Sau
khi Phật diệt độ, pháp trụ thế gian có ba giai đoạn: Chánh
pháp một ngàn năm. Tượng pháp một ngàn năm. Mạt pháp mười
ngàn năm. Luận Thiện Kiến nói: "Vì cho người nữ xuất gia,
chánh pháp chỉ còn năm trăm năm. Do Thế Tôn chế tỳ kheo
ny hành tám pháp cung kính, nên chánh pháp lại trụ được
ngàn năm".
Hỏi:
Ngàn năm đã qua. Vậy chánh pháp đã bị diệt hết chưa?
Đáp:
Chưa diệt hết. Trong một ngàn năm, tu đắc được quả Tam
Đạt Trí. Ngàn năm sau, đắc được quả A La Hán, tức Vô
Tam Đạt Trí, tận trừ ái dục. Ngàn năm kế, đắc được
A Na Hàm. Ngàn năm nữa, đắc được Tư Đà Hàm. Ngàn năm
cuối, đắc được Tu Đà Hoàn. Năm ngàn năm đầu, đắc được
đạo. Năm ngàn năm sau, tuy học mà không thể đắc được
đạo. Sau mười ngàn năm, tất cả kinh thư văn tự đều bị
diệt hết, nhưng vẫn còn người cạo tóc đắp y ca sa.
Ngài
Quy Sơn nói:
- Hận
cho mình sanh nhằm thời tượng pháp, cách thánh giáo quá xa.
Ngài
Quy Sơn sanh vào đời Đường, cách Phật hơn một ngàn năm,
tức thuộc thời tượng pháp. Tất cả sự việc đều biến
chuyển. Nước để lâu ngày khiến có trùng. Pháp giữ lâu
ngày khiến sanh tệ hại.
Kinh
Phó Pháp Tạng ghi: "Những chúng sanh có duyên lành, tỳ kheo
A Nan đều giáo hóa cho họ được giải thoát. Cuối cùng,
Ngài đến giữa rừng trúc, nghe tiếng một tỳ kheo tụng kinh
Pháp Cú đến đoạn "Người sống trăm năm, nếu không thấy
hạc thủy lạo, thì không bằng sống một ngày, mà đắc được
đạo".
Ngài
A Nan nghe thế, bèn than thở thảm thương, và đến bảo tỳ
kheo kia:
- Mắt
sáng thế gian, sao diệt quá sớm! Các việc ác và phiền não,
sao mau khởi vậy? Từ đây, bội phản thánh giáo, tự sanh
vọng tưởng. Đây chẳng phải là lời Phật dạy, nên chớ
hành theo... Ông hãy lắng nghe cho kỸ, Ta sẽ đọc lại bài
kệ của Phật dạy: "Người sống trăm tuổi, nếu không hiểu
pháp sanh diệt, chẳng bằng sống một ngày, mà đắc được
đạo".
Sau
này, tỳ kheo kia thuật lại lời của ngài A Nan cho thầy của
ông ta nghe. Thầy ông liền bảo:
- Lão
già A Nan trí huệ cạn cợt, nhiều lời sai lầm, không thể
tin được. Cứ tụng theo câu kệ vừa rồi của Ta.
Khi
trở lại nơi đó, ngài A Nan vẫn nghe tỳ kheo kia tụng câu
kệ lúc trước... Do không thấy ai có thể lãnh hội ý mình,
Ngài liền nhập tam muội, bảo:
- Lạ
thay! Vô thường quá gấp, kiếp hoại nổi hừng hực. Vô lượng
chúng sanh nơi thế gian thường lang thang, trú trong đêm dài
tăm tối, đi trong đường hãi hùng; tà kiến hừng thịnh,
pháp bất thiện tăng trưởng; phỉ báng Như Lai, đoạn tuyệt
thánh giáo; mãi nhập bùn lầy sông lớn sanh tử, khai mở cửa
ác thú, đóng bít đường trời người; nơi vô lượng kiếp,
thọ muôn ngàn khổ não. Hôm nay, Ta muốn nhập Niết Bàn !
