Chương
2
CON ÐƯỜNG
THIỀN TẬP
Theo
lời Phật dạy, tất cả chúng sanh vốn sống trong bình an
muôn thuở, nhưng hốt niệm vô minh, tạo nghiệp thiện ác
rồi lưu lạc khắp sáu đường ba cõi. Những cõi sống khác
nhau biểu hiện nghiệp lực do riêng mình tự tạo, nhưng chúng
ta lại giống nhau ở một điểm: đều là những kẻ quên
cội quên nguồn. Hình ảnh gã cùng tử trong kinh Pháp Hoa là
hình ảnh sống động và trung thực nhất diễn tả thân phận
chúng sanh. Là con vị trưởng giả kho báu đầy dẫy mà đi
ăn xin, thì khờ dại biết ngần nào. Giờ đây may mắn gặp
Phật pháp, bàng hoàng chợt tỉnh, dừng bước phiêu du; và
Con đường Thiền tập là lộ trình đưa ta trở về quê hương,
về bản thể của chính mình. Trên đường đi, có nhiều lúc
hầm hố chướng ngại khiến ta vấp ngã, cũng có khi cảnh
đẹp làm ta ưa thích; nhưng nếu ta luôn luôn tâm niệm phải
trở về, thì dù bao nhiêu khó khăn hay cám dỗ, dù hy sinh cả
tính mạng, ta vẫn vững lòng đi tới. Bằng lập trường vững
chắc và ý chí kiên cường, công phu Thiền tập của chúng
ta mới mong có kết quả.
I-
Ý NGHĨA THIỀN TẬP:
1-Tự
do ngay nơi thân năm uẩn:
Con
người ngày nay quen sống trong tiện nghi vật chất nên mất
nhiều thời giờ, công sức tạo dựng cho mình và gia đình
một đời sống đầy đủ. Nhưng sự ước muốn không cùng
tận, đã có càng mong có nhiều hơn, ít ai thỏa mãn với hoàn
cảnh hiện tại của mình. Từ đó bị ràng buộc vào vòng
danh lợi như bị cuốn vào guồng máy lớn, không bao giờ thoát
khỏi.
Chính
đời sống thiền tập giúp ta quán chiếu tính chất hư giả
của thân ngũ uẩn. Vì thân do tứ đại kết hợp, đủ duyên
thành thân, hết duyên thì tan rã; dù là một kẻ bần cùng
mạt hạng hay một quốc vương hùng mạnh nhất thế giới,
rốt cuộc cũng chỉ là một thây chết như nhau. Vì tâm suy
nghĩ lăng xăng cũng nương vào pháp trần mà sinh, nhìn lại
thì không thấy đâu, sinh sinh diệt diệt không ngừng thì làm
sao thật có? Thân tâm không thật thì những sở hữu cũng
không thật, có gì tồn tại bên mình suốt đời suốt kiếp
mà cố chấp để sinh ra xung đột oán thù? Quán chiếu sâu
sắc như thế, chúng ta từng bước cởi bỏ những ràng buộc
của ngã và ngã sở, có tinh thần thiểu dục tri túc. Thiểu
dục là ít ham muốn, Tri túc là biết đủ. Do ít ham muốn
nên biết đủ, và vì biết đâu là đủ nên ít ham muốn.
Có người cho rằng, phải hạn định một mức sống tối
thiểu nào đó hoặc gò ép mình vào một khuôn khổ mới gọi
là tri túc. Thật ra, tri túc là thỏa mãn với cuộc sống hiện
tại của mình, ta có hoàn cảnh phước nghiệp nào thì thỏa
lòng ở đó. Tri túc như vậy chủ yếu ở ngay nơi tâm chứ
không định gá nơi cảnh, vì nếu y nơi cảnh sẽ không bao
giờ ta bằng lòng với hiện tại.
