x
|
cx
TRIỆU
LUẬN LƯỢC GIẢI
Tác Giả:
Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
BÀI
LUẬN THỨ TƯ
NIẾT
BÀN VÔ DANH
GIẢI ĐỀ :
NIẾT BÀN VÔ DANH LUẬN là Luận
về Niết Bàn. Hai chữ Niết Bàn là tiếng Phạn, dịch là
viên tịch. Ngũ trụ (1) sạch hết gọi là viên, nhị tử (2)
vĩnh vong gọi là Tịch, cũng là biệt danh của nhất tâm tịch
diệt, chân thể của thanh tịnh pháp thân, chẳng phải như
người thế gian hiểu lầm cho là chết. Vì tam thế chư Phật
tu nhơn trải qua nhiều kiếp, chứng đắc cái chân thể của
nhất tâm nầy, gọi là Pháp thân; vì đáp lại cái nhơn quảng
đại, gọi là Báo thân; tùy cơ lợi ích chúng sanh, gọi là
Hóa thân.
Tất cả chư Phật đều đầy
đủ tam thân: Pháp thân là thể, Báo thân, Hóa thân là dụng,
có cảm ứng thì hiện, không cảm ứng thì ẩn; ẩn mà chẳng
hiện thì viên qui nhất tâm, nhiếp dụng trở về chơn thể
gọi là nhập diệt, tức là Niết Bàn chẳng phải là sanh
tử.
Vì nhất tâm nầy ngũ trụ
phiền não chẳng che lấp được nên gọi là viên; hai thứ
sanh tử chẳng thể bó buộc nên gọi là "tịch".
Giáo môn tả về chỗ xuất
phát, nói có bốn thứ:
l. Tự Tánh Niết Bàn: Tức
là nhất tâm này cùng khắp mọi nơi, là bản thể của các
pháp, tự tánh vốn tịch diệt. Cũng như nói : có Phật hay
không có Phật, tánh tướng thường trụ, tất cả chúng sanh
vốn diệt độ, chẳng cần diệt nữa, nên gọi là "Tự Tánh
Niết Bàn".
2. Hữu Dư Niết Bàn: Nói sự
chứng của tam thừa, vô minh chưa sạnh hết, biến dịch sanh
tử chưa dứt, sự chứng lý chưa được cùng tột, nghĩa là
còn dư một khoảng đường chưa giẫm đến, nên gọi là "Hữu
Dư Niết Bàn".
3. Vô Dư Niết Bàn: Tức là
Phật đã tu thành, vọng đã hết, chân đã sạch, thể dụng
bất nhị, cũng là chứng được quả Vô Thượng Đại Niết
Bàn, nên gọi là "Vô Dư Niết Bàn".
4. Vô Trụ Niết Bàn : Tất
cả bậc thánh chẳng lấy hữu vi, chẳng trụ vô vi, nhị biên
đều bất trụ, trung đạo cũng chẳng lập, động tịnh bất
nhị, tổng danh là Niết Bàn, nên gọi là "Vô Trụ Niết Bàn".
Bốn thứ tên gọi này chỉ
theo thể và dụng đặt tên, kỳ thật trong nhất tâm danh tướng
đều tịch, nên gọi là "Vô Danh", tức là sanh tử và Niết
Bàn cả hai đều bất khả đắc, cho nên hai chữ "Vô Danh"
là cái tổng danh của nhất tâm thường trụ, bất sanh bất
diệt.
Hai bài Luận "Vật Bất Thiên"
và "Bất Chân Không" ở trước là cảnh sở quán, "Bát Nhã"
là trí năng quán, ba luận ấy đều là nhân, nay "Niết Bàn"
nầy là quả sở chứng, nên lấy làm luận.
GHI CHÚ :
(1) Ngũ trụ :
l. Kiến nhất thiết trụ địa
phiền não: tức là tất cả kiến giải mê lầm của tam giới.
