|
.
TÂM LINH-KHOA
HỌC TRONG PHẬT PHÁP
Hoà
Thượng Thích Duy Lực
TT.
Thích Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
|
|
PHỤ
LỤC 2:
CUỘC
SỐNG DÂN TỘC KOGI TẠI NAM MỸ
(Trích
từ Đoàn ký giả Alan Ereira đài BBC giới thiệu)
Cách
đây vài năm, Đài BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ từng
cho phát hình một tài liệu đặc biệt ghi nhận nếp sống
của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim này đã
gây chấn động dư luận thế giới và là một đề tài được
bàn cãi rất nhiều trong giới khảo cổ, môi sinh và dân chủng
học. Khi lần đầu tiên được trình chiếu trong kỳ đại
hội Tôn giáo toàn cầu tổ chức tại Chicago, nó đã gây một
xúc động lớn cho toàn thể cử tọa. Chúng tôi ghi nhận lại
bài thuyết trình “ELDER BROTHER’S WARNING” của ký giả Alan
Ereira để bạn đọc cùng suy ngẫm.
Từ
ngàn xưa, nhân loại đã có những nền văn minh lớn. Những
nền văn minh đã tạo ra các kiến trúc vĩ đại như Kim Tự
Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn lý Trường thành v.v… tuy nhiên
dù phát triển đến đâu chăng nữa, nền văn minh nào cũng
chịu sự chi phối của luật vô thường, nay còn mai mất,
cái gì cực thịnh cũng có lúc suy tàn. Lịch sử đã chứng
minh điều đó một cách hiển nhiên vì ngày nay không mấy
ai nhắc nhở gì đến những nền văn minh cổ xưa nữa ngoại
trừ những giai thoại rời rạc, pha trộn nhiều hư cấu, khó
tin.
Nói
đến Kim Tự Tháp, người ta thường nghĩ đến những kim tự
tháp Ai Cập, chứ ít ai nhắc đến những kim tự tháp Nam Mỹ
mặc dù tại đây số kim tự tháp còn nhiều hơn, đặc biệt
hơn và bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn. Có lẽ vì phần
lớn kim tự tháp tại Nam Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm,
không thuận tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát.
Columbia
là một quốc gia nằm ở phía nam Mỹ Châu. Phần lớn lãnh
thổ xứ này được bao phủ bởi những khu rừng rậm rạp
chưa được khai phá, đặc biệt là các rừng quanh rặng Siera
thì gần như còn nguyên vẹn từ mấy ngàn năm nay, không mấy
ai đặt chân đến. Đối với dân xứ này thì rặng Sierra
vẫn được coi là một nơi chốn linh thiêng chứa đựng nhiều
bí mật.
Huyền
thoại xứ này nói rằng đó là chỗ ở của những bậc thần
linh, có nhiệm vụ che chở cho nhân loại. Vì đỉnh núi lúc
nào cũng bị che phủ bởi những đám mây mù, thêm vào đó
khí hậu ẩm ướt quanh năm, nên cây cối mọc chằng chịt,
khó ai có thể vượt rừng đến đó được. Năm 1974,
một phi công bay lạc vào phía đông bắc của rặng Sierra và
phát hiện một kim tự tháp rất lớn tọa lạc giữa rừng.
Việc khám phá ra kim tự tháp này đã thúc đẩy nhiều đoàn
khảo cổ của các quốc gia khác nhau kéo đến đây nghiên
cứu.
Họ
kết luận rằng chiếc kim tự tháp xây bằng đá rất công
phu này có những đường nét kiến trúc khác hẳn những kim
tự tháp khác tại Nam Mỹ, do đó nó thuộc một nền văn minh
riêng biệt nào khác chứ không phải nền văn minh Incas hay
Maya. Quanh kim tự tháp là một thành phố bỏ hoang với những
hệ thống đường xá được lót bằng đá hết sức công
phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành phố còn có một hệ thống
ống cống thoát nước rất hữu hiệu, chứng tỏ người xưa
đã hiểu biết rành rọt về vấn đề vệ sinh.