Nhà
Thiền chủ trương, tự do đích thực nghĩa là siêu việt mọi
nhận thức lưỡng phân. “Thiền” cũng là một từ ngữ
khác của tự do, bởi vì người đạt Thiền là người đạt
tới tâm thái tự do, tức đã vượt thoát mọi ràng buộc,
mọi mâu thuẫn, mọi khuôn sáo trong cuộc sống. Có lần Ðức
Phật đã dõng dạc tuyên bố: “Này các tỳ kheo! Ngay nơi
thân năm uẩn gồm có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức nầy,
Như –Lai tuyên bố thế giới, sự tập khởi của thế giới,
sự đoạn diệt của thế giới, và con đường đưa đến
sự đoạn diệt của thế giới!”. Theo đây, cơ thể năm
uẩn của chúng ta là một toà thiên nhiên đẹp đẽ mầu nhiệm
nhất, vì trong tự thân của mỗi người đã có sẵn tiềm
năng vô tận; và chúng ta có thể vươn tới chân trời tự
do thánh thiện bằng chính đôi chân vững chãi của mình. Có
thể nói, trở về với tâm thái tự do là cuộc đấu tranh
vĩ đại cuối cùng của đời người, và an thân lập mệnh
nơi tâm thái tự do ấy chính là sống Thiền.
Nhiều
khi Thiền gia nói đến sự từ khước, nhưng đó không có
nghĩa là từ khước thế gian, mà từ khước mọi đắm say
thế gian. Có khi Thiền gia nói đến sự xa lìa, không phải
xa lìa mọi hiện trạng cuộc sống, mà xa lìa mọi bám víu
vào cuộc sống. Tinh thần từ khước và xa lìa phải được
thực hiện ngay trong tâm hành giả, bất cứ lúc nào và ở
đâu trong sinh hoạt đời thường.
Mọi
sự khốn khổ của con người đều do nhận thức chủ quan
sai lạc đối với các pháp. Khi tiếp xúc với mọi vật, lập
tức ta có sự phân biệt giữa mình là chủ thể nhận thức
hay năng duyên, với sự vật là đối tượng nhận thức hay
sở duyên. Không những thế, ta còn áp đặt cái thấy biết
phiến diện của mình trên đối tượng, mà không nhận ra
bản chất thật của nó. Duy thức học nêu rõ ba loại đối
tượng nhận thức do thức Alaya biểu hiện ra. Một là thế
giới tánh cảnh tức bản chất thật của vạn pháp, là thực
tại tự thân của thế giới, mà tri giác của chúng ta không
thể đạt đến. Thứ hai là Ðới chất cảnh, cảnh tượng
do con người tạo ra. Cảnh này mang một ít tính chất của
Thế giới tánh cảnh, được vẽ vời thêm từ nhận định
chủ quan của mỗi người. Thứ ba là Ðộc ảnh cảnh, những
hình ảnh khơi lại trong trí nhớ hay thấy trong giấc mơ.
Qua
phân tích này, rõ ràng thế giới chúng ta đang sống, đang
nhận thức, đang hiểu biết đây chỉ là những biểu hiện
từ tâm, khi sáu căn duyên với sáu trần. Nói khác đi, tất
cả mọi sự vật hiện tượng đều là sản phẩm của thập
bát giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức). Chúng ta không
thật có cũng chẳng thật không. Không thật có vì chúng do
các duyên hợp lại mà thành, không có tự thể cố định.
Chúng chẳng thật không vì con người có thể nhận biết và
sử dụng chúng. Vì thế, tánh của các pháp là không, nhờ
nhân duyên tụ hội nên tạm có. Chính vì liễu hội bản chất
Không của các pháp nên các bậc ngộ đạo luôn nhấn mạnh
sự từ khước và xả ly. Tuy từ khước nhưng các Ngài thương
yêu cuộc đời hơn ai hết; tuy xả ly mà các Ngài luôn hòa
mình với cuộc sống, làm lợi ích cho mọi người. Chính do
không ham muốn ngũ dục, không dính mắc với trần cảnh, không
chấp ngã, chấp pháp, nên các Ngài hoàn toàn tự do nơi thân
năm uẩn.
