Chương
3
CHỨNG NGHIỆM
THIỀN
Tất
cả thiền sinh, ai cũng phải ít nhiều bơi lội trong công phu.
Dù có lúc ta bị tán tâm, quay cuồng theo các cảnh, nhưng nhờ
kịp thời tỉnh thức nên lấy lại sự tự chủ tự do. Cũng
có những khi thân thể khoẻ mạnh, khí lực sung mãn, điều
kiện xung quanh thuận lợi, sự tọa thiền quyết liệt giúp
ta đi sâu vào công phu, ta cảm thấy tươi mát, bình an và tự
tin vô cùng. Như vậy, có thiền tập là có sự cảm nhận
trên chính bản thân mình một trạng thái vô nhiễm của tâm,
khi tâm ta an nhiên bất động trong phút giây hiện tại.
Có
thể nói, nếu xa rời Thiền, ta không thể hiểu bản chất
của đạo Phật, vì Thiền là tinh túy, là cốt tủy của đạo
Phật. Nhưng nếu không có chứng nghiệm thì cũng không có
Thiền. Chính nhờ chứng nghiệm khi hành thiền, ta mới có
sự bình an vững chãi trước mọi cảnh huống, mới có thể
vượt qua những chướng ngại đến từ bên ngoài và trong
thân tâm, mới có cơ hội phát minh việc lớn.
Trong
chương nầy, chúng ta sẽ triển khai những khía cạnh và mức
độ chứng nghiệm Thiền, để có cơ sở soi rọi lại bản
thân mình, từ đó có niềm tin vững chắc trên đường tu.
Dĩ nhiên, kết quả công phu và sự cảm nhận của mỗi người
là những kinh nghiệm tự nội, không ai giống ai; hơn nữa,
sự giác ngộ không phải đến một cách thứ lớp, tiệm tiến,
mà là một trạng thái đột biến, bất ngờ. Tuy vậy, trong
lộ trình công phu, bước sau phải khác bước trước. Và vì
tiến trình tu tập có rất nhiều gian lao thử thách, và cả
những hầm hố cạm bẫy, nếu không dựa vào kinh nghiệm của
nguời đi trước như những bảng chỉ dẫn bên đường, chúng
ta có thể phạm những lỗi lầm đáng tiếc.
I-
CHỨNG NGHIỆM THIỀN LÀ KẾT QUẢ CỦA TRỰC GIÁC:
Pascal,
một nhà triết học lừng lẫy người Pháp đã nói: “Con
người chỉ là một cây sậy, yếu ớt nhất trong thiên nhiên,
nhưng là cây sậy biết tư duy” (L’homme n’est qu’un roseau,
le plus faible de la nature, mais c’est un roseau pensant). Thật vậy,
khả năng của con người thích nghi với môi trường với hoàn
cảnh kém xa so với loài vật, nhưng lại đứng trên ngôi vị
chúa tể muôn loài là nhờ đâu? – Chỉ nhờ bộ óc biết
lý luận, phân tích, tư duy. Trí óc là phương tiện tối cần
trong thế giới hữu vi để tồn tại và phát triển, để
ổn định trật tự xã hội, để thăng hoa về đạo đức.
Ðối với người tu, bước đầu cũng phải vận dụng trí
óc để nghe và hiểu đúng chánh pháp. Trí hữu sư là trí
tuệ nhờ thầy dạy và trò vận dụng tư duy mà có, là bước
căn bản khi mới vào đạo để khỏi sa vào tà kiến, mê tín.
Mặt
khác, người tu Phật như người chèo thuyền ngược dòng.
Chỉ nói việc tọa thiền, những hành giả sơ cơ chưa quen
với tư thế tĩnh tọa, nếu không vận dụng ý chí để làm
chủ thân tâm, làm sao có thể vượt qua những cảm giác đau
tê của thân và những vọng niệm lẫy lừng của tâm trong
suốt 1-2 giờ bất động? Và những ma chướng cám dỗ của
ngũ dục, nếu không kiên định chiến đấu liên tục với
chúng, làm sao có thể chiến thắng?