2. Dục ái trụ địa phiền
não: tức là tư tưởng mê lầm của dục giới; trong tư tưởng
mê lầm, nặng nhất là cái lỗi tham ái, nên đề ra cái chánh
để bao gồm tất cả phiền não khác.
3. Sắc ái trụ địa phiền
não: tức là tất cả tư tưởng mê lầm của sắc giới.
4. Hữu ái trụ địa phiền
não : là tất cả tư tưởng mê lầm của vô sắc giới; vô
sắc giới dù chẳng có sắc thân, nhưng còn chấp A Lại Da
thức làm ngã, còn ngã là còn có ái, nên gọi là hữu ái.
5. Vô minh trụ địa phiền
não : tức là nguồn gốc của tất cả phiền não.
Năm thứ phiền não kể trên
gọi tắt là ngũ trụ. Nói trụ địa vì năm pháp này là chỗ
vô sanh khởi tất cả tội lỗi cũng là chỗ dựa căn bản
của hằng hà sa số phiền não.
(2) Nhị tử :
l. Phần đoạn sanh tử : là
sanh tử của phàm phu từ đoạn này sang đoạn kia, như từ
thân người sang thân thú.
2. Biến dịch sanh tử : cũng
là sanh tử của bậc thánh đã chứng quả tam thừa, như bỏ
A La Hán biến Bích Chi Phật, bỏ Bích Chi Phật biến Bồ Tát
sơ địa, bỏ Bồ Tát sơ địa biến Bồ Tát nhị địa v.v...
BIỂU VĂN TRÌNH VUA TẦN
(Lược bỏ những phần tán
thán vua Tần, chỉ dịch phần nhân duyên làm Luận này).
Trước kia, vua Tần có nói
: "Đạo Phật lấy Vô vi làm Tông". An Thành Hầu Diêu Tung hỏi
rằng : "Chẳng rõ sự vô vi của đạo lấy gì làm thể"?
Lời đáp của Vua Tần chỉ
rõ : Niết Bàn là tông thể của vô vi, mà tổng kết lại
thành hai chữ "Vô Danh". Ấy là nhân duyên của tác giả làm
luận này.
Theo lời biểu văn của Ngài
Tăng Triệu trình cho vua có đoạn như sau :
Tại sao nói là Vô Danh?
Vì chúng sanh từ lâu nay ở
trong sanh tử luân hồi đều do sự chấp trước ái dục, nếu
ái dục ngưng nghỉ nơi tâm thì chẳng còn sanh tử luân hồi.
Đã không có sanh tử thì chân tâm nhiệm mầu vắng lặng,
cái đức dụng âm thầm hợp với hư không, nên gọi là "Niết
Bàn". Đã nói là Niết Bàn thì đâu còn dung nạp cái tên vào
trong ấy nữa!
Nay cái bản ý lập luận này
là muốn làm sáng tỏ chân thể tịch diệt của Niết Bàn
vô danh để bài xích những tà kiến ngoại đạo. Vì lúc đương
thời có một hạng người học Phật, cho vô vi là chẳng có
bậc thánh, lọt vào đoạn kiến, xóa bỏ nhân quả; chê cười
những người tu hành, cho là chấp tướng, đem tà kiến này
tuyên truyền khắp nơi; lấy làm tự đắc, nên chẳng thể
sửa đổi cho đúng với chánh pháp được.
Nay nhờ bức thơ của vua Tần
đáp Diêu Tung rằng : "Nếu chẳng có bậc thánh thì ai biết
sự chẳng có?"
Chỉ một lời nầy làm cho
bọn tà thuyết im lặng, nên lập Luận này diễn tả thêm
để giúp cho giáo pháp được sáng tỏ.