Kinh
Lăng Nghiêm thuyết: "Trong thời đại mạt pháp, tà sư thuyết
pháp nhiều như số cát sông Hằng. A Nan ông nên biết, đây
là mười loại ma. Nơi đời mạt thế, chúng xuất gia tu đạo,
nhập vào giáo pháp Ta. Hoặc tự phụ khiến người lễ bái,
hoặc tự hiện hình quái lạ, hoặc tự bảo rằng đã chứng
chánh biến tri, rồi tán thán dâm dục, phá hoại luật nghi.
Đầu tiên, các ác ma sư cùng ma đệ tử, dâm dâm tương truyền.
Tà tinh như thế, mê mị lòng người, gần chín lần sanh, hơn
trăm thế hệ, khiến người tu hành chân thật, bị mê hoặc,
làm quyến thuộc của chúng. Sau khi mạng chung, tất làm dân
ma, mất chánh biến tri, đọa địa ngục vô gián".
Trong
kinh nói đến chín lần sanh, và một trăm đời. Một lần
sanh là một trăm năm. Mỗi thế hệ là ba mươi năm. Hiện
nay, Phật lịch là 2982, cũng là lúc ma vương trăm đời xuất
hiện.
Phật
diệt độ chẳng lâu, tỳ kheo kia tụng lầm kệ Hạc Thủy
Lạo, mà cho đó là kinh Pháp Cú. Ngày nay, người học Phật
lại lầm lạc càng nhiều. Hạc thủy lạo tức con hạc trắng.
Người xem thấy chúng, có biết ý nghĩa gì! Hiểu rõ pháp
sanh diệt, khiến rời xa biển khổ. Sống một trăm năm mà
chẳng liễu giải, không bằng sống chỉ một ngày mà được
liễu giải. Thế nên, người có trí huệ, không luận bàn
tuổi tác cao thấp. Người không trí huệ, sống lâu trăm năm
cũng vô ích.
Tà
sư đời mạt thế, mỗi mỗi tự bảo mình là thiện tri thức.
Người đang tham thiền, nếu không nhận ra vàng hay đá, liền
bị sóng tà nhận chìm. Thấy cảnh mênh mông, liền tàn hoại
rừng công đức. Lửa tâm cháy phừng phực, đốt rụi hạt
giống Bồ Đề. Người cầu đạo chân thật trong đời mạt
thế rất hiếm có. Ngài Quy Sơn nói:
- Đi
xa phải chọn bạn hiền. Mắt tai phải thường thanh tịnh.
Lúc dừng phải chọn lựa bạn lành, thời thời tuy nghe nhưng
vẫn như không nghe... Sanh ta ra là cha mẹ. Ta thành công là
nhờ bạn hữu. Gần gũi bạn lành, như đi trong sương, tuy
không ướt y nhưng dần dần sẽ thấm.
Khổng
Tử cũng nói:
- Ba
người đồng hành, chắc sẽ có người làm thầy Ta. Bạn
lành nên theo. Bạn xấu nên lánh xa.
Bạn
tốt thì theo họ học. Kẻ có nhiều tật xấu, thường không
đoái hoài lo gì đến ai; nếu gần gũi họ, lâu ngày sẽ bị
thúi lây. Gần màu đỏ thì lấm màu đỏ. Gần màu đen thì
lấm màu đen. Gần hương thơm thì nhiễm hương thơm. Gần
mùi thúi thì nhiễm mùi thúi. Lời thô tế ngữ của bạn lành,
nếu quy về đệ nhất nghĩa, thì phải nên thân cận. Người
tu hành trong đời mạt pháp, như bản lãnh của chúng ta đây,
không thể sánh bằng thiên ma ngoại đạo.
