TÔNG
BẢN NGHĨA
GIẢI ĐỀ:
Hai chữ TÔNG BẢN là để tỏ
rõ cái tông chỉ lập luận có căn bản. Vì bốn Luận chẳng
phải soạn cùng một lúc, các Luận đã soạn xong mới soạn
bài Tông Bản Nghĩa nầy để thuyết minh bốn Luận ấy đều
có hệ thống đối với căn bản. Bởi vì sở lập tông chỉ
đều căn cứ vào tâm để truy cứu nguồn gốc mê ngộ, phàm
thánh và vạn pháp. Có pháp thì phải có nghĩa, nên gọi là
Tông Bản Nghĩa.
CHÁNH VĂN:
Bổn Vô, Thật Tướng, Pháp
Tánh, Tánh Không, Duyên Hội, năm danh từ trên vốn chỉ có
một nghĩa.
Để vạch ra tông chỉ chánh
pháp là căn bản của bổn Luận.
Hai chữ Bổn Vô chỉ ngay tâm
tịch diệt vốn không một pháp, lìa tất cả tướng, dứt
bặt thánh phàm, nên gọi là BỒN VÔ, chẳng phải có ý làm
thành vô (1).
Vì tất cả pháp đều do vọng
tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân
duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI. Vì duyên sanh
ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên
nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thể là chơn như
biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH. Do chơn như pháp tánh mà
thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các
pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô là thể của tâm,
duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh
không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói
là một nghĩa vậy. Y theo tâm pháp lập bốn Luận nầy, lấy
bài Vật Bất Thiên làm tục đế, bài Bất Chân Không làm
chân đế, nhị đế là cảnh sở quán, Bát Nhã là tâm năng
quán, ba bài Luận trước là nhân, Niết Bàn là quả, nên trước
tiên lấy bài Tông Bản Nghĩa làm Tông thể (tông chỉ của
bản thể) chung cho cả bộ luận.
Tại sao vậy? Tất cả các
pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh
thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật
có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay
hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường
tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi
là PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THỰC
TƯỚNG,thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do
suy lường mà cho đó là không, nên gọi là BỒN VÔ.
Nói đến "chẳng có chẳng
không" là nói cái có chẳng giống như "cái có" của người
thường kiến chấp "thật có"; còn nói đến "cái không" cũng
chẳng phải như người đoạn kiến, chấp "thật không". Nếu
người lấy cái có làm có, thì lấy cái không làm không, nên
chẳng lấy "có không" để quán các pháp mới có thể gọi
là biết được thật tướng của các pháp vậy.
Dù quán "có" mà chẳng chấp
lấy tướng có, dù quán "không" mà chẳng chấp lấy tướng
không, vậy thì các pháp tướng là cái tướng của vô tướng,
nên tâm của bậc thánh trụ nơi vô sở trụ vậy.
Tam thừa đều cùng quán tánh
không mà đắc đạo, tánh không là thật tướng của các pháp
nên gọi là chánh quán, nếu thấy có khác biệt tức là tà
quán. Giả sử nhị thừa chẳng thấy lý nầy thì điên đảo
giống như phàm phu rồi.
Cho nên tam thừa quán pháp chẳng
có khác nhau, chỉ do tâm chấp có lớn nhỏ mà hình thành sai
biệt. Phương tiện phải đi đôi với Bát Nhã thì mới được
gọi là đại huệ, thật tướng của các pháp gọi là Bát
Nhã. Đã quán được thật tướng mà không thủ chứng là
nhờ công dụng của phương tiện; tùy theo căn cơ thích ứng
của chúng sanh mà độ, gọi là phương tiện. Dù ra vào trong
sanh tử mà chẳng nhiễm trần lao là nhờ sức trí huệ của
Bát Nhã; vậy thì cái cửa của Bát Nhã là quán "không", cái
cửa của phương tiện là vào "hữu". Vào "hữu" mà chưa từng
mê chấp nên thường ở nơi "hữu" mà chẳng nhiễm, chẳng
chán "hữu" mà quán "không" nên quán "không" mà không thủ chứng,
ấy gọi là sức lực của một niệm, tức là quyền trí và
thật trí đều đủ vậy.
Người dụng công tham cứu
thì trong một niệm, quyền trí và thật trí đều đủ cả,
do đó, tâm cảnh được hiện rõ ràng.
Nói "Niết Bàn Tận Đế" tức
là cái trói buộc của phiền não đã hết, thì sanh tử vĩnh
viễn tiêu diệt, nên gọi là TẬN thôi, chớ chẳng phải còn
có chỗ nào để tận vậy.
GHI CHÚ :
(1) Có nghĩa là chẳng phải
từ hữu mà biến thành vô, vì BỒN VÔ này vượt ngoài cái
có và không tương đối.