Luận này gồm chín đoạn vấn
nạn, mười đoạn diễn tả, mượn "hữu danh" thay cho vấn
nạn, mượn "Vô Danh" thay cho giải đáp, để hiển bày chánh
lý của "Vô Danh".
l. KHAI TÔNG RÕ NGHĨA
Vô Danh nói :
Như Kinh nói : "Hữu Dư Niết
Bàn và Vô Dư Niết Bàn dịch là Vô vi, cũng gọi là Diệt
Độ". Vô vi là lấy sự trống rỗng tịch diệt, lìa danh lìa
tướng, cách tuyệt với hữu vi. Diệt độ là nói sự tai
họa lớn của sanh tử vĩnh viễn tiêu diệt, siêu độ lục
đạo luân hồi.
Ấy là chỗ thức tỉnh của
mở mắt chiêm bao, cũng là tuyệt danh của căn nhà nhiệm mầu.
Nói hai tên "hữu dư" và "vô dư", ấy chỉ là tên khác biệt
của xuất xứ, giả danh của ứng cơ hóa độ mà thôi. Tùy
duyên hiện thân thuyết pháp gọi là xuất, duyên hết trở
về ẩn gọi là xứ. Nay tôi thử Luận bàn rằng :
Cái đạo của Niết Bàn tịch
diệt trống rỗng chẳng thể theo danh tướng mà tìm, vi diệu
vô tướng chẳng thể dùng hữu tâm mà tri ; cao siêu tam giới,
mê hoặc đều dứt, chứng lượng như hư không, chánh lý cùng
tột; muốn đuổi theo thì chẳng thể tìm ra tông tích (vị
lai vô chung), muốn trở lại tìm chỗ xuất phát thì chẳng
thấy bắt đầu (quá khứ vô thủy); lục đạo chẳng thể
làm cho sanh khởi, sức mạnh chẳng thể làm cho biến đổi.
Thể tánh mênh mông chẳng có bờ bến, bậc trí chẳng thể
định danh. Như trụ thì sanh mà chẳng sanh, như đi thì diệt
mà chẳng diệt. Ngũ nhãn chẳng thấy được dung mạo, vì
lìa sắc; nhị thính (nhục nhĩ, thiên nhĩ) chẳng nghe được
âm thanh, vì lìa thanh. Mịt mù thâm sâu, ai thấy ai hiểu? Trùm
khắp bao gồm, không có chỗ nào chẳng tồn tại, mà lại
siêu việt nơi có và không.
Thế thì hễ nói được là
mất cái chân, biết được thì trở thành kẻ ngu; được
"có" là trái với tự tánh, được "không" là tổn thương
pháp thân.
Cho nên khi Phật Thích Ca mới
thành đạo, tự nhốt mình trong phòng mà chẳng thuyết pháp;
Văn Thù hỏi về pháp môn bất nhị thì Duy Ma Cật ngậm miệng;
Tu Bồ Đề tĩnh tọa trong hang, Đế Thích tán hoa cúng dường
cho là khéo thuyết Bát Nhã; khen ngợi chẳng nói mà nói, chẳng
nghe mà nghe, ấy đều do chánh lý là cái đạo tuyệt ngôn,
chỉ có người chứng mới được lãnh hội, nên miệng do
đó mà nín, đâu phải chẳng có biện tài. Vì biện tài chẳng
thể nói được.
Kinh nói : "Sự chân giải thoát
lìa ngôn ngữ, tướng số, tịch diệt vĩnh an, vô thỉ vô
chung, chẳng tối chẳng sáng, không lạnh không nực, trạm
nhiên thường tịch như hư không, vô danh vô thuyết".
Trung Quán Luận nói : "Niết
Bàn phi hữu lại cũng phi vô, con đường của ngôn ngữ chấm
dứt, chỗ suy lường của tâm ý, tiêu diệt". Theo những lời
của kinh luận trên, đâu phải chẳng đúng sự thật.
Như thế, quả thật có cái
sở dĩ chẳng có, nên chẳng thể cho là có; có cái sở dĩ
chẳng không, nên chẳng thể cho là không vậy.
