V
XXII.
Phương tiện khai thị tại núi Vân Cư, năm 1955.
1/
Ngày mười một tháng ba.
2/
Ngày mười hai tháng ba.
3/
Ngày mười ba tháng ba.
4/
Ngày mười bốn tháng ba.
5/
Ngày hai mươi mốt tháng ba.
6/
Ngày hai mươi bốn tháng ba.
7/
Ngày hai mươi sáu tháng ba.
8/
Ngày ba mươi tháng ba.
9/
Mồng ba tháng tư.
10/
Mồng năm tháng tư.
11/
Mồng chín tháng tư.
XXII.
Phương tiện khai thị tại núi Vân Cư, năm 1955 [^]
1/
Ngày mười một tháng ba.
Thích
Ca Như Lai thuyết pháp trong bốn mươi chín năm, đàm kinh hơn
ba trăm hội, quy nhiếp tại ba tạng, mười hai bộ. Ba tạng
tức là tạng kinh, tạng luật, tạng luận. Toàn bộ ba tạng
không ngoài ba học, giới định huệ. Tạng kinh thâu nhiếp
định học. Tạng luật thâu nhiếp giới học. Tạng luận
thâu nhiếp huệ học. Nói chung, hai chữ nhân quả bao gồm
tất cả lời thuyết pháp của Phật. Tất cả phàm thánh,
thế gian, xuất thế gian, đều không vượt ngoài hai chữ nhân
quả. Nhân tức là nhân duyên. Quả tức là quả báo.
Ví
như trồng lúa, lấy hạt lúa làm nhân, rồi nhờ ánh sáng,
gió mưa làm duyên. Khi hạt lúa chín mùi thì gặt hái lúa,
tức là quả. Nếu không nhân duyên, quyết chẳng thể kết
quả. Sở dĩ thành thánh hiền, vì các Ngài minh nhân thức
quả. Minh tức là liễu giải được nghĩa. Thức tức là hiểu
rõ được nghĩa. Phàm phu sợ quả. Bồ Tát sợ nhân. Phàm
phu chỉ sợ quả ác, mà nào biết đến quả ác phát khởi
từ nhân xấu. Bình thường, tự ý làm những việc hàm hồ
ngu xuẩn; mưu đồ hưởng sung sướng trong nhất thời, mà
quên rằng sung sướng vốn là nhân khổ.
Bồ
Tát chẳng như thế. Bình thường, nhất cử nhất động, hộ
trì thân tâm cẩn trọng, và luôn lấy việc giữ giới làm
đầu, nên chẳng gieo nhân xấu, thì làm sao quả ác đến?
Bị quả ác trói buộc, do vì đã trồng nhân xấu bao đời
xa xưa. Trước kia đã từng trồng nhân nào, thì ngày nay khó
mà trốn chạy quả báo đó. Khi cảm thọ quả báo, phải an
nhiên lãnh thọ, chẳng nên lui sụt sợ hãi. Đấy mới gọi
là minh nhân thức quả.
Ví
như pháp sư An Thế Cao thuở xưa, nhờ bao kiếp tu trì, nên
được thọ sanh làm thái tử nước An Tức. Khi ấy, Thái Tử
xả bỏ năm dục, xuất gia tu đạo, đắc được túc mạng
thông, biết đời trước đã từng thiếu nợ mạng người.
Chủ nhân lúc ấy đang ở tại nước Tàu. Do đó, Ngài đi
thuyền qua Tàu. Đến Lạc Dương, Ngài đi qua một cánh đồng
hoang vắng. Bỗng nhiên, từ đâu chạy đến, một thiếu niên
tay cầm thanh kiếm, xa thấy Ngài, nổi giận đùng đùng, hung
khí đằng đằng. Khi chạy tới, chưa kịp nói lời gì, liền
vung kiếm chém Ngài. Sau khi chết, thần thức của Ngài vẫn
trở lại đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lúc trưởng
thành, cũng phát tâm xuất gia, vẫn đạt được túc mạng
thông, và biết đời này lại phải đền thêm một mạng người
nữa. Chủ nhân vẫn ở tại Lạc Dương. Vì vậy, Ngài đi
qua Tàu một lần nữa, rồi đến thẳng nhà người vừa giết
mình trong đời tiền kiếp. Đến nơi, Ngài xin tá túc qua đêm.
