấy luôn
luôn hiện hữu, có lúc nào vắng thiếu; chỉ vì quên mất
gia tài đồ sộ nên chúng ta mới làm kẻ bần cùng. Tâm trạng
của một người nghèo khổ mạt hạng bỗng dưng lạc vào
cung điện nguy nga tráng lệ, hay vào một kho tàng đồ sộ
đầy ngọc ngà châu báu; lại biết tất cả những thứ quý
giá đẹp đẽ ấy đều là của mình, mặc tình cho mình sử
dụng, tâm trạng ấy liệu có thể diễn tả được bằng
lời?
III-
MỘT SỐ ÐIỀU KIỆN HỖ TRỢ :
Ðể
công phu có kết quả và không bị sai lạc, hành giả tu Thiền
công án cần có những điều kiện hỗ trợ. Sau đây là một
số điều kiện trọng yếu:
1 -
Ba điều kiện quyết định :
Gọi
là “quyết định”, vì nếu thiếu một trong ba điều nầy,
hành giả không thể thành công khi tham công án.
a-
Ðại
tín:
Người
tu Phật phải có niềm tin, nhưng tùy theo trình đôï, pháp
môn mà mỗi người có niềm tin khác nhau. Lòng tin chân chánh
của người tu Phật khác xa với sự mê tín; đồng thời trái
ngược với nỗi nghi đối với Tam Bảo và về khả năng của
bản thân, là một trong năm triền cái làm chướng ngại công
phu tu hành.
Chánh
tín được chia làm ba mức độ: Tin vào nhân quả tội phước,
tu theo Nhân Thiên thừa là Tiểu tín, niềm tin nhỏ. Tin ở
khả năng mình, khi diệt sạch kiết sử phiền não sẽ được
giải thoát, nhưng bỏ ngã phàm mà vẫn còn ngã Thánh nên mới
là Trung tín, niềm tin trung bình. Người tin chắc mình có bản
tánh bất sanh bình đẳng cùng muôn loài muôn vật, và tất
cả đều có thể tu thành Phật nếu biết đi đúng đường
đúng hướng, ấy là niềm tin lớn -Ðại tín.
Hành
giả tham công án, trước tiên phải có Ðại tín, người ấy
còn phải có lòng tin tuyệt đối vào Ðức Phật và vào giáo
lý Ngài đã dạy, đồng thời tin vào vị Thầy hướng dẫn.
Sự tin tưởng vào vị Thầy ở đây hết sức đặc biệt,
dường như phó thác cả sinh mạng vào tay Thầy, nhất nhất
tuân theo lời dạy của Thầy vì biết rằng nếu nghiêm ngặt
thực hành theo chỉ dẫn, có ngày mình sẽ đạt kết quả
mong muốn. Vai trò của vị Thầy hướng dẫn rất quan trọng,
và vì thế, sự kết duyên thầy trò với một bậc Minh sư
là một đại hạnh ngộ đối với hành giả. Nhà Thiền có
câu “Hãy nghe đạo lý, phát tín tâm và hành trì”. Nghe đạo
lý tức trực tiếp được nghe lời dạy của Thầy, không
phải thông qua sách vở. Kề cận một vị Thầy giác ngộ,
chúng ta được cảm nhận một từ trường rất lớn, và những
câu nói của Thầy có sức chấn động mãnh liệt đến tâm
thức chúng ta. Ðiều nầy giải thích tại sao nhiều người
chỉ nghe Ðức Phật thuyết pháp một lần, đã đắc Thánh
quả.