2-Không
miễn cưỡng mong cầu:
Chúng
ta tu Thiền thường xem giác ngộ giải thoát như một mục
tiêu để theo đuổi, để hướng về. Nhưng nếu có một mục
tiêu nhắm đến, thì mục tiêu ấy đã ở ngoài mình, đã
được đặt ở thì tương lai, có phân chia người đến nơi
đến tức có ngã có pháp rõ ràng. Như thế không còn là Thiền
nữa, vì Thiền không bị hạn cuộc, không bị định vị,
không bị phân chia năng sở; và đời sống Thiền là mênh
mông bát ngát.
Chúng
ta thường cố gò bó mình vào một khuôn khổ đạo đức.
Ðây là điều cần thiết cho những bước đầu của đời
tu, nhưng sự chủ ý khiên cưỡng ấy khiến trong ta có niệm
gắng gượng làm mất sự hồn nhiên tự tại của Thiền.
Khi thiền hành dưới hàng cây râm mát, tai nghe tiếng rì rào
qua đám lá, tiếng chim ríu rít trên cành, ta biết mình đang
đi đang nghe một cách tự nhiên an lạc mà không khởi một
ý niệm nào, không cần nghĩ mình sẽ đi đâu; thì ngay dưới
những bước chân thảnh thơi ấy, mảnh đất Ta- bà đã trở
thành Tịnh độ, mục đích giải thoát và phương tiện thiền
hành đã không hai không khác.
Thường
độc hành thường độc bộ
Ðạt
giả đồng du Niết-bàn lộ.
Thiền
sư Vĩnh Gia đã diễn tả sự cô liêu của một người đạt
đạo. Các Ngài vẫn ở trong trần thế, vẫn tiếp xúc với
muôn pháp để làm mọi việc giúp người giúp đời nhưng
không vướng bận một pháp nào, không dính mắc một việc
gì. Tâm hồn các Ngài rộng mở thênh thang, tất cả các pháp
đều biểu hiện một cách vi diệu, nên bước độc hành trên
đất khổ đau cũng là dạo chơi ở cõi Niết-bàn!
Thường
chúng ta tưởng tượng có một cõi Niết-bàn ở một thế
giới xa xôi lý tưởng, gắng công tu hành để khi rời khỏi
thân nầy có thể trở về đó như đứa con lưu lạc lâu ngày
trở về quê mẹ. Con người luôn luôn cảm thấy bất an, trống
vắng, thiếu thốn một cái gì, mà suốt đời mãi đi tìm
để bù đắp vào. Cũng có lúc ta thấy mình đầy tội lỗi,
đâm ra chán chường thất vọng, muốn có một nguồn an ủi
nương tựa. Phật-Trời và các vị thần linh chính là nguồn
an ủi ấy; ta tìm đến các Người như tìm một dòng suối
trong mát để gột rửa hết cáu bẩn từ thể xác đến tâm
hồn. Rồi khi hồi tỉnh, ta lại thấy mình đủ trong sạch,
đủ sức lực để quay về lăn lộn nơi trần thế, lại chuốc
lấy nhơ bẩn lên người. Cứ thế, con người qua lại giữa
Bồ-tát và Dạ xoa như bị lôi kéo giữa hai thế lực hướng
thượng và hướng hạ, mà không thể chủ động quyết định
số phận cho mình .
