- Cơ
duyên:
“Số
mệnh (mật mã tin tức sẵn có) nếu có tự sẽ có, đâu nhọc
người ta uổng công lo”, ấy là quan điểm điển hình về
túc mạng luận. Có người hỏi: “Người nào có thể làm
nhà khí công?” Trước tiên chúng ta phải căn cứ theo nguyên
tắc của túc mạng luận; nếu mật mã sanh mạng của ông
có nội dung này thì ông sớm muộn cũng được làm nhà khí
công.
Nhưng
có ai biết trước mật mã sanh mạng của mình đâu? Ấy chỉ
có thể tùy thuận tự nhiên, khỏi cần lo âu, cứ đợi nhân
duyên đến. “Có ý trồng hoa, hoa chẳng nở, vô tâm cắm
liễu, liễu sum sê”, đây cũng là bảo người, chẳng cần
cố chấp tìm tòi, cứ thuận theo tự nhiên, tục ngữ gọi
là “sắp đặt tùy trời”.
Nếu
biết tùy trời để đợi cơ duyên cũng không được, như
thế quá bị động, chỉ hiểu theo túc mạng luận là nghiêng
về một bên, cần phải tìm thêm một bên kia để hợp
thành 2 điểm song song bao gồm hai mặt ẩn hiển mới được.
Túc
mạng luận nhấn mạnh “thành sự tại trời”, chỉ nghiêng
về một bên, chẳng phải toàn diện; cần phải đồng thời
nhấn mạnh “mưu sự tại người”, theo mặt này chủ động
siêng năng đi tìm gặp cơ duyên mới được.
Nhiều
nhà khí công chủ động đi tìm gặp cơ duyên như:
1.
Ông ấy biểu hiện tốt, được thầy chọn người thừa kế.
2.
Khổ luyện khổ học, tài đức song toàn, nhờ thầy dạy lại
hơn thầy.
3.
Có bệnh cần chữa trị mà học khí công, bệnh lành rồi
khí công cũng học được.
Rất
nhiều người chủ động đi tìm học khí công mà trở thành
nhà khí công, ấy đều thuộc “mưu sự tại người”.
- Đắc
khí do kích thích phát khởi:
Từ
người bình thường trở thành người có công năng đặc biệt,
mấu chốt ở nơi kích phát (kích thích phát khởi), tìm năng
của con người qua sự kích phát sẽ xuất hiện công năng
đặc biệt, gọi là đắc khí. Nói về đắc khí do tự nhiên
kích phát, cũng là việc thường xảy ra, như có người bị
sét đánh, chết đi sống lại mà xuất hiện công năng xem
thấu vật chướng ngại; có người sau cơn đau nặng chết
rồi sống lại cũng xuất hiện công năng kỳ diệu; có người
quá nóng giận hoặc bi thảm, chết đi sống lại, bổng phát
hiện mình có công năng khác thường.
Những
trường hợp do bị động mà tự nhiên đắc khí xuất hiện
công năng, báo cho chúng ta biết về hiện tượng khí công
chẳng phải huyền bí, là sự phản ảnh của tiềm năng ẩn
nơi sinh lý tâm linh, có thể nhờ sự kích phát mà hiển hiện.
- Kích
phát do tu trì:
Thế
thì, ngoài việc “tự nhiên kích phát” còn có sự “nhân
công kích phát” không? Có, ấy là sự tu trì, là luyện công
học công ngộ công. Hiện nay xã hội Trung Quốc nơi các tỉnh
đều có lớp dạy khí công, ấy tức là nhân công kích phát.
Đặc
điểm của nhân công kích phát là:
1.
Đưa cho ông một cơ duyên.
2.
Giúp đỡ lòng kích phát.
3.
Đã nói là dùng “nhân công” chẳng thuận theo tự nhiên,
vẫn còn chấp trước, nên sự thành công không nhiều.
Có
người luyện công mười mấy năm, tiếp xúc mười mấy vị
sư phụ khí công vẫn chưa đắc khí, chẳng thể phát công
trị bệnh. Tại sao?
Nói
ra thì dài dòng, nguyên nhân luyện công thất bại cũng phức
tạp, như người có trình độ văn hóa cao thì tư tưởng logic
quá mạnh (hiển tánh quá thịnh), khó đắc hồ đồ mà nhập
tịnh.