Được
tiếp đãi cơm nước xong, Ngài hỏi chủ nhân:
- Ông
có nhận ra tôi không?
Chủ
nhân đáp:
- Không.
- Tôi
là vị tăng mà ông đã giết tại một cánh đồng vắng, vào
ngày ấy, tháng ấy, năm ấy.
Chủ
nhân kinh hoàng sợ sệt, vì việc này không có người thứ
ba nào biết đến. Ông nghĩ rằng vị tăng này chắc là hồn
ma thuở xưa, nay trở lại đòi mạng. Do đó, ông ta vụt muốn
bỏ chạy. Ngài bảo:
- Chớ
sợ! Tôi chẳng phải là quỶ ma đến đòi mạng đâu! Ngày
mai, tôi cũng sẽ bị người khác giết chết, để đền sanh
mạng trong đời tiền kiếp. Vì thế tôi mới đến đây. Nhờ
ông làm nhân chứng, chuyển lời di chúc của tôi lại cho quan
quân địa phương, bảo rằng tự tôi đến đây để đền
mạng, chớ trị tội kẻ giết lầm tôi.
Nói
xong, Ngài liền đi ngủ. Hôm sau, Ngài đi ra đường phố, gặp
một người nông phu, đang gánh củi. Lúc Ngài đi gần tới
ông ta, đột nhiên gánh củi ở phía trước rớt xuống đất,
nên cây đòn gánh vụt đánh bật trở lại đằng sau, đập
trúng vào đầu Ngài, khiến Ngài chết ngay lập tức. Người
nông dân bị dẫn đến quan trường xét xử. Chất vấn xong,
quan tuyên bố là ông nông dân phạm tội cố sát. Ông chủ
nhân giết Ngài đời trước, thấy lời Ngài dặn dò đêm
hôm qua thật rất tương hợp với sự tình, nên trần thuật
và trình di chúc của Ngài lên quan xét xử. Quan nghe xong, tin
tưởng nhân quả chẳng sai chạy, nên tha tội ngộ sát cho
ông nông dân. Khi bị đòn gánh đánh chết, thần hồn Ngài
vẫn bay trở lại, đầu thai làm Thái Tử nước An Tức. Lớn
lên, cũng xuất gia tu hành, tức là pháp sư An Thế Cao.
Tuy
là thánh hiền, nhưng chẳng lầm nhân quả. Đã từng trồng
nhân xấu thì phải cảm thọ quả ác. Nếu hiểu rõ nghĩa
này, thì những cảnh thuận nghịch, vui buồn, khổ nhọc, sung
sướng, cùng mọi cảnh giới hằng ngày, đều do nhân xưa
tạo ra. Ngay nơi những cảnh giới này, chớ sanh tâm vọng
tưởng thương ghét oán trách, thì tự nhiên sẽ xả bỏ được
tất cả, khiến chuyên tâm vào đạo. Những thói quen tật
xấu, vô minh, cống cao ngã mạn, đều không thể làm chướng
ngại, thì tự nhiên dễ dàng nhập đạo.
2/
Ngày mười hai tháng ba [^]
Người
xưa xem sanh tử là việc lớn, nên không quản khổ nhọc, bôn
ba trèo non lội suối, vượt núi băng sông, để tầm sư học
đạo. Chúng ta từ đời vô thủy đến nay, bị bao vọng tưởng
che lấp, trần lao trói buộc, quên mất bản lai diện mục
của mình. Ví như tấm kiếng, vốn tự chiếu soi khắp cả
trời đất, nhưng vì bị bụi bặm trần cấu bám vào, khiến
nó không thể chiếu sáng. Chúng ta chỉ việc dùng công phu
lau chùi, thì tự tánh chiếu soi xưa kia, tự nhiên hiển hiện.
Tâm tánh của chúng ta cũng như thế. Trên đồng với chư Phật
không hai không khác, không thiếu không thừa. Song, tại sao
chư Phật đã thành Phật rồi, mà chúng ta vẫn còn làm phàm
phu, nằm trong biển khổ sanh tử? Chỉ vì tâm tánh của chúng
ta, bị bao tập khí vô minh phiền não che lấp, nên tâm tánh
này tuy cùng Phật không khác, nhưng không thể dùng được.