Kinh
Lăng Nghiêm thuyết: "Sắc ấm diệt tận rồi, thì từ trong
thân người kia, xuất hiện côn trùng, thân thể nhỏ nhít,
nhưng không tổn hại đến thân. Lúc đó, đột nhiên mười
phương hư không biến ra màu sắc bảy báu, hoặc màu sắc
trăm báu, và đồng thời hiện ra khắp nơi, mà không ngăn
ngại nhau. Đột nhiên vào giữa đêm, ngay trong am thất u ám,
thấy muôn loại vật. Thọ ấm diệt hết rồi, thì quán đến
cảnh giới của mười loại thiền na, gọi là năm mươi loại
ấm ma. Mê mà không nhận thức, tự xưng là chứng quả thánh,
tức tạo tội đại vọng ngữ, sẽ bị đọa địa ngục vô
gián".
Lão
Tử nói:
- Trong
đó có tinh.
Khổng
Tử cũng nói:
- Không
không như thế.
Tức
là họ đã thấy rõ thức ấm. Đối với chư A La Hán, năm
ấm đã trừ tận, nên vượt ra khỏi ba cõi. Đối với chúng
ta, sắc ấm chưa tận, nên rất cách xa đạo.
Tôi
rất xấu hổ vì nhiều năm ngu si hơn quý vị, và chỉ có
hư danh. Quý vị cho rằng tôi có rất nhiều sở trường, nên
xem tôi như bậc tổ sư. Thật rất khổ sở! Tôi chẳng giống
như yêu ma quỶ quái trong kinh Lăng Nghiêm hay chư đại Tổ
Sư.
Mỗi
lần giảng dạy tham thiền học đạo, tôi thường nhắc nhở
quý vị là phải tham tầm bậc minh nhãn thiện tri thức, lại
cũng phải có đôi tai thính, để khi nghe pháp, phân biệt được
chánh tà. Kế đến, dùng cái thấy cái nghe mà bỏ vào bao
tử, để lúc tu đạo không đi lạc đường, và không hành
như những kẻ đang sống trong thị phi được mất, hầu mong
không phản bội bổn hoài của các vị thiện tri thức.
Hiện
tại vốn là đời mạt pháp. Làm sao tìm cầu thiện tri thức?
Chỉ cần học thuộc lòng kinh Lăng Nghiêm, thì tu hành mới
có phần tương ưng, tiêu diệt tà duyên, khiến thân tâm nhập
Phật tri kiến. Từ sự thành tựu này, khiến không đi lạc
đường. Toàn bộ kinh, từ đầu đến cuối đều thuyết quan
trọng nhất tại một chữ "Dâm". Kinh nói: "Nơi các thế giới,
nếu chúng sanh trong sáu đường, tâm chẳng khởi dâm dục,
thì sẽ không bị sanh tử tương tục lôi cuốn. Ông tu tam
muội, đó là cội gốc xuất khỏi trần lao. Tâm dâm dục
nếu chưa trừ diệt, thì không thể thoát khỏi trần lao. Nếu
kẻ nhiều trí huệ, lại có thiền định hiện tiền, mà không
đoạn tâm dâm dục, tất sẽ đọa lạc ma đạo".
Xem
kinh Lăng Nghiêm, nếu không quay về tông thiền, thì chỉ như
cỡi ngựa ngắm hoa, thật không lợi ích. Phải nên đọc tụng
thuộc làu, rồi có thể dùng lời văn sau để giải lời văn
trước, và dùng lời văn trước mà quán thông lời văn sau.
Lời văn trước và sau, tương hỗ ứng chiếu, thì nghĩa lý
của toàn bộ kinh, sẽ hiện rõ ràng trước mắt. Y theo lời
kinh mà quán tưởng, thì sẽ đắc được thọ dụng.