Tại sao? Hễ truy cứu cảnh
"có" thì ngũ ấm vĩnh viễn tiêu diệt (diệt thì lìa khổ,
gọi là lạc đức); truy cứu cảnh "không" thì sự nhiệm mầu
linh tri thường tồn (gọi là ngã đức) ; nhiệm mầu linh tri
thường tồn nên dầu bặt thấy nghe mà nhất chân trạm nhiên
thường tịch (ấy là thường đức); ngũ ấm vĩnh viễn tiêu
diệt thì vô biên phiền não đều sạch (tịnh đức); vô biên
phiền não đều sạch nên thông đạt với đạo; nhất chân
trạm nhiên thường tịch nên diệu dụng mà chẳng thấy công
dụng. Diệu dụng mà chẳng thấy công dụng nên chí công thường
tồn; thông đạt với đạo nên thâm sâu mà chẳng biến đổi.
Thâm sâu mà chẳng biến đổi nên chẳng thể cho là có; chí
công thường tồn nên chẳng thể cho là không.
Thế thì "có, không" tuyệt
bên trong, tên gọi bặt bên ngoài, sự thấy nghe chẳng thể
đến, người cõi Tứ không (vô sắc giới) mê muội chẳng
hiểu biết. Bình đẳng nhất như mà vô trụ, trống rỗng
chiếu soi mà khắp nơi, là quê hương của tất cả chúng sanh,
cũng là nguồn gốc cứu cánh của chư Phật.
Ấy là cái cảnh chẳng thể
thấy nghe, xứ sở của thái huyền (nhiệm mầu lại thêm nhiệm
mầu), mà muốn lấy sự "có" và "không" để gán tên chỉ
bày phạm vi của Niết Bàn, dùng lời nói để tả cái đạo
thần diệu mà tự cho là đắc chí, há chẳng phải lại càng
xa xôi ư?
2. TẦM THỂ LẬP DANH
Hữu Danh vấn :
Danh hiệu chẳng phải khi không
mà đặt ra, tên gọi chẳng phải tự mình đương nhiên mà
sanh khởi. Trong Kinh nói : "Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết
Bàn là cái chân danh trở về tự tánh, cũng là tên gọi của
đạo pháp thần diệu". Nay tôi xin trình bày thử :
Hai chữ "Hữu dư" có nghĩa
nói là ứng thân của Như Lai mới hiện ra, pháp thân bắt
đầu kiến lập, là tắm rửa trong dòng nước "Bát giải thoát",
nghỉ ngơi trong vườn an nhàn của "Thất giác chi", tích chứa
muôn thiện từ nhiều kiếp, rửa sạch cáu bẩn từ vô thỉ.
Tam minh chứng ngộ bên trong, diệu dụng chiếu soi bên ngoài.
Phát thệ nguyện nơi sơ tâm, độ chúng sanh cho đến cuối
cùng, trên cầu quả Phật, dưới cứu độ chúng sanh, siêu
việt tam giới, độc chứng đại giác.
Mở đường bằng phẳng của
Bát Chánh Đạo, quét sạch tà kiến của các phái tà tông.
Cỡi thần mã của lục thông, đi xe yên ổn của ngũ thừa.
Ra vào trong sanh tử để tùy cơ hóa độ chúng sanh, đạo pháp
sung mãn, đức dụng kháp nơi, cùng tột đến chỗ tạo hóa
mới sanh khởi, cực diệu dụng của thánh trí.
Tâm cảnh trống rỗng khắp
vũ trụ, soi sáng pháp giới bởi nhất thiết trí. Nhân duyên
hóa độ ngưng nơi cửu địa, chìm nơi thái hư mà còn nhân
duyên chưa hết; sự tích giáo hóa chưa được viên tròn, vô
minh chưa tẩy sạch, thánh trí vẫn còn, đấy là Hữu Dư Niết
Bàn.