Thật
ra, chúng ta bất an chính vì chúng ta mãi tìm cầu một sự
an lạc từ bên ngoài, mãi hy vọng nơi một thế lực siêu
nhiên ban cho mình sự giải thoát. Ta không hiểu rằng, Niết-bàn
chính là trạng thái thanh tịnh của tâm khi vắng bặt mọi
phiền não. Ví như bệnh ghẻ làm ngứa ngáy khó chịu khiến
ta phải gãi. Lúc đầu gãi rất đã ngứa, nhưng sau đó thì
đau rát nếu cứ gãi hoài. Cảm thọ ngứa- đã ngứa –đau
rát ta thấy rất rõ, trong đó “đã ngứa” là cảm giác
khoái lạc thích thú vô cùng. Sự hưởng thụ ngũ dục cũng
thế, cái khoái lạc do ngũ dục chỉ có trong nhất thời, sau
đó là những tác hại về tinh thần và thể chất nếu hưởng
thụ quá mức. Ăn ngon mặc đẹp là ước muốn của mọi người,
nhưng ăn quá độ làm bệnh tật phát sinh, mặc quá sang thì
phải ra sức làm việc, kể cả việc ác cũng không từ. Mặt
khác, vì có ghẻ ngứa nên mới gãi, nhưng ta nên chấp nhận
có ghẻ để gãi hay muốn da mình lành lặn? Dĩ nhiên, ai cũng
muốn mình không có ghẻ, nhưng khi da ở tình trạng bình thường
thì đâu có cảm giác gì? Ta không còn để ý đến da nữa,
nhưng thật sự đó mới là trạng thái bình ổn, là hạnh
phúc chân thật. Niết-bàn cũng là trạng thái lặng lẽ tịch
tịnh như thế, khi tâm ta vắng bặt mọi vọng tưởng miễn
cưỡng mong cầu.
3-Chuyển
nghiệp và dừng nghiệp.
Nghiệp
là thói quen huân tập trong thời gian dài, xuất phát từ thân
miệng ý. Ý khởi tư tưởng, dẫn đầu cho miệng nói thân
làm, nên ý là chủ tạo nghiệp. Nghiệp trở lại chi phối
hoàn cảnh chánh báo và y báo của mỗi đương sự, theo đúng
tiến trình nhân quả không sai một mảy may. Không một đấng
quyền năng nào có thể sửa đổi tiến trình ấy; ngay cả
Ðức Phật, bậc thầy tối cao của Trời người vẫn không
thể ban phước hay giáng hoạ cho ai. Chiùnh vì thế, mỗi người
là chủ nhân của nghiệp và cũng là đối tượng thọ nhận
những kết quả do nghiệp mình gây ra.
Những
gì ta nghĩ, nói hay làm đều gieo những hạt giống vào mảnh
đất tâm thức, mà Duy thức học gọi là Lạc tạ ảnh tử.
Tùy hạt giống ta gieo là thiện hay ác mà quả trổ ra là hạnh
phúc hay đau khổ, khi đủ thời tiết nhân duyên. Nhiều khi
ta không định nói hay làm một điều gì đó, nhưng như có
ma lực thúc đẩy ta phải thực hiện, dù sau đó nhớ lại,
ta cảm thấy ân hận vô cùng. Ðó là sức mạnh của thói
quen ta huân tập từ trước, mà nguồn gốc là những hạt
giống rơi rớt trong mảnh đất tâm ta. Chính những thói quen
đã tạo nên phong cách riêng của từng người, và chúng ta
khổ chỉ vì do mình tập nhiễm những thói quen xấu, lại
còn vung vãi những hạt giống không lành mạnh ấy cho những
người xung quanh.
Bước
đầu thiền tập là nhìn lại mình, suy xét những gì mình
đã tạo từ thân miệng ý, sửa đổi những điều xấu ác,
huân tập nghiệp thiện lành. Ðây là ý nghĩa của sự chuyển
nghiệp, từ nghiệp ác thành nghiệp thiện. Người tu thiền
chú trọng nhất nơi tâm ý, giai đoạn đầu chưa sạch vọng
tưởng nhưng biết buông bỏ những ý nghĩ bất thiện, ý luôn
nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm việc lành.
Những phước đức hữu vi này không giúp ta thoát khỏi sanh
tử, nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho đời tu của ta.
Khi gặp nghịch cảnh chướng duyên, người có phước báo
cũng dễ dàng qua khỏi. Do vậy, dù theo pháp môn nào, người
con Phật cũng nhớ phước-huệ song tu, như con chim có đủ
hai cánh mới bay cao bay xa được.