Ngày
nay, chúng ta đã xuất gia, đồng là con Phật, thì phải cố
gắng minh tâm kiến tánh, xoay về cội nguồn, chẳng ngại
khổ nhọc, vận dụng công phu. Người xưa chịu muôn ngàn
khổ nhọc, tham tầm thiện tri thức, chỉ vì muốn hiểu rõ
chính mình. Hiện tại là đời mạt pháp, thời thánh giáo
đã qua, Phật pháp ngày càng suy vi, người nhiều biếng nhác,
nên chẳng có thể cắt đứt dòng sanh tử. Ngày nay đã biết
tự tâm tương đồng với chư Phật, phải nên phát tâm tu
hành dài lâu, tâm kiên cố, tâm dũng mãnh, tâm hổ thẹn. Từ
sáng đến tối, trong mười hai thời, như mài như giũa, như
cạo như chùi, nỗ lực tinh tấn, dụng công tu đạo, chớ
để thời gian trôi qua vô ích.
3/
Ngày mười ba tháng ba [^]
Cổ
nhân nói:
- Luận
việc thành đạo rất dễ, nhưng muốn trừ vọng tưởng lại
rất khó.
Đạo
là lý. Lý là tâm. Tâm, Phật, chúng sanh, tuy là ba, nhưng nào
có sai khác! Người người vốn có đầy đủ; ai ai cũng sẽ
viên thành quả vị Phật. Tâm tánh đó, tại Thánh không tăng,
tại phàm chẳng giảm. Nếu ai hiểu được tâm này thì đại
địa không còn một tấc đất. Mọi pháp thế gian cùng xuất
thế gian, phàm phu thánh hiền, đều vốn không thật, sao lại
có sanh tử? Vì thế, bảo:
- Luận
bàn thành Phật rất dễ.
Tâm
thể này tuy sáng soi vi diệu, nhưng bị bao loại vọng tưởng
che lấp, ánh sáng không cách chi hiển hiện, nên muốn trừ
vọng tưởng thật không dễ dàng.
Vọng
tưởng có hai loại: Thô kệch và vi tế. Lại nữa, tâm có
vọng tưởng hữu lậu và vô lậu. Vọng tưởng hữu lậu
khiến chúng ta cảm thọ quả báo khổ nhọc hay sung sướng
ở cõi trời và người. Vọng tưởng vô lậu khiến chúng
ta có khả năng thành Phật làm Tổ, thoát khỏi sanh tử, xuất
ra ba cõi. Vọng tưởng thô kệch khiến lãnh thọ quả báo
xấu, đọa vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỶ, súc
sanh. Vọng tưởng vi tế khiến tạo bao việc lành thiện như
niệm Phật, tham thiền, tụng kinh, trì chú, lễ bái, hộ trì
giới luật, v.v... Vọng tưởng thô tương ưng cùng nghiệp
xấu, tức khởi mười điều ác. Ý khởi tham lam, sân hận,
si mê. Miệng nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều,
nói lời ác độc. Thân tạo nghiệp giết hại, ăn cắp, tà
dâm. Đây là mười việc ác do thân miệng ý tạo ra. Trong
đó, phân biệt tùy theo cấp bậc nặng nhẹ. Tạo nghiệp thượng
phẩm của mười điều ác thì đọa địa ngục. Trung phẩm
thì đọa ngạ quỶ. Hạ phẩm thì làm súc sanh. Tổng quát,
cho dầu vọng tưởng thô hay vi tế, tất cả đều phát khởi
từ một tâm niệm. Mười pháp giới cũng từ tâm niệm này
phát sanh, nên bảo rằng tất cả đều do tâm tạo.
Cội
gốc bổn địa phong quang của chúng ta, vốn không mang một
sợi tơ trói buộc, và chẳng bị phiền trược trần lao làm
ô nhiễm, chỉ bất đắc dĩ mới gọi là vọng tưởng thô.
Khi chúng diệt thì còn vọng tưởng vi tế. Lúc đó, mạng
căn vẫn chưa đoạn. Hiện tại, muốn trừ vọng tưởng, phải
nương theo một câu thoại đầu hay chú tâm vào một tiếng
niệm Phật, để đập ngói cửa thành quân địch; đem vọng
tưởng vi tế để hàng phục vọng tưởng thô, tức là lấy
độc trị độc. Hàng phục vọng tưởng thô rồi, chỉ còn
lại vọng tưởng vi tế. Lúc ấy mới tương ưng cùng đạo.