Trong Kinh nói : "Tiêu tan trần
lao phiền não, như luyện vàng thật, muôn khổ đều hết mà
linh giác độc tồn". Hai chữ "Vô dư" là nơi nhân duyên giáo
hóa của bậc chí nhân đã xong, linh chiếu vĩnh viễn tiêu
diệt vì cơ cảm đều tuyệt, nên gọi là Vô dư.
Tại sao? Họa lớn chẳng bằng
nơi có thân, nên phải diệt thân để trở về "không". Lao
nhọc chẳng bằng nơi có trí, nên phải bặt trí để vào
nơi trống rỗng. Thế thì trí bởi hình thể mà mệt mỏi,
hình thể bởi trí mà lao nhọc, nhiều kiếp luân hồi trong
lục đạo là bởi cái lỗi của thân tâm.
Trong Kinh nói : "Tâm trí là
cái gốc của tất cả độc, hình thể là chỗ tựa của gông
cùm" xa với chánh lý thâm sâu vắng lặng, nên tai họa do đó
mà sanh khởi, cho nên bậc chí nhân tiêu thân diệt trí, bỏ
hình thể, tuyệt suy tư; bên trong không có cái lao nhọc của
ứng cơ chiếu soi, bên ngoài thì cắt đứt cái nguồn gốc
của tai họa.
Siêu nhiên nơi tam giới thì
sự sanh tử vĩnh viễn cắt tuyệt, trống rỗng bao la, đồng
một thể với hư không. Tịch diệt chẳng có sự thấy nghe,
trống rỗng chẳng có dấu tích, âm thầm mờ mịt chẳng có
chỗ đến; cũng như đèn tắt, dầu cùng với ánh sáng đều
hết, ấy là Vô dư Niết Bàn.
Kinh nói : "Ngũ ấm vĩnh tận,
cũng như đèn tắt". Thế thì Hữu Dư có thể Hữu Danh, Vô
Dư có thể Vô Danh. Vô Danh đặt rồi thì kẻ tôn sùng hư
vô ham thích với sự thâm sâu vắng lặng, Hữu Danh sanh khởi
thì kẻ nhớ ân đức càng ngưỡng mộ công lao của bậc thánh.
Ấy là lời văn trong kinh điển,
là sự giáo hóa hợp lý của Đức Phật; mà Luận lại nói
"có, không" tuyệt ở bên trong, tên gọi chìm mất bên ngoài,
sự thấy nghe chẳng thể đến, người cõi tứ không mê muội
chẳng thể hiểu. Làm cho người nhớ ân đức tự cách tuyệt
với đạo, kẻ tôn sùng hư vô chẳng có chỗ nương tựa,
chẳng khác gì lấp bít tai mắt trên cơ thể, che bít ánh sáng
nhật nguyệt nơi hư không, mà lại còn trách người chẳng
phân biệt được màu sắc, âm thanh, đâu có lý như vậy?
Ông chỉ biết suy tôn bậc
chí nhân, siêu việt sự có không, tự cho lời văn vượt ra
ngoài danh tướng, mà ý chỉ trong Luận lại làm cho người
đọc chẳng biết chỗ quy hướng, nên đạo của Niết Bàn
tự ẩn mà chưa được hiển bày.
Tôi im lặng suy nghĩ tìm hiểu,
cảm thấy chẳng có chỗ nương tựa, vì thế đâu có thể
cho là sáng tỏ ý nghĩa Niết Bàn nơi nhà đen tối, đàn tiếng
nhạc nhiệm mầu nơi đất tuyệt thính ư?
3. LẬP THỂ VÔ DANH
Vô Danh đáp :
Hữu dư, Vô dư là tên gọi
bên ngoài của Niết Bàn, giả danh của sự ứng cơ hóa độ
mà thôi, mà kẻ đuổi theo tên gọi là chấp danh, kẻ ghi nhớ
hình tượng là chấp tướng. Danh hiệu hạn chế nơi đề
mục, hình tướng phạm vi trong vuông tròn. Cũng có chỗ chẳng
thể lấy vuông tròn để diễn tả, lấy đề mục để truyền
nhau được, đâu có thể lấy tên gọi gán vào nơi vô danh,
lấy hình tướng để gán vào nơi vô hình!