Theo
các nhà khảo cổ thì thành phố này đã được xây cất trên
bảy ngàn năm, trước khi nền văn minh của Incas và Maya phát
triển và có lẽ là một trong những nền văn minh cổ nhất
ở Nam Mỹ. Nếu thế, lịch sử nền văn minh này như
thế nào? Tại sao họ lại biến mất, không để lại một
dấu tích gì trừ chiếc kim tự tháp và hệ thống đường
xá tinh vi kia?
Các
nhà nghiên cứu nhận xét rằng, dù đã trải qua bảy tám ngàn
năm mà hệ thống đường xá vẫn còn rất tốt, không bị
hư hại, trong khi hệ thống xa lộ tối tân nhất tại Hoa Kỳ
ngày nay nếu không được tu sửa, bảo trì thì chỉ
vài chục năm đã hư hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn
năm. Dọc theo những con đường lót bằng đá là những thửa
ruộng trồng lúa và khoai chứng tỏ nền văn minh này chú trọng
nhiều về nông nghiệp.
Một
điểm đặc biệt là mỗi ngã tư đường lại có những tảng
đá lớn, khắc ghi những ký hiệu lạ lùng trông như một
tấm bản đồ. Bản đồ đường xá hay bản đồ chỉ dẫn
điều gì vẫn còn là một câu hỏi lớn. Thông thường các
nền văn minh cổ thường để lại nhiều dấu tích hay tài
liệu ghi khắc về lịch sử, phong tục tập quán, nhưng không
hiểu sao tại đây họ không hề tìm thấy một dấu tích đặc
biệt gì về nền văn minh này ngoài các tấm bản đồ lỳ
lạ kia.
Cách
đó không xa ở gần đỉnh núi có một bộ lạc người thiểu
số gọi là Kogi sống biệt lập, không giao thiệp với ai.
Các nhà khảo cổ đoán rằng có lẽ giống dân Kogi là con
cháu của những người đã xây dựng lên kim tự tháp và thành
phố với đường xá xây bằng đá này nhưng họ vẫn không
biết vì sao một nền văn minh như vậy lại suy tàn và biến
mất, không để lại dấu tích nào?
Vì
người Kogi sống biệt lập trên đỉnh Sierra, không tiếp xúc
và giao thiệp với ai nên rất ít người biết đến họ. Trong
khi những bộ lạc quanh vùng lại thường giao dịch, trao đổi
hàng hóa với những người tỉnh thành thì người Kogi rất
thận trọng và kín đáo, rút lên những vùng núi cao, không
tiếp xúc với ai hoặc chỉ giới hạn việc giao thiệp với
một vài bộ lạc lân cận mà thôi.
Một
hôm, ký giả Alan Ereira, phóng viên của đài BBC tại Colombia,
nhận được tin bộ lạc Kogi từ lâu không tiếp xúc với
ai, đã chấp thuận cho anh được phỏng vấn với điều kiện
là anh phải đến tham dự buổi Đại hội Tôn giáo thế giới
tổ chức tại Chicago vào tháng 09 năm 1993 và công bố một
thông điệp của họ.
Ký
giả Alan Ereira đã viết: “Đây là một biến cố đặc biệt.
Tại sao bao năm nay không giao thiệp tiếp xúc với ai mà tự
nhiên họ lại cho phép tôi được phỏng vấn quay phim? Họ
muốn gì đây? Tại sao một bộ lạc sống biệt lập trong
vùng rừng sâu núi thẳm, không tiếp xúc với thế giới bên
ngoài, lại biết có một đại hội tôn giáo nhóm họp tại
Hoa Kỳ để gửi một thông điệp? Một điều may mắn là
tuy người Kogi không liên lạc với ai, rất ít người biết
đến ngôn ngữ của họ, nhưng vì họ tiếp xúc giới hạn
với vài bộ lạc gần đó nên chúng tôi đã tìm được một
người dân bộ lạc này có thể nói được tiếng Kogi để
làm công việc thông dịch”.
Phái
đoàn của ký giả Ereira gồm 6 người, 2 ký giả, một nhân
viên y tế và 3 nhân viên thu hình, đã lên đường vào đầu
năm 1993. Trải qua nhiều ngày tháng trèo đèo, lội suối, họ
đã đến vùng đất của người Kogi nằm sâu trên đỉnh Sierra.