Tiến
thêm một bước, nhờ công phu thiền định, chúng ta dần dần
buông bỏ tập khí, kiến chấp; tuy sống trong hoàn cảnh cũ
nhưng đã có niềm vui thanh thản. Tuy vẫn tiếp duyên xúc cảnh
nhưng tâm không dính mắc, không khởi vọng niệm. Ý không
khởi niệm tức không còn tạo nghiệp. Ðây là tinh thần dừng
nghiệp, yếu chỉ của sự giải thoát sinh tử.
Hiểu
theo lý thuyết thì việc tu hành có vẻ đơn giản dễ làm,
nhưng khi hành trì ta mới thấy thiên nan vạn nan. Trải qua
vô lượng kiếp, chúng ta đã huân tập bao nhiêu thói quen xấu,
ý thức lại suy tính nghĩ tưởng có lúc nào yên, ví như mây
đen cứ cuồn cuộn che phủ cả bầu trời. Bài Trữ từ tự
răn của Tuệ Trung Thượng Sĩ có câu:
Còn
mảy tình tam đồ báo ứng
Tơ
hào niệm lục đạo tiếp nhân.
Còn
một mảy may tình cảm là còn chịu báo ứng trong ba cõi, còn
tơ hào niệm là nhân trầm luân trong sáu nẻo luân hồi. Ngài
nói thế để cảnh tỉnh những người quá vội vàng, mới
hiểu Thiền qua khái niệm, biết mình có tánh giác sẵn đủ,
đã vội cho mình chứng đắc, có thể sánh vai cùng chư Phật
Bồ-Tát. Chúng ta thận trọng trong nhận thức trong công phu,
nhưng vẫn tinh chuyên hành trì với lòng tin vững chắc vào
Tam bảo tự tâm và Tam bảo tha lực. Những giờ phút thiền
tập là những lúc ta có thể tiếp xúc với Niết-bàn, khi
ý thức vắng mặt, tâm tĩnh lặng mà thường rõ biết. Có
những lúc vì tập khí lôi dẫn, ta thấy mình yếu đuối khốn
khổ, mất lòng tin vào mình và vào pháp tu. Nhưng những cơn
khủng hoảng ấy cũng qua đi, ta lại trở về với niềm an
lạc thanh lương nếu cứ kiên trì tu tập. Ðây là giai đoạn
sơ cơ, tâm ta còn lại qua liên miên với lục đạo; lúc hiền
thiện như nhơn thiên, lúc sân hận như A-tu-la, khi độc ác
tham lam hay si mê u tối như chúng sanh trong ba đường ác. Nhưng
khi đạt đến quả Dự lưu (Tu-đà hoàn) là bước đầu vào
dòng Thánh, người tu thuận dòng chảy vào biển chân như,
là địa vị kiến đạo kiến tánh bất thối chuyển. Các
Ngài đã có chỗ định vị, có nơi nương tựa vững chắc
làm kế chung thân, cho dù bao phen lên xuống trong cuộc đời,
cho dù có khi vấp ngã, cũng vẫn có thể đứng dậy, tiếp
tục cuộc hành trình thiên lý.
4-Tinh
thần vong ngã:
Con
người làm bất cứ việc gì, dù lớn hay nhỏ, đều có ý
thức mình là người làm hoặc làm việc ấy cho mình. Ngay
trong sự tu hành, tuy cái ngã thô được nhận diện và buông
bỏ, nhưng cái ngã tế vẫn thầm ẩn hiện, mà nếu ta không
chánh niệm tỉnh giác, không miên mật hành trì thì khó kiểm
soát nổi. Có thể nói, ý thức chấp ngã là một bệnh thâm
căn cố đế, khó điều trị và lại dễ tái phát. Vì sao
như thế? Bởi vì, chúng ta mê lầm cho thân tâm nầy là thật
có, là mình.Vì thấy thân thật nên làm mọi việc cốt phụng
sự thân, cốt thỏa mãn những đòi hỏi dù quá đáng của
nó; ai khen nó thì ưa thích, ai chê là sinh bực bội thù ghét.