Bởi vì thể tánh của Niết
Bàn lìa danh lìa tướng, chẳng phải cảnh giới của phàm
tình, vậy cái đạo vô hình vô tướng ấy đâu có thể đuổi
theo hình, danh mà tìm cầu được.
Lời vấn nạn rằng :"Hữu
dư, Vô dư là bản ý phương tiện tịch diệt để thiết lập
giáo môn, cũng là sự tích "ẩn và hiển" của Như Lai. Nhưng
chưa phải là sự thâm sâu tuyệt ngôn của nhiệm mầu tịch
diệt, cũng chẳng phải là diệu đạo cứu thế của bậc
trí nhân.
Ông chưa nghe được cái thuyết
chánh quán ư? Duy Ma Cật nói :
"Ta quán Như Lai vô thỉ vô
chung, vượt qua lục căn, ra ngoài tam giới, chẳng tại phương,
chẳng lìa phương, chẳng hữu vi, chẳng vô vi. Chẳng thể
dùng thức để biết, chẳng thể lấy trí để hiểu, vô ngôn
vô thuyết, chỗ suy lường của tâm ý tiêu diệt". Theo đó
để quán là chánh quán, nếu quán theo cách khác thì chẳng
thấy Phật được.
Kinh Phóng quang nói : "Phật
như hư không, vô khứ vô lai, ứng cơ mà hiện,, chẳng có
phương sở".
Thế thì, bậc thánh ở nơi
vũ trụ tịch diệt trống rỗng, không chấp trước, không
tranh biện. Có tranh biện là nói sanh tử, không tranh biện
là nói Niết Bàn; sanh tử và Niết Bàn cả hai đều bất khả
đắc, dẫn dắt nó mà chẳng đi trước, cảm thông rồi sau
mới ứng cơ.
Tỷ như tiếng ở trong hang,
hình bóng ở trong gương sáng, đối diện mà không biết từ
đâu đến, đuổi theo chẳng hiểu chỗ đi; chớp nhoáng mà
có, mập mờ mà không, động lại càng tịnh, ẩn lại càng
tỏ, ra vào nơi có, không; thâm sâu âm thầm, biến hóa vô
thường, chẳng thể suy lường được.
Đặt ra tên gọi là bởi ứng
cơ hóa độ, hiển bày sự tích là sanh, ngưng nghỉ sự tích
là diệt; sanh gọi là Hữu dư, diệt gọi là Vô dư. Thế thì
tên gọi của hữu, vô là sanh khởi từ vô danh, mà cái đạo
vô danh thì chỗ nào chẳng phải danh?
Cho nên bậc chí nhân ở nơi
vuông thì vuông, ở nơi tròn thì tròn, ở cõi trời thì làm
trời, ở cõi người thì làm người, bởi vì cái năng lực
làm trời, làm người đâu phải hạng trời, người có thể
làm được! Vậy rõ ràng chẳng phải trời, chẳng phải người
nên mới làm trời, làm người được mà thôi.
Do đó, khi hóa độ chúng sanh,
ứng cơ mà chẳng có việc làm, vì làm mà chẳng qua sự tác
ý, vì chẳng qua sự tác ý nên sự làm rộng lớn chẳng thể
nghĩ bàn; chẳng làm mà ứng cơ nên sự ứng cơ phổ biến,
chẳng thể suy lường. Sự làm rộng lớn chẳng thể bàn nên
trở lại nơi vi ẩn, sự ứng cơ phổ biến chẳng thể suy
lường nên quy về Vô Danh.