Đường vào đây phải vượt qua một vực thẩm rất sâu,
chỉ có một cây cầu treo bằng dây thừng bắt ngang qua bờ
vực. Được thông báo trước, một phái đoàn Kogi đã ra đón
tiếp trước bờ vực.
Khác
với những bộ lạc thiểu số sống trong vùng thường ít
mặc quần áo, tất cả những người Kogi đều mặc quần
áo dệt bằng sợi màu trắng với tay áo thụng như cánh bướm.
Một người lớn tuổi đã bắt đầu bằng một bài diễn
văn ngắn:
- Chúng
tôi là những trưởng lão của dân Kogi, chúng tôi chấp thuận
cho phép các ông được đặt chân vào đây trong ba ngày. Chúng
tôi muốn nhấn mạnh rằng đây là lần đầu và có lẽ cũng
là lần cuối các ông được phép đến đây. Hiển nhiên việc
này đã được Hội Đồng Trưởng Lão thảo luận rất kỹ
và đồng ý. Chúng tôi là con cháu của một giống dân cổ,
một giống dân đã có mặt trên trái đất này từ lâu lắm
rồi, trước khi tổ tiên cha mẹ các ông ra đời.
Vì
chúng tôi có mặt từ trước, chúng tôi tự coi mình là những
người anh lớn trong đại gia đình nhân loại, do đó chúng
tôi là anh và các ông là em. Theo lệ thường trong gia đình,
người anh thay mặt mẹ cha để giáo dục, dạy dỗ các em;
nhưng chúng tôi biết rằng các em còn trẻ quá, còn hung hăng
quá, chưa thể học hỏi được gì nên trải qua mấy ngàn
năm nay, chúng tôi hy vọng theo thời gian, các em sẽ hiểu biết
hơn, trưởng thành hơn và học hỏi được qua những lỗi
lầm đã tạo.
Tiếc
thay thời gian qua nhanh, trải qua bao thế hệ mà các em không
những chẳng học hỏi được gì lại còn tiếp tục phá hoại
gia tài của mẹ cha để lại, do đó những người anh lớn
bắt buộc phải lên tiếng. Trước khi đi vào chi tiết, chúng
tôi cho phép các ông được quan sát nếp sống của chúng tôi,
một nếp sống truyền thống đã tiếp diễn mấy ngàn năm
không thay đổi. Các ông được tự do nghiên cứu, ghi nhận,
quay phim, chụp hình và làm tất cả những gì cần thiết và
sau đó chúng tôi có một thông điệp muốn gửi cho thế giới
bên ngoài.
Ký
giả Ereira ghi nhận: “Thật không thể tưởng tượng được
cảm giác lạ lùng của chúng tôi khi vượt qua chiếc cầu
treo lơ lửng trên miệng vực thẳm đó để bước chân vào
vùng đất của người Kogi. Chúng tôi có cảm tưởng rằng
thời gian đã dừng lại hoặc chúng tôi đã đi ngược thời
gian để trở về một thời điểm nào đó của lịch sử.
Mặc
dù thời gian chỉ vỏn vẹn có ba ngày nhưng phái đoàn của
chúng tôi đã làm việc không ngừng. Mọi người tùy theo khả
năng chuyên môn đã tận dụng thời gian để khảo cứu, ghi
nhận. Chuyên viên thu hình đã làm việc không nghỉ, ghi nhận
được hơn hai mươi giờ phim ảnh tài liệu. Chuyên viên y
tế đã khám hơn một trăm người và hoàn tất hồ sơ đầy
đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe của những người
dân tại đây.
Điều
đặc biệt là tuy sống trong một tình trạng có thể tạm
gọi là “thiếu tiêu chuẩn vệ sinh” theo quan niệm của
những người “văn minh” như chúng ta, nhưng chuyên viên y
tế không hề tìm thấy một dấu hiệu nào về bệnh tật
cả. Hàm răng của họ rất tốt, ngay cả triệu chứng sâu
răng thường thấy tại các bộ lạc khác cũng không hề có
tại đây.
Tôi
xin xác nhận rằng tất cả những gì chúng tôi ghi nhận được
đều kiểm chứng cẩn thận để đảm bảo tính cách trung
thực của nó. Vì thời gian quá ít, chúng tôi chỉ làm được
những gì có thể làm và chắc chắn có nhiều thiếu sót.