Vì thấy tâm thật nên luôn cho ý kiến của mình là hay là
đúng, không chấp nhận ai nói ngược làm ngược với ý mình.
Người tu thì cho pháp tu của mình là cao nhất, vị Giáo chủ
của mình vĩ đại nhất, không biết tôn trọng pháp tu khác,
tôn giáo khác. Ðây là nguồn gốc của những cuộc tranh cãi
bất đồng và những cuộc chiến tranh mang những tên hoa mỹ
như Thánh chiến, Thập tự chinh...
Khi
Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa, vua Lương Võ Ðế thỉnh
Ngài về Kim Lăng (kinh đô nhà Lương). Gặp Ngài, Vua hỏi:
-Trẫm
từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng
ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì không?
Ngài
đáp:
- Ðều
không có công đức.
- Tại
sao không có công đức?
- Bởi
vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ
ở cõi trời cõi người, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng
phải thật.
-Thế
nào là công đức chơn thật ?
- Trí
thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế
chẳng do thế gian mà cầu.(4)
Người
tu làm nhiều Phật sự, nếu không thận trọng rất dễ phát
sinh ngã chấp. Càng đóng góp nhiều cho Tam bảo, sự chấp
ngã càng lớn, càng thấy mình quan trọng hơn, có ích hơn người
khác. Nhưng phước báo nhơn thiên chỉ là hữu vi sinh diệt,
như bóng như vang, như mũi tên bắn hết đà rơi xuống. Do
chấp vào kết quả của việc làm, chấp vào ta - người nên
không dính dáng với công đức của tự tánh là vô vi vô tác,
không phải là công đức chân thật và không giúp ta thoát
khỏi trần lao sinh tử.
Trên
đây là những cái chấp ngã thô phù dễ thấy, người tu nhờ
quán chiếu sự duyên sinh giả hợp của thân tâm, có thể
từng bước hoá giải. Ðến cái chấp ngã tế vi thì khó nhận
biết và khó giải trừ vô cùng, mà nhà Phật gọi là hết
phàm tình vẫn còn Thánh giải, hết ngã phàm lại còn ngã
Thánh. Ðó là chấp vào sự chứng đắc trong công phu của
người đã có một trình độ tâm chứng nào đó. Thấy ta
đạt đạo là còn ý niệm sở đắc; còn sở đắc là còn
nguyên tứ tướng Ngã-Nhơn-Chúng sanh-Thọ giả. Ngay cả hy
vọng cao nhất “Thành Phật” cũng còn bóng dáng cái ngã,
làm chướng ngại rất nhiều trên đường đạo. Trong kinh
Kim Cang, Ðức Phật dạy rằng: “Nếu có pháp Như Lai được
vô thượng chánh đẳng chánh giác thì Ðức Phật Nhiên Ðăng
ắt không thọ ký cho ta”. Ðây là tinh thần vong ngã, điều
quan yếu của đạo Phật. Tu thế nào không có mục đích mà
vẫn đến chỗ cuối cùng? - Ðiều này có nghĩa, hành giả
không tác ý khi dụng công, không thấy thật có mình là người
tu, thật có pháp để tu, thật có quả để chứng đắc. Có
thể nói, đạo Phật là đạo duy nhất xương minh thuyết vô
ngã, và người tu đạo Phật dùng đạo đứùc vô ngã làm
thước đo định lực của chính mình.