Tiếp tục mài giũa, công phu lâu ngày được thuần thục,
thì vọng tưởng vi tế cũng không còn.
Biết
vọng tưởng không tốt, nên phải đoạn trừ chúng. Song, biết
mà lại cố phạm, vẫn khởi bao vọng tưởng, chạy đuổi
lưu chuyển theo tập khí. Gặp nghịch cảnh vẫn khởi vô minh,
làm biếng giải đãi, cầu danh lợi, nghĩ ngợi việc dâm dục
v.v... Tuy biết chúng chẳng tốt lành, mà không thể xả bỏ
được. Vì sao? Do từ đời vô thủy đến nay, huân tập khí
nhiễm ô thâm sâu, nên trở thành thói quen tập quán. Như chó
thích ăn phẩn, tuy cho thức ăn ngon, nhưng khi nghe mùi phẩn,
nó vẫn chạy đến. Đây là tập quán trở thành tánh khí.
Có một câu chuyện, miêu tả cách diệt trừ vọng tưởng
của người xưa.
Thiền
sư Pháp Đường, núi Đại Mai, đến tham vấn Mã Tổ, hỏi:
- Thế
nào là Phật?
Mã
Tổ bảo:
- Tâm
tức là Phật.
Thiền
sư bèn đại ngộ, rồi lên núi Đại Mai, kết am ẩn tu. Mã
Tổ nghe tin, bảo tăng đến đó hỏi nguyên do. Thiền sư đáp:
- Mã
Tổ dạy tôi rằng tâm tức là Phật, nên mới trụ nơi đây
tu hành.
Tăng
bảo:
- Gần
đây Mã Tổ dạy Phật pháp có khác đôi chút.
- Khác
như thế nào?
- Phi
tâm, phi Phật.
- Lão
già làm mê hoặc người chẳng có ngày nào thôi. Mặc tình
lão phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết tâm tức là Phật.
Tăng
trở về thuật lại. Mã Tổ bảo:
- Trái
mai đã chín.
Những
hành động của chư Tổ Sư, đều đánh thẳng vào tâm người,
khiến họ đoạn trừ vọng tưởng. Chúng ta là người xuất
gia, hành cước tham học, chưa đoạn sanh tử, phải sanh tâm
hổ thẹn sâu xa, cùng phát tâm đại dũng mãnh, chớ để tập
khí xoay chuyển.
"Giả
sử có vòng lửa sắt, cháy rực trên đầu, quyết không vì
khổ này mà thối thất tâm Bồ Đề".
Bồ
Đề tức là giác. Giác tức là đạo. Đạo tức là diệu
tâm. Tâm này xưa nay vốn viên mãn tròn đầy, chẳng hề khiếm
khuyết. Nay muốn tìm về tự tánh, phải tự phát tâm, hướng
vào tự tánh mà tầm cầu. Ngược lại, ngay cả Phật Thích
Ca xuất thế, e rằng cũng không giúp được gì!
Trong
mười hai thời, chớ phân biệt động tịnh, đi đứng nằm
ngồi. Nếu sống lại với thể tướng như như của chân tâm
mà không khởi vọng tưởng, thì lo gì chẳng đoạn sanh tử?
Nếu không như thế thì luôn luôn bận bịu, từ sáng đến
tối, từ sanh đến tử, chỉ lãng phí thời gian. Một đời
tu hành khổ cực, mà không được lợi ích gì. Ngày ba mươi
tháng chạp đến, khát nước mới đào giếng, thì ra tay sao
kịp; dẫu có hối hận nhưng đã quá muộn! Đây là những
lời tha thiết của tôi. Hy vọng mọi người hãy tự dụng
tâm lãnh hội.
4/
Ngày mười bốn tháng ba [^]
Kinh
Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển được vật, tức đồng Như
Lai".
Chư
Thánh Hiền luôn chuyển được vật, chứ không bị vật chuyển,
nên tùy tâm tự tại, nơi nơi đều sống với tâm chân như.