Như
thế, ý thức và ý chí đều là những điều kiện quan yếu
của người tu lúc nhập môn. Nhưng đó có phải là điều
kiện duy nhất để được giác ngộ giải thoát không?
Ta
đã biết, Thiền không lệ thuộc vào một tư thế, một hình
thức lễ nghi nào. Thiền là trạng thái của tâm thanh tịnh
mà luôn tỉnh sáng, là sự thể nhập toàn triệt vào thực
tại sinh động. Ðối với người mới vào đạo, tọa thiền
là tư thế tối ưu giúp tâm dễ an định, nhờ ý chí hỗ
trợ để kéo dài thời gian tĩnh tọa. Nhưng khi nỗ lực bằng
sự tác ý, vô tình ta lại nuôi dưỡng ngã tướng vì thấy
có cái ta trong dụng công; cái ta ấy cũng trải dài, lớn dần
theo thời gian công phu. Ðây là điều rất tế nhị mà nếu
không khéo chú ý, ta khó thể nhận ra.
Ngài
Ðạo Nhất lúc còn là thiền sinh ở núi Hoành Nhạc, hằng
ngày tọa thiền rất tinh tấn. Thiền sư Nam Nhạc biết là
bậc pháp khí nên một hôm đến gần hỏi :
- Ðại
đức ngồi thiền để làm gì ?
Ngài
Ðạo Nhất thưa:
-
Ngồi thiền để làm Phật.
Câu
trả lời rất hay, biểu lộ ý chí xuất trần. Theo gương
Ðức Phật tọa thiền liên tục 49 ngày đêm dưới cội Tất-bát-la
và trở thành bậc giác ngộ, chúng ta đều mong có ngày, nhờ
nỗ lực tọa thiền, chúng ta cũng được thành tựu đạo
quả. Tuy nhiên, chúng ta chỉ biết thời điểm cuối cùng lúc
sao Mai vừa mọc, đánh dấu sự thành công của Ðức Bổn
sư ; còn quá trình tu tập trước đó, tâm thức ngài diễn
biến thế nào, thì ai hiểu thấu? Thiền sư Nam Nhạc muốn
cảnh tỉnh nên đem gạch đến mài trước cửa am Ngài Ðạo
Nhất. Và đây là đoạn đối đáp rất lý thú và nghĩa lý
rất sâu xa:
Ðạo
Nhất thấy lạ hỏi:
-Thầy
mài gạch để làm gì?
Sư
đáp:
-
Mài để làm gương.
-
Mài gạch đâu có thể thành gương được?
-
Ngồi thiền đâu có thể thành Phật được?
-
Vậy làm thế nào mới phải?
-
Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh
trâu là phải?
Chấp
vào việc tọa thiền cho là cứu cánh, cũng ví như người
muốn mài gạch thành gương hay nấu cát thành cơm. Trâu và
xe dụ cho tâm và thân, chúng ta tu là trị ngay con trâu tâm,
trị ở mọi nơi mọi lúc chứ không chỉ ở lúc tọa thiền.
Lời dạy sau đây của Thiền sư càng làm rõ hơn ý ấy.
- Người
học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền,
thiền không phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không
có tướng nhất định, đối pháp không trụ, chẳng nên thủ
xả. Ngươi nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp
tướng ngồi chẳng đạt ý kia.(7)
Nói
như thế, không phải chúng ta bài bác việc tọa thiền. Ðạo
Phật là Trung đạo, không chấp bên nầy cũng không thiên bên
kia. Chúng ta cần khéo hiểu lời dạy của các Ngài để có
cái nhìn toàn diện về mọi vấn đề, ngoài đời cũng như
trong đạo.
Ở
mức độ cao, Thiền là trí tuệ Bát–nhã, là hành vi của
trực giác. Trực giác Bát-Nhã phóng xuất khi vắng bặt những
suy luận tư duy. Trí hữu sư do vay mượn kiến thức bên ngoài
kết hợp với ý thức bên trong, trở nên chướng ngại nếu
hành giả chấp chặt vào đó. Ðức Phật gọi là Sở tri chướng.