Kinh nói : "Đạo Bồ Đề chẳng
thể suy lường, cao mà vô thượng, rộng chẳng bờ bến, thâm
sâu mà không đáy, xa xôi chẳng có chỗ đến. Lớn bao gồm
trời đất, nhỏ nhập vào lân hư (bụi trần cực nhỏ), nên
gọi là Đạo".Thế thì đạo của Niết Bàn chẳng thể lấy
sự hữu, vô để tìm đã rõ ràng rồi. Thế mà kẻ mê hoặc
thấy sự thần biến lại cho là có, thấy sự diệt độ liền
cho là không, cái cảnh "có, không" là trong phạm vi của vọng
tưởng, đâu có thể làm tiêu biểu cho huyền đạo mà diễn
tả chân tâm của bậc thánh!
Ý nói bậc chí nhân tịch diệt
trống rỗng chẳng có dấu tích, ẩn và hiển cùng một nguồn
gốc, "tồn" chẳng cho là có, "vong" chẳng cho là không. Tại
sao? Phật nói : "Ta vô sanh, vô sanh bất sanh, dù cho sanh mà
chẳng sanh; vô hình bất hình, dù hiện hình mà chẳng thấy
hình". Nên biết "tồn" chẳng cho là có.
Kinh nói : "Bồ Tát nhập vô
tận tam muội, thấy hết cả quá khứ chư Phật diệt độ".
Lại nói : "Nhập nơi Niết Bàn mà chẳng thấy Niết Bàn".
Nên biết "vong" chẳng thể cho là không. "Vong" (vong tức là
mất, trái với tồn) chẳng thể cho là không, dù không mà
có; chẳng thể cho là có, dù có mà không. Dù có mà không
nên gọi là phi hữu; dù không mà có, nên gọi là phi vô.
Thế thì, cái đạo của Niết
Bàn quả thật vượt ra ngoài phạm vi có và không, nên đường
đi của ngôn ngữ và tướng số phải cắt đứt. Mà ông lại
nói "Cái tai họa của bậc thánh là tại nơi có thân, nên
diệt thân để trở về không; lao nhọc chẳng bằng nơi có
trí, nên bặt trí để chìm nơi trống rỗng". Há chẳng phải
trái với chánh lý cùng tột của pháp thân, tổn thương ý
chỉ nhiệm mầu của Niết Bàn ư?
Kinh nói : "Pháp thân vô tướng,
ứng cơ mà hiện hình; Bát Nhã vô tri, đối duyên mà chiếu
soi". Vì ứng cơ nơi vô tâm, nên dù cho muôn việc xảy ra cùng
một lúc mà chẳng thấy lao nhọc, ngàn lời vấn nạn khác
biệt mà đối phó chẳng cần suy tư.
Vô tâm nơi ứng cơ nên động
như mây bay, tịnh như tiếng vang, đâu có tâm nơi bỉ thử,
và tình cảm dính dáng nơi động tịnh? Đã vô tâm nơi động
tịnh, cũng vô tướng nơi khứ lai. Vì khứ lai chẳng có tướng
nên không có vật nào mà chẳng hiện hình; vì động tịnh
chẳng có tâm nên không có cảm thông nào mà chẳng ứng cơ.
Thế thì, tâm sanh nơi hữu
tâm, tướng xuất nơi hữu tướng; tướng chẳng xuất nơi
ta nên dù kim thạch chảy mà ta chẳng cháy, tâm chẳng sanh
nơi ta nên tuy ứng dụng hằng ngày mà chẳng động; vạn pháp
tự nó lăng xăng, đâu có dính dáng với ta ? Thế thì còn
có tai họa gì?
Cho nên trí huệ cùng khắp
vạn vật mà chẳng lao nhọc, hình thể sung mãn mười phương
mà chẳng tai họa, sự lợi ích chẳng thể thêm, sự tổn
hại chẳng thể bớt; đâu thể lấy sự Đức Phật thị hiện
nhập tịch cho là như đèn tắt mà gọi là Vô dư Niết Bàn?
Chẳng biết pháp thân thường trụ, sự thị hiện nhập tịch
ấy chỉ là phương tiện để hóa độ chúng sanh mà thôi.
|