Tôi được biết có đến hơn hai mươi làng mạc rải rác
trên đỉnh Sierra, nhưng chúng tôi chỉ được đến thăm một
làng duy nhất mà thôi.
Chắc
hẳn người Kogi đã có một lý do riêng nào đó nên không
muốn chúng tôi đi thăm những nơi khác, nhưng chúng tôi cũng
không muốn tò mò tìm hiểu thêm làm gì. Các trưởng lão xác
nhận rằng họ không giấu giếm chúng tôi điều gì nhưng
cũng không muốn sự có mặt của chúng tôi gây xáo trộn cho
đời sống yên lành của những người dân trong vùng”.
“Điều
đặc biệt đầu tiên mà chúng tôi thấy là những người
dân Kogi thường sinh hoạt chung. Mỗi khi cần làm việc gì
thì mọi người kéo nhau ra làm việc đó một cách rất tự
nhiên. Chúng tôi đã chứng kiến việc toàn thể dân chúng
trong làng kéo nhau đắp lại con đường bằng đá dẫn vào
làng. Họ tự động phân chia ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm
làm một phần mà không cần có người hướng dẫn hay chỉ
dạy. Vì con đường này nối liền với hai làng nên dân cả
hai làng kéo nhau ra làm việc một cách hết sức trật tự.
Chúng
tôi được biết mỗi làng có một Hội Đồng Trưởng Lão.
Những người này thường cầm một chiếc ống nhỏ bằng
gỗ, bên trong đựng vôi. Họ cầm một chiếc que xoay qua xoay
lại để tán những mảnh đá vôi ra thành bột, thỉnh thoảng
lại đưa lên miệng chấm một chút vôi vào đầu lưỡi. Một
trưởng lão cho biết: “Chiếc ống vôi tượng trưng cho đời
sống”.
Họ
luôn tay xoay chiếc ống đó vì đời sống luôn luôn thay đổi,
tiếp diễn không ngừng… Đá vôi tượng trung cho chất liệu
của đời sống. Sở dĩ họ nghiền nát những miếng vôi rồi
đưa lên miệng vì hành động đó làm cho đời sống trở
nên ý nghĩa hơn. Tôi không hiểu rõ nghĩa của câu đó nên
yêu cầu ông giải thích thêm. Vị trưởng lão đã nói: Đời
sống là một sự mầu nhiệm, nếu con người biết mài giũa
thân và tâm để ý thức đời sống một cách trọn vẹn thì
người ta sẽ ý thức được những việc khác phi thường
hơn”.
Ký
giả Ereira kết luận: “Tôi đã quan sát việc nầy rất lâu
mà không thể giải thích gì hơn. Theo tôi thì có lẽ đây
là một phương pháp tĩnh tâm, ý thức hành động của mình,
một phương pháp giống như cách thực hành thiền định của
người Á Châu. Việc mài giũa thân tâm qua hành động xoay
xoay chiếc ống vôi nhỏ trên tay là một điều lạ lùng rất
khó giải thích”.
Chính
giữa làng có một căn nhà rất lớn cất bằng lá cây. Đây
là nơi hội họp của dân làng mỗi khi có việc quan trọng.
Khác hẳn với những bộ lạc khác, chúng tôi không hề nhìn
thấy các biểu tượng tôn giáo tín ngưỡng gì. Căn nhà hoàn
toàn trống trơn và rất sạch sẽ.
Một
vị trưởng lão cho biết đây là trung tâm sinh hoạt của làng,
mọi việc quan trọng như cưới hỏi, chôn cất, trồng trọt
cày cấy, tiên đoán thời tiết đều được mang ra thảo luận
tại đây để lấy quyết định chung. Tất cả mọi người
đều được quyền phát biểu ý kiến, không có thủ trưởng
hay một ai nắm quyền hành cả.