b-
Ðại
ý chí :
Hành
giả phải có ý chí vững chắc như núi, bền cứng như kim
cương, dù hy sinh thân mạng cũng dốc lòng đi tới. Không những
cương quyết phá tan khối nghi cho xong việc đại sự của
mình, hành giả còn phát đại nguyện phổ độ chúng sanh trong
tam giới. Ý nghĩa hiến dâng theo Bồ-tát đạo rất vĩ đại,
vì một mặt tiêu trừ bản ngã đẩy lui tập khí, mặt khác
tự do tự tại cứu độ muôn loài. Sự vong ngã là vì đại
cuộc, là quên mình vì người khác, có tánh cao thượng hơn
nhiều so với tinh thần tiêu cực yếm thế. Vì phát đại
nguyện tu Bồ-tát đạo hành Bồ-tát hạnh, nên Thiền giả
phải có Ðại ý chí. Ðại ý chí và Ðại tín có sự liên
hệ hỗ tương với nhau. Nhờ có lòng tin kiên cố không lui
sụt, hành giả mới có ý chí vượt qua mọi thử thách gian
nan trên đường đạo. Ôâm ấp khối nghi trong tâm thức là
một trận chiến khốc liệt và liên tục, nếu không có ý
chí kim cương thì hành giả khó lòng tiến bước.
c -
Ðại
nghi:
Mối
nghi ở đây không tương đồng với sự nghi ngờ trong năm
triền cái, cũng không mâu thuẫn với Ðại tín nói trên.
Chúng
ta tu, thường có những thắc mắc nhỏ: “Tu Thiền có cần
ăn chay trường không? Tọa thiền là phương tiện hay cứu
cánh? Tại sao một số Thiền sư không chủ trương tọa thiền?”.
Ðó là những tiểu nghi và khi có đáp án, hiểu ra vấn đề,
được gọi là tiểu ngộ. Một số hành giả đặt vấn đề
trọng đại hơn, như “Bản lai diện mục là gì? Làm thế
nào thành Phật? Tại sao mình có Phật tánh mà không nhận
ra ?”. Giải quyết được những vấn đề trọng đại nầy
là đại ngộ, và những đại nghi ấy là điều kiện tối
cần của hành giả. Bởi vì khởi đại nghi là làm trổi dậy
khát vọng tìm ra chân lý, khát vọng trực nhận tánh giác
đang bị che lấp bởi trùng điệp những lớp bụi phiền não
vô minh. Khát vọng ấy lấn át tất cả các vọng niệm, ví
như mèo rình chuột, như người đi trên dây. Mèo biết chuột
là một món ăn ngon nên để hết tâm lực vào việc rình từng
cử động của chuột, mọi giác quan đều tập trung vào khát
vọng bắt chuột. Người đang đi trên dây bắt ngang hai bờ
vực, biết nếu mình sơ sẩy là tan thân mất mạng, nên chăm
chú vào từng bước chân, bao nhiêu tâm trí sức lực đều
dồn vào mục đích duy nhất là đến bờ bên kia an ổn.
Tổ
Lâm Tế dạy : “Tình sanh trí cách, tưởng dấy thể sai”.
Tình là ý thức phân biệt khi tiếp xúc với trần cảnh, trái
ngược với trí là cái biết không phân biệt, nên khi xúc
cảnh sinh tình thì ngay lúc ấy trí đã cách xa ngàn trùng.
Tưởng là sự hiểu biết không đúng sự thật do ý thức
vẽ vời, như bóng cây mà tưởng ma quỷ, mèo kêu trong đêm
mà tưởng người gào... Khi tưởng dấy lên là đã sai với
bản thể chân thật. Tình và tưởng làm che lấp thực tại,
khiến con người không có cái thấy đơn thuần vô phân biệt
mà Ðức Phật gọi là Như thị tri, như thị kiến. Một bề
chuyên tâm với nỗi nghi trọng đại, hành giả không dính
mắc với trần cảnh bên ngoài, không khởi vọng tưởng điên
đảo bên trong, ấy là đang công phu thiền định một cách
đắc lực. Ở đây, chúng ta lại bắt gặp tư tưởng của
Lục Tổ đã đề cập trong Pháp Bảo đàn: “Ngoại ly tướng
tức thiền, nội bất loạn tức định”.