Thậm
chí, nửa tin nửa nghi, tự làm bế tắc, ý chí chủ quan mãnh
liệt và cố chấp quan niệm cũ, tự cản trở tiến trình
của sự kích phát, tập luyện lâu ngày mà chưa vào được
cửa “khí”. Hoặc như tánh ngộ quá kém, trí chẳng mở
mang, cứ nhìn mèo vẽ cọp, chỉ động tác theo hình thức
nên khó nhập tịnh chơn thân thật mà đắc khí.
Còn
có người thì tạp niệm ùn ùn nổi dậy, thất tình lục
dục quá thịnh, suốt ngày lẫn lộn trong trần lao, chẳng
buông chẳng tịnh chẳng thư giãn, khó kích phát tiềm năng.
Tóm
lại, tỷ lệ thành công của nhân công kích phát hơi thấp,
vì ngược với tự nhiên, ấy là chỗ khó vậy.
- Khai
ngộ về khí công:
Dù
nói khó nhưng chẳng phải tuyệt đối không có khả năng,
khai ngộ có thể xúc tiến sự tu trì. Theo quá trình tu học
khí công, học công chẳng gọi là học công mà gọi là ngộ
công, nói “học được” chỉ là hình thức bề ngoài, ngộ
được mới đạt đến sự chơn thật bề trong.
“Vô
sư tự thông, tự học thành tài” là ngộ, “nơi tịnh sanh
huệ” là ngộ, “tư duy tịnh lự”, “thiền định” là
sự ngộ cao hơn. Có người chẳng nhờ nhà khí công truyền
dạy, chẳng có hình thức mà đắc khí, đó cũng thuộc về
tự nhiên kích phát.
Do
đó, cầu sư lễ thầy, tu trì tập luyện, mấu chốt thành
công ở nơi “chẳng đạt mục đích, chẳng chấp trước
mong cầu, chẳng chú trọng hình thức bề ngoài, cứ thuận
theo tự nhiên, cố gắng giảm bớt những nhân tố tạo tác”.
Ý
nghĩa chữ “ngộ” chỉ có thể dùng ý hội, chẳng có thể
dùng ngôn ngữ truyền, nên tặng ông một lời “lời ở trong
ngộ”.
Câu
chuyện khai ngộ đời xưa rất nhiều, cũng như Trương Lương
gặp thầy, Lục Tổ thuyết kệ thọ y bát… đều là những
sự tích ghi trong lịch sử về khai ngộ.
Tóm
lại, ngoại tịnh nội động, khi cơ thể nhập tịnh, nhờ
tinh thần vận động, dẫn dắt tâm lực xuất hiện dễ hơn,
giải tỏa sự bế tắc của sinh mạng, sửa đổi trạng thái
của ngũ giác quan biến thành hồ đồ (quên mình), đi vào
cảnh giới siêu ngũ giác quan, ấy là quá trình của sự khai
ngộ.
Thiền
định có thể tăng cường công hiệu cảm ứng của trí tuệ,
từng bước từng lớp, từ sơ ngộ đến đốn ngộ, cho đến
đại ngộ, chơn ngộ mà đắc khí xuất hiện công năng, ấy
là sự thể nghiệm của người tu học khí công cao cấp.
Đường
lối khai ngộ của phương pháp khí công, phải kết hợp với
lý luận khí công, nghĩa là vừa thâm nhập hồ đồ lại có
cao độ tỉnh giác.
- Pháp
vô định pháp:
Kỳ
thật, tất cả phương pháp luyện công đều do người ta biên
soạn ra, vốn đã có thành phần tạo tác không tự nhiên.
Muôn ngàn đường lối chẳng có nhất định, lối nào có
thể dẫn ông đi đến mục đích, tức là một pháp môn. Nhưng
chẳng cần chấp vào một pháp nào cố định, vì pháp vô
định pháp, mỗi mỗi đường lối đều thông đến vũ trụ
vô cực.
Từ
tư duy logic, phép tắc cố định cho đến tư duy linh cảm,
phương pháp tự nhiên, ấy là quá trình phát triển từ trạng
thái thông thường của công năng hiển tánh đến trạng thái
phi thường của kỹ thuật khí công. Nói khó cũng chẳng khó,
chẳng biết thì thật khó, biết rồi thì chẳng khó, nghĩa
là pháp vô định pháp. Còn có một câu tiếp theo rất quan
trọng, gọi là “cao công vô pháp”, tất cả năng lực đều
sẵn có trong tâm linh.