Các
vị tu hành xưa nay ngộ đạo do từ kinh này rất nhiều. Thiền
sư Tiên Nham An ở Ôn Châu nhân xem qua đoạn "trong tri kiến
mà còn lập thêm tri kiến, tức là gốc của vô minh. Trong
cái tri kiến mà không có tri kiến, tức đây là niết bàn"
tức nghĩa là tri kiến vừa lập, bèn là gốc vô minh. Nếu
không lập tri kiến thì cảnh giới đó là Niết Bàn. Ngay nơi
đó, Tiên Nham An liền ngộ đạo. Người sau bảo thiền sư:
- Ngài
đã phá câu kệ tụng rồi.
Ngài
đáp:
- Đây
chính là chỗ ngộ đạo của tôi!
Người
đời gọi Ngài là "An Lăng Nghiêm".
Hy
vọng quý vị đồng tham học, vô luận là già hay trẻ, phải
thường đọc tụng kinh Lăng Nghiêm. Bộ kinh này là vị thiện
tri thức tùy thân của quý vị. Đọc tụng thuộc lòng bộ
kinh này, tức là quý vị thường được nghe đức Thế Tôn
thuyết pháp, và làm bạn đồng học với ngài A Nan.
34/ Mồng
ba tháng sáu [^]
Người
xưa bảo:
- Chớ
đợi đến già mới học đạo. Mộ phần đầy cả thiếu
niên!
Lúc
đến tuổi già, bị trăm thứ bịnh khổ. Tai không nghe được.
Mắt không thấy rõ. Bốn cơ chi không còn sức lực. Ăn không
được, ngủ không yên, đi không nổi. Những nỗi khổ này,
người trẻ chưa nếm qua. Lúc trẻ, tôi cũng giống như quý
vị, thấy các người già đến, đều không thích. Nói chuyện,
họ không nghe rõ. Nước mắt nước mũi chảy lê thê, nhìn
trông gớm ghê, nên rất sợ sống chung với họ. Hiện tại,
tôi đã già nên biết cái khổ của người già. Đối với
người già, ngày này luôn khác với ngày nọ.
Từ
khi có biến cố tại Vân Môn, thân tôi ngày ngày đều thay
đổi; cứ mãi nằm trên giường bịnh, bị bao khổ não bức
bách. Sáng tối nghĩ suy, đường lộ hoang mang, đạo nghiệp
chưa thành, sanh tử chưa đoạn; mở miệng chẳng ra lời, chắc
phải bị đầu thai. "Muôn thuyền đẩy không nổi, chỉ theo
nghiệp mà thọ sanh".
Lúc
còn trẻ không thì chịu tu, để hôm nay đợi đến già mới
ra nông nỗi này. Hôm nay, chúng ta có dung mạo tăng tướng
đàng hoàng, đều do kiếp xưa đã trồng căn lành, nên mới
được báo thân đoan trang, chớ nên làm hư hạt giống lành.
Động
Sơn hỏi tăng:
- Việc
khổ nhất trên thế gian là gì?
Tăng
đáp:
- Địa
ngục khổ nhất.
- Chẳng
phải! Nơi y phục kim tuyến này, chưa biết được nguồn mối
việc lớn, mới là khổ nhất!
Nếu
sáng việc lớn, tức không còn nhân địa ngục. Địa ngục
chưa hẳn là khổ, vì chưa hiểu rõ tự tâm mới là khổ nhất.
Muốn hiểu được việc lớn, phải thường nỗ lực tinh tấn,
chớ sao lãng khinh xuất, lo lắng bận bịu mãi, khiến phí
mất thời giờ. Ban ngày, ứng duyên gặp cảnh, phải luôn
làm chủ. Ban ngày làm chủ được thì trong mộng cũng tự
chủ được. Trong mộng tự chủ được thì lúc bịnh hoạn,
cho đến lúc sắp mất cũng tự làm chủ được. Làm chủ
được vì bình thường tự chủ được chính mình. Tự chủ
chính mình tức là dễ dàng ngộ đạo, cắt đứt sanh tử.
