LỜI
DỊCH GIẢ
Triệu Luận là một tuyệt
tác của Ngài Tăng Triệu, từ xưa rất nổi tiếng tại Trung
Hoa, nay đã được dịch sang tiếng Anh và phổ biến trên thế
giới.
Theo căn bản của Đạo Phật,
bản thể của tự tánh vốn vô hình, vô danh, chẳng thể dùng
ngôn ngữ văn tự để diễn tả được. Vì vậy, xưa nay các
pháp sư giáo môn, trải qua nhiều đời "y kinh giải nghĩa"
thường bị hạn chế trong phạm vi văn tự, nên khó mà diễn
tả hết giáo lý trong biển Phật. Nhưng Ngài Tăng Triệu với
thiên tài đặc biệt, dù dùng văn tự để diễn tả mà vẫn
siêu việt ngoài văn tự, nên giáo lý được thông suốt và
đạt đến thâm tâm của Phật.
Vì lời văn người xưa thường
ngắn gọn lại quá súc tích nên người đời nay khó hiểu
thấu được. Vả lại, tác giả phải dùng hình tướng để
diễn tả sự vô hình, dùng âm thanh để diễn tả sự vô
thanh, khiến cho sự lãnh hội của người thời nay càng thêm
khó khăn bội phần. Như lời bạt của Pháp Sư Huệ Tẩm đã
nói:
"Sau khi quyển Triệu Luận ra
đời, có người chưa thông suốt nghĩa lý, viết văn bài bác;
nhiều người xem luận cảm thấy hoang mang hoảng sợ. Nhiều
cuộc bút chiến phê bình và đả kích lẫn nhau đã xảy ra.
Đến đời Minh, Ngài Hám Sơn,
bậc thượng thủ bên Thiền Tông, đã nhờ luận này mà ngộ
đạo, thấu rõ nghĩa thâm sâu vi ẩn của Luận. Vì thấy người
đời có nhiều lối bàn luận đối chọi nhau, làm cho kẻ
hậu học không biết chỗ qui hướng nên Ngài mới cầm bút
chú thích, hầu giải quyết sự khó hiểu của mọi người
với mục đích làm sáng tỏ ý chỉ thâm sâu của Luận, gọi
là lược giải. Nhờ đó mà cổ kim khai mở, đầu đuôi thông
suốt, muôn ngàn đường lối qui về một".
Chúng tôi phải nhờ lời chú
thích của Ngài Hám Sơn lồng vào chánh văn để làm sáng tỏ
ý chỉ thâm sâu của bản Luận. Chúng tôi cố giữ nguyên
những lời chú thích cần thiết và lược bỏ những chỗ
không cần.
Quyển Luận này gồm : một
bài Tông Bản Nghĩa, bốn bài luận và hai bức thơ của Lưu
Di Dân hỏi và của Ngài Tăng Triệu đáp.
Trong các bài Bát Nhã Vô Tri,
Niết Bàn Vô Danh và hai bức thơ, chúng tôi lược bỏ những
phần xét thấy không phải Luận, cũng như phần nói về sự
tích của Ngài Cưu Ma La Thập và vua Tần.
Trong bài Bát Nhã Vô Tri, phần
nói đến Dịch Tràng của Ngài Cưu Ma La Thập đã được chúng
tôi chọn làm Tiểu Dẫn cho bài, để người đời nay thấu
hiểu được tầm quan trọng của sự dịch Kinh.
Qua bản Luận này, tác giả
tỏ rõ ý muốn cảnh giác những người học Phật mà thành
ngoại đạo, vì họ hiểu lầm ý Phật, tự lấy ý mình cho
là ý của Phật.
Như Chư Phật Chư Tổ nói:
Phật pháp là pháp bất nhị, chẳng phải do lời nói có nhiều
khác biệt mà làm cho Phật pháp cũng khác biệt theo. Chúng
tôi hy vọng độc giả nhờ Luận này mà ngộ nhập tự tánh,
chớ nên dùng nó làm tăng thêm tri giải để thành chướng
ngại cho sự chứng ngộ. Muốn tuyệt đối giữ nguyên ý của
tác giả nên chúng tôi không chú trọng nhiều đến việc trau
chuốt lời văn, xin quý độc giả "được ý quên lời", từ
bi hoan hỷ cho.
THÍCH DUY LỰC
BÀI
TỰA CỦA PHÁP SƯ THÍCH HUỆ ĐẠT
Sách này do Pháp Sư Thích Tăng
Triệu ở Trường An sáng tác, gồm bài Tông Bản Nghĩa và
bốn bài luận: Vật Bất Thiên, Bất Chân Không, Bát Nhã Vô
Tri, Niết Bàn Vô Danh.
Tác giả lập luận rất hay,
sự diễn tả siêu việt nói nín, về phần chỉ thị căn bản
thì mỗi câu đều đạt đến thâm tâm của Phật; đối với
sự giảng rõ đầu đuôi thì mỗi lời đều thông suốt giáo
lý, Huệ Đạt tôi may mắn được sanh cùng vào một thời,
gặp chánh âm nầy (Triệu Luận) mỗi lần đọc lại đều
cảm thấy khích động vô cùng, thề nguyện đời đời kiếp
kiếp hết lòng hoằng dương.
Phật đạo thần diệu vô hình,
dầu cho tâm trí thông minh đến mức nào cũng khó mà tả được.
Bởi vì tự tánh nhiệm mầu, biệt hiệu là Bổn Vô, nên trước
tiên phải dùng phương tiện, kiến lập tông chỉ (Tông Bản
Nghĩa), mượn ngữ ngôn để chỉ bày thật tướng. Muốn giảng
rõ pháp "KHÔNG" của đạo, tóm lại không ngoài hai chữ "CHÂN"
và "TỤC", nên kế đó giải thích nhị đế (Vật Bất Thiên
và Bất Chân Không) để hiển bày giáo môn của Phật. Nhưng
cái chánh nhơn viên tròn không gì hơn Bát Nhã, cái quả vị
cùng tột chỉ có Niết Bàn nên sau cùng khai mở trí huệ trùng
huyền (Bát Nhã Vô Tri) (trùng huyền: huyền là nhiệm mầu,
trùng huyền lại thêm nhiệm mầu), sáng tỏ được quê nhà
của chư Thánh (Niết Bàn Vô Danh). Dù lấy tánh không làm căn
bản để gọi, muốn nói vốn là tuyệt ngôn, chẳng phải
chỗ tâm trí suy lường được.
Vậy thì tạm cho bài Vật Bất
Thiên là tục đế, nhưng "tục" cũng chẳng sanh; bài Bất Chân
Không là chân đế, nhưng "chân" chỉ là ngôn thuyết. Nếu
được thâm nhập vào đạo này thì chân tục nhị đế đều
là vô ngôn.
Như vậy, cái công dụng của
tịch chiếu hiển hiện thì Bát Nhã Vô Tri, cái đức dụng
của vô danh khởi lên thì Niết Bàn chẳng có tên gọi. Hậu
học tôi cho rằng cái thuyết này rất là viên tròn chu đáo,
tả hết giáo lý trong biển Phật, quảng bác mênh mông cùng
tột thể tướng của Phật Pháp, chỉ có bài Luận này của
Ngài Tăng Triệu mới thật xứng đáng là đệ nhất mà thôi.
Huệ Đạt tôi quê mùa kém
học, nay làm bài tựa này gởi lời xin bậc triết nhân tương
lai chỉ dạy cho.