Tinh
thần vong ngã trước tiên biểu hiện ở cách đối nhân xử
thế hàng ngày. Ðối xử với người khác một cách chân thành
bao dung, giúp đỡ người nhưng không có vẻ ban ơn cầu báo;
làm mọi việc lớn nhỏ đều tỉ mỉ chu đáo, hoàn thành
tốt những công tác được giao mà không mong lợi dưỡng;
trước cảnh thuận hay nghịch đều bình tĩnh giải quyết
êm đẹp, không vướng mắc, không tranh đua ... Ðây là phong
cách của người có chứng nghiệm Thiền. Ðối với đời
trọn vẹn thì trong đạo mới hoàn toàn. Không ai sống tệ
bạc với người đời, xa lạ với đồng loại, quay lưng với
nỗi khổ của thế gian mà là người tu đắc đạo được.
Con
người là sinh vật mang tính xã hội rất cao, có sự liên
đới trách nhiệm, có đời sống tập quần. Như một bộ
phận trong cơ thể, tuy có chức năng riêng nhưng vẫn liên
hệ chặt chẽ và hỗ tương với những bộ phận khác; mỗi
người là một phần tử trong xã hội, chịu ảnh hưởng của
mọi người trong tập thể và ngược lại, cũng ảnh hưởng
đến toàn bộ loài người. Ðối với môi trường thiên nhiên
cũng thế, không có một hành vi nào tàn hại môi trường mà
không chi phối đến sức khoẻ con người. Vô số thiên tai
bệnh họa xảy ra trong thời gian gần đây đều là hậu quả
của những nạn phá rừng, những tác động trực tiếp và
gián tiếp của con người làm ô nhiễm môi trường sinh thái.
Khi quán chiếu về sự tương tức tương nhập của các pháp
trong vũ trụ, chúng ta thấy rõ tất cả chúng sanh hữu tình
và vô tình đều ràng buộc lẫn nhau, đều liên quan mật thiết
với nhau và hơn nữa, ÐỀU LÀ NHAU. Thiên nhiên này chính là
ta, vũ trụ vạn hữu là thân ta chứ không ai khác, và tàn
phá thiên nhiên cũng chính là tàn phá ngay bản thân mình.
Khi
công phu tích cực, ý thức chấp ngã tạm dừng, tâm như mặt
hồ lặng sóng mênh mông, ta cảm nhận một niềm an lạc vô
biên vô tận. Tâm thanh tịnh phát sinh sự minh triết; sự minh
triết lại là điều kiện để tình thương chân thật nẩy
mầm.Hư không không hình tướng nên rỗng rang thênh thang;tâm
người tu lúc nào cũng thênh thang như thế, dung nhiếp tất
cả muôn loài. Ta muốn trải lòng ra hòa điệu với mọi chúng
sanh, tình thương của ta không còn nhuốm màu vị kỷ chiếm
hữu mà trở nên bình đẳng không hạn cuộc, như ánh nắng
mặt trời chan hòa khắp thái dương hệ
Chúng
ta học đạo là muốn tìm sự bình an vĩnh cửu, một hạnh
phúc chân thật, một trạng thái siêu việt của tâm linh. Mục
đích ấy không dễ dàng đạt được, phải đánh đổi bằng
tất cả tâm trí sức lực, thậm chí toàn bộ cuộc đời
mình. Nhưng nếu khi nào ta còn quan niệm “đi tìm”, thì bình
an hạnh phúc có được cũng chỉ là tạm bợ phù du. Chỉ
khi nào không còn dấu vết của ngã chấp dù thô hay tế, hạnh
phúc chân thật ấy, bình an vĩnh cửu ấy, Niết-bàn Bảo Sở
ấy mới hiện bày. Mặt khác, không phải đợi đến đích
cuối cùng ta mới có an lạc hạnh phúc, mà trong công phu thiền
tập, khi tâm vắng bặt mọi vọng tưởng đảo điên, ta cũng
được đôi lần cảm nhận. Vài giọt nước cam lồ là phần
thưởng cao quý khuyến khích ta hăng say dấn bước trên đường
đạo, vượt qua mọi thử thách cam go. Ðến khi sạch bụi
phiền não, ngã chấp pháp chấp đều không, gương tâm sẽ
phô bày toàn bộ tính trong sáng và chiếu soi vốn có, như
hai câu kệ của Thiền sư Vĩnh Gia:
Ngân
cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm
pháp song vong tánh tức chân
Nghĩa:
Khi
nào bụi hết gương trong lại
Tâm
pháp đều quên tánh tức chân.