Phàm phu chúng ta vì vọng tưởng chướng ngăn, nên bị muôn
vật xoay chuyển. Ví như gió đông thổi đến những đầu
ngọn cỏ thì chúng ngã về hướng tây, hay gió tây thổi đến
thì chúng ngã về hướng đông; nghĩa là tự chúng không có
thể làm chủ được. Có người cả ngày lo lắng bận rộn,
tán tâm phóng dật, ý chẳng trụ nơi đạo; tuy dụng công
phu, mà lúc có lúc không, đứt đoạn không liên tục, lại
thường trụ nơi vui buồn thương ghét, bụng nhét đầy phiền
não thị phi. Mắt thấy sắc tướng, tai nghe âm thanh, mũi ngửi
mùi thơm, lưỡi nếm vị ngon, thân cảm giác xúc chạm, ý
phân biệt các pháp. Sáu căn đối với sáu trần, không có
giác chiếu. Tùy theo màu sắc, xanh đỏ trắng vàng, già trẻ,
nam nữ, mà tâm niệm xoay chuyển cuồng loạn. Lúc hợp ý thì
sanh tâm tham đắm, ái nhiễm mến trước. Khi nghịch ý thì
khởi phiền não, giận hờn, oán trách. Luôn luôn khởi vọng
tưởng. Nơi vọng tưởng vi tế còn có thể dụng công tu đạo,
làm việc lành thiện. Nơi vọng tưởng thô lại khởi bao loại
vọng niệm bất chánh tà vạy; bụng chứa đầy cấu uế,
tệ
hại cả bảy tám phần, không thể diễn tả hết.
Thiền
sư Bạch Vân Đoan bảo:
-
"Nếu
năng chuyển vật tức Như Lai
-
Xuân
ấm áp, hoa núi nở rộ
-
Tự có
đôi tay, cùng tương thủ
-
Chưa
từng dễ dàng, vũ tam đài".
Kinh Kim
Cang nói: "Phải nên hàng phục tâm như thế".
Nhà
Nho cũng có câu:
- Tâm
không ở đây. Gần mà không thấy. Có tiếng mà chẳng nghe.
Ăn mà chẳng biết mùi vị.
Nhà
Nho còn biết việc chẳng để vật chuyển. Phật tử chúng
ta sao lại không nhớ đến nổi khổ sanh tử, như lửa cháy
trên đầu? Nếu xả được thân tâm, tinh tấn cầu đạo,
tự rèn luyện kiểm nghiệm, mài dũa trong động, từ từ dụng
tâm không để vật chuyển, thì công phu mới có phần vững
vàng.
Dụng
công không nhất định phải ở trong yên tĩnh. Nơi động mà
không bị động, mới là công phu chân thật.
Năm
đầu nhà Minh, ở Đàm Châu tỉnh Hồ Nam, có ông Hoàng Thiếc
Tượng, dùng nghề rèn làm sinh sống, nên người đương thời
gọi là Hoàng Đả Thiếc. Lúc ấy, Chu Nguyên Chương đang khởi
binh lật đổ nhà Nguyên, nên rất cần nhiều binh khí. Hoàng
Đả Thiếc phụng mạng triều đình, ngày đêm gấp rút rèn
binh khí không ngừng nghỉ. Ngày nọ, một vị tăng đi ngang
qua nhà, được ông ta cúng dường thức ăn. Ăn xong, vị tăng
bảo:
- Nay
thọ nhận thức ăn bố thí, không có gì đền đáp, nhưng
sẽ tặng thí chủ một câu kệ.
Họ
Hoàng liền thỉnh tăng thuyết pháp. Tăng hỏi:
- Sao
thí chủ không chịu tu hành?
Họ
Hoàng thưa:
- Tu
tuy là việc tốt, nhưng cả ngày bị bận rộn, làm sao hành
được?
- Có
pháp môn niệm Phật, tuy bận rộn, nhưng vẫn tu hành được.
Khi đập một thanh sắt, thí chủ nên niệm Phật một câu.
Thổi một hơi, cũng nên niệm Phật. Cứ niệm 'Nam mô A Di
Đà Phật' trường kỳ như thế, thì lúc lâm chung, chắc chắn
sẽ được vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc.