Chưa ngộ đạo thì sanh tử khó cắt đứt. Ngộ đạo không
khó, chỉ quan trọng là luôn khởi tâm thống thiết vì sanh
tử, luôn hướng về đạo, và đầy đủ tâm dài lâu, cùng
tâm kiên cố, cho đến chết cũng chẳng thối chuyển. Tuy chưa
ngộ đạo, nhưng đời nay không thối chuyển, và đời sau
sẽ lại nỗ lực tinh tấn, thì có lý do gì không ngộ đạo?
Trong
kinh Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị thánh chứng được viên
thông. Mỗi vị thánh, trải qua bao kiếp dài lâu trường kỳ
tu tập, nên mới thành tựu. Chúng ta vì không có tâm thống
thiết về sự sanh tử, nên không phát tâm dài lâu. Lúc bịnh
thì mới nghĩ đến sự sanh tử. Lúc lành bịnh thì đạo tâm
lui sụt. Thế nên, kinh Lăng Nghiêm nói: "Phàm phu tu hành như
bị bịnh sốt rét cách ngày".
Khi
bịnh thì nhớ đến đạo. Lành bịnh thì quên mất đạo.
Khởi vô minh như bị bịnh sốt rét. Vì vậy, phải nên nỗ
lực tinh tấn, sanh tâm sám hối, khởi tâm kiên cố, chớ nên
chỉ tu hành trong vài ngày rồi nghỉ ngơi. Tu hành phải thâm
nhập vào một pháp môn, tức dùng pháp môn đó làm chính,
còn các pháp môn khác làm phụ. Mỗi người tu mỗi pháp môn.
Chớ cùng nhau phỉ báng khinh chê, xem thường Phật pháp. Muốn
hưng thịnh Phật pháp, phải thường khuyên nhủ tán thán giúp
đỡ lẫn nhau. Hỗ tương phỉ báng tức là điềm Phật pháp
sắp bị hoại diệt.
Phật
tử nếu chuyên tâm hướng về đạo, nhớ nỗi thống khổ
của sanh tử, thì ăn không cần no, mặc không cần ấm, ngủ
không cần đủ.
Xưa
kia thừa tướng Bùi Hưu cho con đi xuất gia. Người con vốn
là hàn lâm học sĩ. Ông ta lạy tổ Quy Sơn làm thầy, và được
pháp danh là Pháp Hải. Lời giáo huấn của ngài Quy Sơn trong
quyển Cảnh Sách Châm, viết: "Y phục và thức ăn không dễ
dàng mà có. Sao lại cầu y phục nhu nhuyến và đồ ăn béo
bổ? Chỉ ăn rau xanh cơm trắng bình thường. Tùy thời khắc,
mặc vải bố thô tầm thường. Người khác ngủ rồi mình
mới đi ngủ. Tối canh ba đến đầu canh năm, luôn hướng
tâm đến điện Phật Thích Ca".
Ngài
Quy Sơn bảo Pháp Hải mỗi ngày phải gánh nước phục vụ
đại chúng. Ngày nọ, vì gánh nước quá mệt, Pháp Hải tự
nhủ thầm:
- Các
ông hòa thượng xin nước của hàn lâm học sĩ gánh. Những
giọt nước này, uống khó mà tiêu.
Pháp
Hải trở về chùa. Ngài Quy Sơn biết tâm niệm của đệ tử
mình, nên hỏi:
- Hôm
nay con nói những lời gì?
Pháp
Hải thưa:
- Con
đâu có nói gì!
Lần
khác, Ngài bảo Pháp Hải:
- Lão
tăng ngồi một lần, có thể tiêu muôn ngàn ký gạo.
Vì
vậy, đối với hàng xuất gia, không màng quý vị sanh nhà
phú quý giàu sang, một khi đã bước vào cửa nhà Phật thì
phải xả bỏ tất cả; luôn chuyên tâm hướng đạo, thì mới
thật là con cháu có bổn sắc thiền tông.