Một
điều tế nhị chúng ta cần nhận định rõ: Hành giả khởi
đại nghi là có khát vọng tìm ra chân lý, nhưng không phải
có tâm chờ ngộ. Bởi vì, ngộ là thầm nhận tánh giác sẵn
có, là nhận ra con người thật chính mình chứ không phải
từ bên ngoài mà được. Nếu đem tâm chờ ngộ tức tìm cầu
bên ngoài, ở một thời điểm xa xôi nào đó. Rồi khi công
phu có một chút tỏ sáng, lại sanh tâm thủ đắc, sự chấp
ngã càng nặng và vì thế giác ngộ càng xa thăm thẳm. Chúng
ta sẽ có dịp khảo sát kỹ vấn đề nầy trong chương cuối.
2-
Không
cố công giải thích công án :
Một
vị tăng hỏi Ngài Triệu Châu: “Vạn pháp về một, một
về chỗ nào?”. Câu hỏi nầy là một công án nổi tiếng
trong nhà Thiền. Ngài Triệu Châu đáp : “Khi ở Thanh Châu,
ta có may một chiếc áo nặng bảy cân”. Lời đáp chẳng
dính dáng gì với câu hỏi, mới nghe qua tưởng Thiền sư muốn
đùa cợt, thật ra đó là lòng từ bi của Ngài nhằm cắt
đứt dòng tư tưởng biện biệt. Bởi vì, khi ta suy luận lý
giải về vấn đề cốt tuỷ của Ðạo, thì dù vận dụng
tư duy đến độ nào, ta cũng không nắm bắt được chân nghĩa
của nó. Những câu hoạt ngữ của Thiền sư như vách sắt
tường đồng khiến học nhơn không có chỗ bám vào; và nhờ
không chỗ bám nên không sa vào mê trận của chữ nghĩa. Nhận
ngay được thì tốt, không nhận thì cứ ôm mối nghi; và tuy
khát khao giải tỏa mối nghi nhưng không khởi ý thức tư lường
để tìm lời giải đáp. Ðộng não suy tư là hành vi của
chất xám, là món ngon của thức tâm phân biệt; nghi tình là
bặt lối suy tư, là chặn đường ý thức. Lý luận làm tâm
tán loạn nên càng lý luận càng xa lẽ thật; nghi tình làm
dứt sạch vọng niệm, mới có cơ hội giải quyết vấn đề.
Tổ Lâm Tế dạy: “Càng tìm thì càng xa, cầu thì trái, gọi
đó là bí mật”. Lời dạy ngắn gọn nhưng ý nghĩa thâm
trầm. Chúng ta lâu nay sống theo giả ngã và khoác lên nó bao
lớp hoá trang, bao nhiêu tâm lực phí hoài để phục vụ cho
nó, cuối cùng nó cũng tan hoại. Người tu là trở về nguồn
cội, tìm chơn ngã nơi cái ngã giả dối kia. Nhưng khó khăn
ở chỗ, nếu càng khởi niệm tìm thì Ðạo càng xa, mà không
tìm lại là phàm phu tục tử; cầu Ðạo thì trái, mà không
cầu lại sống theo bản năng. Vì khó khăn như thế nên Tổ
bảo là “bí mật”. Bí mật nầy, mỗi người phải tự
mình khám phá.
Bài
“Trữ từ tự răn” của Tuệ Trung Thượng sĩ có đoạn:
Cầu
chơn như đoạn vọng niệm
Dường
la to át tiếng vang.
Bỏ
phiền não giữ Niết-bàn
Như
sợ bóng ra ngoài nắng.
Trong
lớp, khi học sinh làm ồn, thầy giáo la to để học sinh chú
ý im lặng; khi lớp đã yên, nếu thầy cứ la to mãi, hoá ra
chính thầy làm ồn náo. Cũng vậy, hành giả dùng khối nghi
như phương tiện đánh bạt mọi vọng niệm, không phải xem
khối nghi là cứu cánh, càng không có tâm đoạn vọng cầu
chơn. Bởi vì, cầu chơn như đoạn vọng niệm, giữ Niết-bàn
bỏ phiền não là còn ý thức phân biệt hai bên, còn sở thủ
sở đắc, tức còn xa lý Ðạo; như người muốn át tiếng
mà cứ la to, muốn hết bóng lại mãi đứng ngoài nắng, bao
giờ mới tròn ý nguyện ?