Ký
giả Ereira ghi nhận: “Thật là một điều lạ lùng chưa từng
thấy; một bộ lạc không có thủ trưởng, không có người
lãnh đạo, mọi quyết định đều là quyết định chung. Phải
chăng đây là một hình thức dân chủ thô sơ nhất và chân
chánh nhất đã có từ ngàn xưa? Theo chỗ chúng tôi dò hỏi
thì không có một điều gì được làm nếu không có sự đồng
ý chung, nhưng quyết định chung ở đây không có nghĩa là
đa số trên thiểu số mà là quyết định của toàn thể mọi
người (Consensus). Thật khó có thể tưởng tượng một bộ
lạc sống biệt lập lại có một truyền thống dân chủ đặc
biệt như vậy! Phải chăng nền văn minh cổ xưa ngày trước
là một nền văn minh dựa trên căn bản dân chủ?”
Đơn
vị nhỏ nhất của xã hội Kogi là đơn vị gia đình. Trung
bình một gia đình gồm cha mẹ và các đứa con. Khi trẻ em
còn nhỏ, chúng được nuôi dưỡng bởi cha mẹ, phần lớn
là người mẹ trực tiếp nuôi nấng con cái. Nếu có bệnh
tật thì các em được đưa đến cho các trưởng lão chữa
bệnh. Đôi khi các trưởng lão cũng bó tay và các em nhỏ không
thể sống, nhưng cha mẹ chúng chấp nhận, cho rằng đó là
luật thiên nhiên.
Nếu
sống được đến lúc trưởng thành thì người Kogi có tuổi
thọ rất cao, tuổi trung bình của họ là khoảng một trăm
hay hơn thế nữa. Một trưởng lão cho biết: “Theo quan niệm
của chúng tôi thì sống thuận theo thiên nhiên không thể có
bệnh, bệnh tật chỉ là hậu quả của những gì trái với
thiên nhiên”. Ngoài ra sự tương giao giữa con người với
thiên nhiên hết sức mật thiết và khi thiên nhiên bị
phá hoại, chắc chắn con người sẽ bị ảnh hưởng theo,
do đó con người phải biết tìm môi trường thích hợp để
sống.
Chính
vì sự sống trái với các định luật thiên nhiên mà có đủ
thứ bệnh kỳ lạ xảy ra, đây là bằng chứng hiển nhiên
rằng con người chịu ảnh hưởng nhiều về môi trường và
cách thức họ sinh sống”. Khi đứa nhỏ được khoảng bảy
tuổi thì chúng bắt đầu rời cha mẹ để sống với ông
bà nội, ông bà ngoại ở cách đó không xa để được giáo
dục thêm về cách sống tự lập. Khi được hai mươi mốt
thì đứa nhỏ đi theo các bậc trưởng lão học hỏi và khi
gần ba mươi mới bắt đầu khởi sự lập gia đình riêng.
Người
Kogi sống bằng cách canh tác và hái cây trái trong rừng, một
lối sống rất thô sơ thường được gán cho các dân tộc
còn man dã. Phương pháp trồng trọt của họ cũng rất giản
dị. Họ dùng một cây nhọn để xắn đất, thảy vào đó
vài hạt đậu rồi lấp lại. Việc trồng trọt hay gieo hạt
được dành cho phái nữ, vì người nữ “mát tay” hơn người
nam.
Một
trưởng lão cho biết: Chúng tôi vẫn biết có những phương
pháp trồng trọt, canh tác khác có thể làm hoa mầu nảy sinh
rất nhiều nhưng có nhiều để làm gì? Gia đình nào cũng
chỉ ăn ngày ba bữa. Có nhiều sẽ tạo nên tình trạng tham
lam, tạo ra phiền toái vô ích. Thiên nhiên đã lo liệu chu
toàn thì cứ theo đó mà sống. Các ông hãy nhìn kia, chim chóc
không gieo hạt mà thiên nhiên có để chúng chết đói đâu?
Các thú rừng khác cũng thế, chả loại nào thiếu ăn cả,
vậy tại sao con người lại phải lo tàng trữ, gia tăng thu
hoạch thực phẩm? Có dư làm rối loạn trật tự thiên nhiên,
có nhiều hơn cái mình cần là lấy đi mất phần của người
khác hay sinh vật khác và như thế là vi phạm một định luật
căn bản của thiên nhiên và truyền thống sẵn có của dân
Kogi. Các ông nên biết người Kogi chỉ sống vừa đủ, hoàn
toàn không có gì dư thừa và do đó tại đây không hề có
trộm cướp hay các tệ nạn như các bộ lạc khác.
|