Thiền không đồng hoá với mặc tọa, cũng không phụ thuộc
vào yếu tố tri thức là những kỷ niệm trải dài theo tiến
trình nhân quả. Ðưa tay vào lửa liền biết nóng, tự nhiên
rút tay lại; nghe gọi liền thưa, không cần suy nghĩ ... Hàng
ngày, có bao nhiêu điều ta không cần suy luận mà vẫn thấy
nghe hay biết. Khả năng ấy do đâu mà có? Mọi động dụng
thi vi đều không rời cái BIẾT. Biết là biết tức thì, suy
nghĩ liền trái. Cái biết hiện hữu ở mọi chúng sanh, không
phân biệt giống loài. Biết ấy chính là TÂM. Nhớ câu chuyện
gió và phướn trong Kinh Pháp Bảo Ðàn: Gió và phướn động
là việc của duyên, còn cái biết có sự lay động là Tâm.
Do tâm động nên tranh cãi, tâm không động thì có gì dính
dáng?
Các
pháp biểu hiện bằng muôn màu muôn vẻ, biến đổi không
dừng. Ðó là thực tại sống động. Thiền giả chứng nghiệm
vào thực tại sống động ấy, nhận ra sát-na bất động
vĩnh hằng. Sự minh triết nhờ công phu thiền tập là trí
tuệ phát sinh qua chứng nghiệm tự thân, là kết quả của
trực giác. Nhà Phật gọi là Trí vô sư, trí tuệ không nhờ
Thầy mà có, là trí tuệ chân chính, là cái Biết đích thực
đến tận cùng bản thể của muôn pháp.
II-
TRỰC TIẾP THỂ NHẬP VÀO THỰC TẠI SỐNG ÐỘNG:
Có
vị khách hỏi:
-
Thế nào là Niết-bàn thường trụ?
Sư
đáp:
-
Lá rụng theo dòng nước,trăng sáng trên đỉnh đồi.
Lời
đáp rất nên thơ và diễn tả cảnh tức thì, nhưng nếu người
nghe phóng tâm chạy theo cảnh thì đã lầm qua. Nếu Thiền
sư trả lời bằng cách mô tả một cảnh giới vi diệu của
Niết-bàn, thì cũng chẳng thấu đến bản chất thật sự
mà còn làm người nghe thêm kiến giải. Bởi vì Niết-bàn
thường trụ không phải một nơi chốn xa vời nào đó để
ta hướng đến, mà chính là thực tại hiện tiền sống động,
khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh hằng tri. Thiền không là mong
cầu tìm kiếm, vì thực tại nhiệm mầu ấy chỉ hiện hữu
khi ta bặt dứt mọi ý niệm phân biệt hai bên, như mặt hồ
lặng sóng thì bóng trăng hiện sáng ngời. Khi hành giả luôn
thắp sáng chánh niệm, tỉnh giác trong đương xứ, vị ấy
thấy mọi vật mọi cảnh đều là thực tại hiện tiền.
Shiki
có bài thơ ngắn:
Ta
nhìn sâu xa
Dưa
nằm trong cỏ
Hé
mấy nụ hoa.
(Nhật
Chiêu dịch)
Cái
“nhìn sâu xa” chính là cái nhìn thẩm thấu vào mọi sự
vật hiện tượng. Ðây là cái nhìn của Thiền, thấy biết
các pháp nhưng không khởi niệm. Lúc này, một trái dưa trong
đám cỏ, vài nụ hoa hé nở cũng đều là thực tại nhiệm
mầu. Bằng cái nhìn sâu xa ấy, Thiền giả nhận ra sự bất
động vĩnh hằng trong một hiện hữu sống động, sự tịch
tĩnh muôn đời trong cái linh hoạt muôn màu muôn vẻ của thế
giới.
Có
vị tăng hỏi:
-Thường
nghe nói chư Phật và giáo pháp vi diệu đều từ kinh nầy
lưu xuất. Vậy kinh nầy là kinh nào?