Thật
ra, trong đời sống văn minh hiện đại, tri thức rất cần
cho sự phát triển tinh thần và tiện ích của nhân loại,
cũng cần cho bước đầu tu tập để tìm hiểu đường hướng,
phương pháp công phu. Tuy nhiên, tri thức không giúp hành giả
giác ngộ, đôi khi còn làm trở ngại nếu chấp vào vốn hiểu
biết của mình. Ðộng não tư duy là dùng nhơn động, nhơn
sanh diệt mà tu, nên kết quả nếu có cũng còn trong sanh diệt.
Hành giả tham công án, bặt hết lý giải biện luận tức
tu nhơn thanh tịnh, thì lúc có kết quả sẽ là thanh tịnh
không nghi. Ðạo không phải là cái gì bên ngoài để ta mong
mỏi suy tính. Ðạo chính là con người thật của chính mình,
nên muốn được thì lại mất; khi buông sạch sẽ, Ðạo mới
lồ lộ rỡ ràng. “Ði tay không về tay không”. Tinh thần
nầy, Ngài Nam Nhạc mất tám năm mới quán triệt, mới có
thể đối trước Lục Tổ trả lời câu hỏi: “Ðem vật
gì đến?” bằng lời đáp :
- Nói
một vật tức chẳng trúng.
Người
bình thường khi nghe hỏi, có thể trả lời nhiều câu khác
nhau tuỳ trường hợp mình mang theo vật dụng gì đến. Chúng
ta tu Thiền, được nghe giảng quá nhiều và hiểu cũng không
ít, nên cũng không phải mất thời gian lâu như thế để có
câu trả lời. Nhưng thật ra, người xưa ôm mối nghi, thao
thức với mối nghi ấy, và lúc trả lời được tức là đã
nhận ra bằng trực giác Bát-nhã. Còn chúng ta ngày nay, hiểu
biết trên kinh sách bằng ý thức suy luận tư biện, thật
không dính dáng. Ðức Phật dạy: “Pháp lìa văn tự, chẳng
thuộc nhân chẳng thuộc duyên”. “Pháp” tức chân lý tuyệt
đối, là những gì Ðức Phật muốn truyền đạt nhưng không
thể diễn tả bằng lời. Những điều Ngài chỉ dạy cho môn
đệ suốt 49 năm hoằng hoá, chỉ là nắm lá trong tay; những
điều Ngài thấy được biết được như lá trong rừng. Kinh
điển văn tự là chân lý chết, không phải mục đích tối
hậu của đời tu; nhưng chúng ta phải nương vào kinh điển
mà nhận ra thực tại phi ngôn ngữ. Nhờ kinh điển chỉ dạy
đường lối công phu, nhờ công phu mà tâm sáng tỏ, khi sáng
tâm liền rõ biết pháp lìa văn tự. Thuật khai tâm của các
Thiền sư, theo đúng đường lối “Bất lập văn tự, giáo
ngoại biệt truyền” giúp môn đệ không sa vào hai cực đoan:
hoặc chấp vào kinh điển làm cứu cánh mà không nỗ lực
công phu; hoặc bài bác kinh điển, không biết khiêm cung học
thầy học bạn. Người ôm mãi chiếc bè không chịu lên bờ,
cũng như người đang ở giữa dòng mà vội phá bỏ chiếc
bè, cả hai đều lầm lẫn, không thể qua bờ bên kia được
.