Hoàng
Đả Thiếc y theo lời dạy của vị tăng đó, vừa đập một
thanh sắt, vừa niệm Phật. Cả ngày vỗ đập thui rèn sắc
thiếc, và cả ngày niệm Phật, không cảm thấy mệt nhọc,
lại còn cảm giác khinh an tự tại. Công phu ngày ngày thâm
sâu, nên từ từ ngộ nhập, không niệm mà vẫn niệm. Khi
sắp lâm chung, biết rõ giờ giấc, rồi từ tạ thân bằng
quyến thuộc, tự bảo sẽ vãng sanh qua cõi Tây Phương. Thời
điểm đến, sắp đặt giao phó công việc trong nhà, rồi tắm
rửa, thay đổi y phục. Xong xuôi, ông tới ngồi bên lò rèn,
đập vài thanh sắt, rồi thuyết bài kệ:
-
"Đả
đả đương đương!
-
Luyện
lâu thành thép
-
Thái
bình kề cận
-
Tôi vãng
Tây Phương".
Thuyết
xong, ông liền qua đời. Đương thời, mùi hương lạ bay khắp
nhà, nhạc trời vang trong không trung, xa gần đều nghe thấy,
khiến ai ai cũng được cảm hóa.
Hôm
nay, chúng ta bận rộn ngày đêm, không giờ giấc nghỉ ngơi.
Nếu hành trì như ông Hoàng Đả Thiếc, trong động mà vẫn
nỗ lực tu hành, thì lo gì không cắt đứt sanh tử!
Xưa
kia, lúc ở núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam, tôi có một đệ tử
xuất gia, tên là Cụ Hành. Nay kể chuyện của Thầy đó cho
quý vị nghe.
Thầy
Cụ Hành, lúc chưa xuất gia, thường hút thuốc uống rượu,
tham đắm sắc đẹp. Gia đình tám người, thường đến chùa
Chúc Thánh làm công quả. Sau này, cả nhà đều xuất gia. Xuất
gia xong, Thầy bỏ hết mọi tập khí xấu. Tuy không biết một
chữ, Thầy vẫn cố gắng dụng công. Những bài kinh kệ, công
phu sáng chiều, như phẩm Phổ Môn v.v... trong vòng vài năm,
Thầy đều học thuộc lòng. Cả ngày, Thầy trồng rau quả
không nghỉ ngơi. Tối đến, lễ Phật tụng kinh, không tham
ngủ nghỉ. Trong tăng chúng, được người mến thích hay bị
ghen ghét, Thầy cũng chẳng màng đến. Thầy thường giúp tăng
chúng may vá y áo. Lúc xỏ một mũi kim, Thầy niệm một câu
'Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát'. Sau này, Thầy đi lễ bái bốn
núi danh tiếng (núi Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ Đà, Cửu Hoa) trong
tám năm, rồi trở lại Vân Nam. Khi ấy, tôi đang đảm nhiệm
trọng trách trùng tu chùa Vân Môn. Trở về, Thầy cũng tu khổ
hạnh. Những việc nặng nề khó nhọc, lớn nhỏ trong chùa,
Thầy đều đảm đang gánh vác. Đại chúng đều mến thích
Thầy. Lúc sắp lâm chung, Thầy mang tất cả y phục, đồ vật
đi bán, rồi dùng số tiền đó, mua thức ăn cúng dường tăng
chúng. Sau đó, cáo từ đại chúng, sắp đặt mọi việc gọn
gàng. Vào tháng tư, Thầy mang dầu, rơm rạ ra sau sân chùa
Thắng Nhân, tức hạ viện chùa Vân Thê, để tự thiêu mà
hóa. Khi có người phát giác, thì Thầy đã vãng sanh. Song,
y ca sa trên thân, tuy đã thành tro, nhưng vẫn giống như bình
thường, mà không rơi xuống. Thân Thầy ngồi trong đống lửa,
tay vẫn cầm cây khánh và cái mõ. Người đến xem, ai nấy
đều cảm động rơi lệ. Ngày ngày Thầy bận rộn, nhưng
chẳng quên tu hành, nên tự do tự tại, qua lại trong sanh tử.
Trong động và tĩnh đều dụng công tu hành, nên công phu mới
dễ dàng đắc lực.
5/
Ngày hai mươi mốt tháng ba [^]
Người
xưa tu hành có đạo đức cao thượng tôn quý, khiến thiên
long quỶ thần cảm động, tự nhiên đến ủng hộ. Vì thế,
đạo đức là tôn quý nhất ở thế gian, nên có câu: "Đạo
cao long hổ phục. Đức trọng quỶ thần khâm".