Sư
đáp:
-
Luôn ở bên ông, đừng tra hỏi, đừng lý luận, cũng đừng
nói năng, thì sẽ nắm bắt được.
-
Làm sao nhận ra và nắm bắt được?
-
Phải nghe bằng hai con mắt .
Thật
là ngôn phong của các Thiền sư! Lời đáp của các Ngài không
phải cho ta hiểu, mà để ta sống ngay vào giây phút hiện
tại. Những câu hoạt ngữ như thế là tuyệt đường lý luận,
tuyệt đường so sánh, là lìa tướng ngôn thuyết lìa tướng
tâm duyên. Hàng ngày, ta đi đứng nói năng hoạt động, đó
là ai? Chỉ nên thầm nhận biết, đừng tư duy lý luận, đừng
mong tìm kiếm, vì có niệm sở thủ sở đắc là đã xa rời
Ðạo. Người tu thường mong mau kiến tánh, vì nghe nói kiến
tánh là điều kiện vào cửa nhà Thiền. Ý thức muốn tìm
thấy tánh mà không hiểu tánh ấy chính là mình, chỉ có thể
tự tri tự nhận. Như khi ta nhìn rõ cảnh vật, ta tự biết
mình có mắt sáng, chứ không thể thấy lại cặp mắt của
mình. Cái Biết cũng vậy, nó tự thầm nhận đang thấy nghe
hay biết mà không có ý thức “ta đang biết”. Trạng thái
nầy không thể diễn tả bằng lời cho người khác hiểu,
mà chỉ trực tiếp kinh qua, trực tiếp chiêm nghiệm, hành
giả mới tự mình khám phá. Ðiều nầy nói lên sự khác biệt
rõ ràng giữa một bên là sự thể nhập trạng thái của tâm,
và bên kia là khái niệm về trạng thái đó. Ví như một cơn
đau, chỉ có người bệnh mới biết rõ cường độ, tính
chất, vị trí chính xác của nó; còn người ngoài cuộc chỉ
có những khái niệm về cơn đau ấy nhờ tưởng tượng, suy
luận mà thôi.
Một
số người nghĩ rằng, trạng thái chết lịm ý thức hay si
định là một bước tiến quan trọng trong công phu, nên hết
sức tránh duyên để mong sớm đạt được. Trạng thái nầy
thật ra không dễ dàng mà có, nhưng lại không phù hợp với
yếu lý nhà Thiền. Pháp giới luôn hiện hữu với muôn vàn
hình tướng, luôn sống động biến đổi không ngừng. Ðây
là sự hữu, sự tướng bên ngoài. Và nơi hiện hữu bề mặt
ấy, lại tiềm ẩn sự vô là cái bất động thường trụ,
là bản chất của pháp giới. Sự hữu là hiện tượng sanh
diệt, sự vô là bản chất bất sanh. Hiện tượng và bản
chất, cả hai không thể tách rời nhau, đứng ngoài nhau. Các
pháp hiện diện là biểu tướng sự hữu, nhưng nếu ta chạy
theo sự hữu, tức duyên theo trần cảnh, thì còn trôi lăn
trong luân hồi; còn chỉ chú tâm vào sự vô thì trở nên khô
cằn bất động, không giúp ích được gì cho ai.Thiền sư
kiến tánh không phải kiến chiếu vào sự vắng lặng khô
chết, mà nhận rõ cái hằng hữu của sự vô ngay từ cái
sinh động vô thường của sự hữu. Thiền là trạng thái
tịch tĩnh nơi sự hữu chứ không phải tịch lặng ở sự
vô. Hoa đào nở là sự hữu, Ngài Linh Vân ngộ đạo; Tôn
giả Ca-Diếp mỉm cười khi cành sen giơ lên, đây là cái sống
động nhiệm mầu nơi sự hữu. Thế giới nầy dù hoại diệt,
cái sống động nhiệm mầu ấy vẫn miên trường; con người
mất đi chỉ là kết thúc tạm thời một giai đoạn sống,
còn tánh Biết thường hằng thì không đến không đi, không
bao giờ biến đổi.