IV-
NHỮNG CÂU CHUYỆN THIỀN MINH HOẠ :
Khi
có vấn đề trọng đại chưa được giải quyết, hành giả
mang tâm trạng khắc khoải, bồn chồn. Ðến nhờ thầy giải
đáp, thầy không những không chỉ dạy mà còn có lời nói
hành động kỳ quặc, làm mối nghi càng lớn mạnh thêm. Ðến
khi mối nghi thành khối, hành giả lâm vào tình trạng tiến
thoái lưỡng nan. Ngài Tiệm Nguyên lúc còn là thị giả của
Thiền sư Ðạo Ngộ, nhiều phen thưa thỉnh thầy dạy cho:
“Vì sao sanh không nói, tử cũng chẳng nói”. Thiền sư vẫn
một mực “Chẳng nói, chẳng nói!”. Thầy quá từ bi muốn
trò nhận ra lý vô sanh ngay trong sanh tử, nhưng trò cứ một
mực bám chặt vào câu nói, đau đớn cùng câu nói đến nỗi
quên cả lễ nghi, đánh luôn thầy mình. Ôâm khối nghi đằng
đẴng ba năm, một hôm chợt nghe tụng kinh Phổ Môn đến câu:
“Cần hiện thân tỳø-kheo được độ, liền hiện thân tỳ-kheo
vì người đó thuyết pháp”, Ngài hoát nhiên đại ngộ, thấy
con người thật có ngại gì sanh với tử. Nhưng khi cảm thông
được với thầy, thì thầy đã không còn nữa !
Các
vị Thiền sư, bằng tâm lão bà tha thiết, luôn muốn môn đệ
mình nhận ra lẽ thật. Nhưng các Ngài cũng rõ căn cơ trình
độ của mỗi người, nên sử dụng rất nhiều thủ thuật
khác nhau, thật đa dạng mà cũng thật thích ứng. Có khi, các
Ngài phải dùng những biện pháp thật mạnh, dồn môn đệ
đến điểm tận cùng, cận kề cái chết. Trường hợp một
đệ tử của Thiền sư Suiwo Nhật Bản là một ví dụ : Người
đệ tử nầy tham công án “Tiếng vỗ một bàn tay” suốt
ba năm mà chưa thấy đáp án. Anh đến khóc với Thiền sư
và xin phép về nhà. Ngài khuyên: “Hãy ở lại một tuần
nữa”. Công phu miên mật, sau một tuần vẫn chưa có kết
quả, anh ta lại xin về và Thiền sư cũng bảo nán lại. Cứ
thế mấy lần, cuối cùng Ngài bảo :
- Anh
hãy ở lại ba ngày nữa và thiền định miên mật. Nếu không
thấy gì, tốt nhất hãy tự tử đi !
Người
đệ tử tuyệt đối tin tưởng nơi thầy, tuyệt đối nghe
lời thầy nên chỉ còn kỳ hạn ba ngày cuối cùng nữa, nếu
không loé sáng thì đành chấm dứt cuộc đời. Bằng sự chiến
đấu quyết liệt, vận dụng tất cả khí lực bình sinh trong
tâm trạng tuyệt vọng, người đệ tử giác ngộ vào ngày
thứ hai của kỳ hạn.
Những
câu trả lời hoặc cử chỉ của các Thiền sư đều là những
phương tiện chỉ thẳng, theo tinh thần Trực chỉ nhân tâm.
Môn đệ hầu cận bên các Ngài thường có cơ hội nhận lãnh
nếu công phu miên mật, còn không thì rất dễ bị đầu lưỡi
các Ngài dẫn đi xa tít. Những câu nói, hành động khó hiểu
ấy trở thành công án; hành giả tham công án ấy, khi vượt
qua được, nhận ra chân lý thì tất cả các công án khác
trở nên rõ ràng gần gũi biết chừng nào !
Một
vị tăng hỏi Quốc sư Ðức Thiều: “Sơn hà đại địa từ
đâu sinh ra?”.Ngài hỏi lại: “Câu hỏi nầy từ đâu đến?”.
Tăng lại hỏi:“Mắt của bậc kiến đạo thì thế nào?”.