II-
NỘI DUNG THIỀN TẬP:
1-
Lộ trình tâm linh:
Trong
Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước
tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi
đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và
nơi đến. Nếu không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo
chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không
đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường
tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ,
sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý
của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân,
như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau,
nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập
thể.
Thiền
sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi
lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư
dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an.
Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệm là bước
đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt
của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến
đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài
muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc
phiền não có tâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân
là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được
giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Ðây lại là cuộc
trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết
bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc.
Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều
mức đôï từ thấp đến cao(5).
Chánh
niệm là công phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự
tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện
tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của
tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất
cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo
ý mình. Chánh niệm tự động soi sáng và chuyển hoá mọi
cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm,
như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan
chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.
Kiến
tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành
giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước
khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái uyên nguyên của
vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng
nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm
khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng
chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật
ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn
lui sụt nữa.
2-
Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:
Trước
tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ
là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong
giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiền
là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn
cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ
trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài
bác việc tọa thiền. Ðây là một điều lầm lẫn lớn lao.
Ðức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều
tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người
hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích
hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để
đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiền là cứu
cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ
vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay
chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không
hợp lẽ.
Lúc
tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài,
ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực
bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại,
nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy
thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc
hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không
chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình
các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình
tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ
yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa,
kết hợp với thiền hành.
Tọa
thiền là công phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là
tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm
việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta
có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường
vắng hay ngoài bãi biễn ..., vừa đi vừa hít thở không khí
trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là
lối công phu có tính cách tự do, không theo nguyên tắc cố
định. Ðơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không
có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này
chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết.
Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước
chân. Ðến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng,
thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Ði trong
trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của
chính mình. Ði thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với
sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người
khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.
Trong
một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp
tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang
gắp, nhai, nuốt ...ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những
động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng
cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai –
nhai - nuốt...” thì những động tác ấy không thể nào tự
nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một
cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta
đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì
như thế trởû thành vô tri, dần dần quên mất sự sống.
Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng
là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời
cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.
Mặt
khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức
chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét
nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào
những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa
chén, cuốc đất ... cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa
chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc
làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt;
và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương
tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong
mọi sinh hoạt bình thường.
Các
huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi
những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu. Những cuộc
trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có
tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến
chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần
Tam hòa(6), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử
nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng
đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất
cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu
kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập
thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người
khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng,
không chấp nhận những ý kiến trái ngược... Tất cả đều
là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không
thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được
thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không
hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo
Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ
dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền
là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà
không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở.
Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu
thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều
làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng
lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói
ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền
tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh
đúng mực từ lời nói đến việc làm.
Các
bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn
sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng.
Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã
mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta
sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh,
còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc
nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức
tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi
lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại,
mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch
duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân,
biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.
Có
một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó
ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh
bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với
người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm
thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận định
rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho
xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm
nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà
không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Ðó chỉ là tâm lý
phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm
tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều
hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.
Cổ
đức nói:
Phiền
não khởi giai do đa sự
Thị
phi sanh dĩ thị đa ngôn.
Con
người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn
đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộc
và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được
lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu
bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não
càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục
vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa
đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với
nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến
chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích
gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng ta có
mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế
sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm
khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm
yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày
càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng
cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không
lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối,
không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu
của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiến
là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ
thực tại. Ðạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật
phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện
và bao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt.
Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng
mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của
mình.
Thiền
sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn
mộc xuân vinh thu hựu vô.