Tánh
Biết hay Phật tánh, Bản lai diện mục..., tất cả chúng sanh
đều sẵn đủ. Con người không biết mình có gia tài quý
báu ấy nên cứ mãi làm kẻ bần cùng, lang thang trong cuộc
tử sinh. Cũng có người chạy quanh bốn phía tìm cái bóng
hứa hẹn nào xa xôi; nhưng hễ còn niệm tìm kiếm, còn tâm
khao khát mong được hạnh phúc, ta còn xa rời thực tại, và
hạnh phúc đích thực vẫn ở ngoài tầm tay. Thiền tập là
dừng lại, sống trọn vẹn với phút giây hiện tại, không
theo đuổi truy cầu quá khứ tương lai.
Tuy
nhiên, sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại không phải
là duyên theo cảnh rồi sanh tâm phân biệt. Nhà Phật gọi
đó là phan duyên, tức đuổi theo các duyên, bệnh trầm kha
của chúng sanh, nguồn gốc của luân hồi. Hành giả tu Thiền
không trốn tránh các duyên, nhưng khi đối cảnh phải quét
sạch mọi tạo tác, mọi dính mắc trên cảnh. Ta có thể thấy
nghe hay biết tất cả mà không có ý niệm khen chê tốt xấu:
đó là sống với tâm bình thường.
III-
SỐNG HỒN NHIÊN VÀ TÙY DUYÊN HOÁ ÐỘ:
Ðời
sống thiền tập giúp hành giả thoát khỏi ý niệm phân biệt
hai bên. Giai đoạn đầu, tọa thiền theo dõi hơi thở hay tri
vọng, mọi việc xảy ra xung quanh ta vẫn biết nhưng không
vận dụng tư duy, dần dần ta có sự bình an khi tĩnh tọa.
Tiến thêm một bước, trong cuộc sống thường ngày, nhờ
chánh niệm tỉnh giác trước mọi biến chuyển của thân tâm
cảnh để nhận diện và chuyển hoá, ta có thể đối phó
với mọi tình huống mà không mất sự bình ổn tự chủ.
Nhà Thiền dùng bát phong làm thước đo định lực của người
tu, chứ không đánh giá kết quả hành trì dựa vào sự diễn
đạt khéo léo, lời thuyết giảng lưu loát hoặc những cảnh
giới thấy được lúc tọa thiền.
Khi
công phu đến chỗ thâm sâu, như cây có gốc rễ vững vàng
trước giông bão, người tu có một sức sống riêng, một
phong thái riêng, biểu hiện sự tự tại trước mọi hoàn
cảnh. Các Ngài không thấy đạo phải thủ đắc và đời
phải xa lìa, vì không có cái phi tục ở ngoài phàm tục, cái
xuất thế ở ngoài thế gian, cái thường hằng ở ngoài sinh
diệt. Cuộc sống là một dòng chảy bất tận, và Thiền không
phải xa rời cuộc sống hay chận đứng dòng sống sinh động
để tìm sự bất động vĩnh hằng. Thiền tập là bơi lội
vào dòng sống luân lưu không dừng nghỉ ấy, vào thế gian
pháp sinh diệt ấy mà nhận ra Phật pháp nhiệm mầu. Phiền
não tứcBồ- đề là như thế.
Nhà
Thiền có câu:
Tùy
duyên tiêu nghiệp cũ
Hồn
nhiên mặc áo xiêm.
Hay:
Ở
đời vui đạo khéo tùy duyên
Ðói
đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Những
bậc đạt đạo thường không theo một khuôn mẫu nhất định
nào trong phong cách sinh hoạt. Mỗi vị biểu hiện một vẻ
rất riêng, nhưng hồn nhiên đói ăn mệt ngủ. Người đời
thường lầm tưởng, phải ra vẻ nghiêm trang đạo mạo mới
đúng phong thái Thiền sư, lâu ngày sự miễn cưỡng cường
điệu ấy trở thành một loại kiết sử, trói buộc họ vào
khuôn khổ cứng nhắc. Ngược lại, có người chủ trương
phá chấp triệt để, trở thành buông lung phóng túng. Ðó
là hai cực đoan không hợp lẽ đạo.