Ngài đáp: “Ðen như thùng sơn”. Thể tánh vốn thanh tịnh,
do hốt niệm vô minh nên khởi sanh sơn hà đại địa. Vừa
khởi hỏi là đã khởi niệm, khởi niệm là đã xa rời nguồn
cội. Quốc sư bắt vị tăng nhìn trở lại, ai biết hỏi ở
đây? Nếu ngay đó nhớ lại người biết hỏi thì thầy trò
gặp nhau rồi,nhưng vị tăng bỏ mất cơ hội,lại hỏi tiếp
về mắt của bậc kiến đạo. Theo tinh thần của Lục Tổ
dùng đen đáp trắng,tối đáp sáng, Quốc sư trả lời: “Ðen
như thùng sơn” để làm bặt đường suy nghĩ. Câu nầy trở
thành mối nghi cho vị tăng. Cách giải đáp chận đứng ý
niệm nhị nguyên phân biệt rất thường được sử dụng
trong nhà Thiền, như Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, khi một thiền
khách hỏi “Thế nào là pháp thân thanh tịnh?”, Ngài đáp:
“Ra vào bãi nước trâu, chui rúc đống phân ngựa”. Câu
nầy có khác gì lời khai thị của Lục Tổ cho Thượng tọa
Minh “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác...”?
Vì
sao các Ngài chặn đứng ý niệm phân biệt hai bên?- Thể tánh
vốn thanh tịnh hằng biết, là chính mình; nếu ta muốn tìm
muốn hiểu thì năng tri đã biến thành sở tri, vừa khởi
niệm tìm thì đã xa diệu vợi. Thể tánh lại vốn không hình
tướng mà trùm khắp, làm sao có thể thấy hay đến được?
Hằng ngày hiển lộ ra sáu căn, người khéo hội hãy từ các
cửa ấy mà thầm nhận; các vị Thiền sư cũng chỉ cho học
nhơn đường vào thẳng tắt ấy, có điều không diễn tả
được bằng lời. Muôn ngàn lời nói cũng chỉ để tỏ bày
một thể. Ví như đối với câu hỏi: “Thế nào là đại
ý Phật pháp?”, Ngài Triệu Châu đáp “Cây bá trước sân”,
Ngài Ðông Sơn lại nói “Ba cân gai”, Ngài Lâm Tế hét một
tiếng điếc tai, Ngài Ðức Sơn đập cho một gậy thấu trời
xanh... Ai thấy, ai nghe, ai biết đau? Giật mình nhận ra con
người quen thuộc muôn đời. Còn nếu mịt mù, hãy cứ ôm
khối nghi làm món nợ truyền đời phải trả.
Ngài
Ðạo Quang, một Luận sư nổi tiếng của trường phái Duy
thức đến tham vấn Thiền sư Huệ Hải:
- Thiền
sư dùng tâm nào để tu đạo?
Thiền
sư đáp :
-
Lão tăng không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu.
Lời
phủ nhận nầy người nghe khó mà chịu nổi! Nếu chúng ta
được hỏi, chắc sẽ trả lời dùng tâm thanh tịnh không
sanh không diệt để tu, vì nhân vô sanh sẽ cho quả không sanh
diệt... Ấy là trả lời theo kiểu Pháp sư hay Luận sư, dùng
tử ngữ. Thiền sư sử dụng lối công phá của Bát-nhã, vì
nếu còn thấy có dụng công, có tâm tu là còn ngã tướng,
còn tác ý hữu vi. Ngài Ðạo Quang chưa hiểu ý nên lại hỏi
:
- Nếu
không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu, sao mỗi ngày
họp chúng khuyên học thiền tu đạo?
Thiền
sư phủ nhận lần thứ hai :
-
Lão tăng không có đất cắm dùi thì nhằm chỗ nào mà họp
chúng? Không có lưỡi, lấy đâu dạy bảo người ?
Luận
sư bất bình thốt lên :
-
Thiền sư giáp mặt nhau mà nói dối !
Thiền
sư vẫn bình thản, phủ nhận lần thứ ba :
-
Lão tăng không có lưỡi dạy bảo người thì nào biết nói
dối ?