Sự
hồn nhiên của những bậc đạt đạo, trước hết là vô
tâm khi tiếp duyên xúc cảnh. Vô tâm không phải là không biết,
mà là thấu hiểu tất cả mọi điều nhưng không khởi niệm
phân biệt hai bên. Do lìa nhị biên nên không vướng bận ngã
nhơn, các Ngài vẫn sinh hoạt giữa lòng cuộc đời, vẫn sống
bình thường như mọi người, nhưng trong cái bình thường
ấy lại hàm chứa sự phi thường, vì buông xả được tất
cả phiền não chấp trước. Hơn thế nữa, tính hồn nhiên
còn là tự chủ, kham nhẫn và lòng can đảm vô song- đó là
cái Dũng của Thánh nhân. Các Ngài đã chiến thắng chính mình,
nên trước những thử thách gian nan hay cám dỗ ngũ dục, trước
những chướng ngại bệnh tật của thân tâm, trước cả niềm
vui xuất thế do các tầng Thiền định đưa đến, các Ngài
vẫn an nhiên tự tại. Thiền sư Linh Hựu khi về núi Qui, chỉ
một thân một bóng, ăn trái rừng uống nước suối mỗi ngày.
Gặp thú dữ, Ngài chỉ bình thản nói một câu: “Nếu ta
có duyên với núi nầy, các ngươi nên tránh đi chỗ khác;
nếu ta không có duyên ở đây thì các ngươi cứ ăn thịt
ta đi!(8),thế là thú dữ bỏ đi. Tự chủ trước hiểm nguy,
kham nhẫn trước khó khổ, can đảm chiến đấu với hoàn
cảnh ngặt nghèo bên ngoài cùng nỗi cô liêu cay đắng bên
trong, để cuối cùng trở thành vị Ðại Thiện tri thức cho
1.500 đồ chúng, đó có phải là cái Dũng của Thánh nhân?
Không có cái Dũng phi phàm ấy, Thiền sư Linh Hựu khó thể
sống hồn nhiên suốt bảy năm trên ngọn núi không một bóng
người.
Vua
Kế Tân mang gươm đến trước Tổ Sư Tử, hỏi:
-
Thầy đã được không tướng chưa?
-
Ðã được.
-
Ðã được, thì còn sợ sống chết không ?
-
Ðã lìa sống chết thì đâu có sợ?
-
Chẳng sợ, có thể cho ta cái đầu chăng?
Ngài
đã trả lời rất hồn nhiên:
-
Thân chẳng phải cái của ta,huống nữa là đầu.(9)
-
Kinh
Pháp Hoa có ví dụ về Hoá thành và Bảo sở. Ðường tu xa
vời hiểm trở dễ gây sự chán nản thối chí, nên cần có
những nơi nghỉ ngơi tạm thời gọi là Hoá thành. Khi hành
giả đã phục hồi sức lực, phải tiếp tục tiến bước,
đến Bảo sở mới là mục tiêu cuối cùng. Hoá thành là những
tầng Thiền định từ thấp lên cao, khi công phu còn có sự
dụng công tác ý, còn có bóng dáng của Thọ và Tưởng. Thọ
là cảm giác, Tưởng là tư tưởng. Những cảm giác khinh an
hỷ lạc hoặc những linh ảnh cảnh giới lúc tọa thiền đều
thuộc các tầng Thiền định giới hạn. Người tu theo tinh
thần Ðại thừa biết buông xả những cảm thọ ở thân tâm,
khéo vượt qua mọi vọng tưởng chấp trước, khéo công phu
đúng ý nghĩa Vô sở đắc Vô sở cầu, mới có thể đến
Bảo sở. Tuệ Trung Thượng Sĩ có lần dạy vua Trần Nhân
Tông:
Trì
giới cùng nhẫn nhục
Chuốc
tội chẳng chuốc phúc.
Muốn
biết không tội phúc