BÀI
LUẬN THỨ NHẤT
VẬT
BẤT THIÊN
GIẢI ĐỀ :
Luận nầy nói tục đế tức
chân, là cảnh sở quán. Chữ VẬT là chỉ VẠN PHÁP, hai chữ
BẤT THIÊN là chẳng biến đổi, cũng có nghĩa chỉ ngay thể
tánh thật tướng của các pháp.
Phàm phu vọng thấy các pháp
hình như có lưu động và biến đổi; nếu lấy Bát Nhã mà
quán thì liền thấy ngay thật tướng của các pháp ngay đó
thể tánh tịch diệt chơn thường, chẳng có chút tướng lưu
động hay biến đổi, nên nói chẳng có một pháp được động
chuyển là vậy. Vì duyên sanh nên tánh không, nên mỗi pháp
ngay đó vốn không biến đổi, chẳng phải tướng biến đổi
mà tánh chẳng biến đổi (nghĩa là tánh với tướng chẳng
khác).
Thấy được mỗi pháp không
biến đổi, nên tức vật tức chân, chân thì chẳng có một
pháp nào dính dáng đến tình cảm, theo đó mà quán tục thì
tục tức chân vậy. Vì do toàn lý thành sự, sự sự đều
chân, thì thật tướng của các pháp ngay đó đều được
hiển hiện rồi.
LƯỢC GIẢI
Tác giả căn cứ vào Kinh Duy
Ma Cật và Pháp Hoa ngộ nhập thật tướng, nên lấy bài Vật
Bất Thiên làm tục đế, tức tục mà chân thì ý chỉ của
Bất Thiên rõ ràng trước mắt.
CHÁNH VĂN
Sự sanh tử luân hồi, mùa
đông mùa hè thay phiên biến đổi, hình như có vật lưu động,
ấy là sự hiểu biết của người thường, nhưng tôi thì
nói chẳng phải vậy. Tại sao? Kinh Phóng Quang Bát Nhã có nói
: "Các pháp chẳng có khứ lai, chẳng có pháp nào động chuyển
cả".
Cứu xét ý chỉ của bất động,
đâu phải ngưng cái động để cầu tịnh! Cần phải cầu
tịnh nơi động, cầu tịnh ở nơi động thì dẫu cho động
cách mấy cũng là thường tịnh; chẳng ngưng động để cầu
tịnh thì dẫu cho tịnh cách mấy cũng chẳng lìa động. Vậy
thì động và tịnh chưa từng có khác biệt mà người mê
hoặc cho là bất đồng, thành ra chân ngôn của bậc thánh
bị kẹt không được hiển bày bởi những người ham tranh
biện, làm cho đạo Nhất Thừa chân tông bị chôn vùi bởi
những người ham chấp dị kiến, cho nên sự động tịnh đến
chỗ cùng cực không dễ gì nói cho người tin được vậy.
Tại sao? Vì nếu nói chân ngôn
của bậc thánh thì nghịch với thế tục, thuận theo thế
tục thì phản bội chân ngôn. Phản bội chân ngôn nên mê
lầm không trở về tự tánh được; nghịch với thế tục
nên lời nói lạt lẽo, chẳng có mùi vị. Nếu là người
thượng căn lợi trí, nghe xong tin liền; bậc trung căn thì
chưa phân biệt được chỗ có hay không; bậc hạ căn thì
vỗ tay cười to mà bỏ đi.
Sự động tịnh đến chỗ
cùng cực ở cạnh nơi người mà người chẳng biết được,
như thế có phải là tánh của vạn vật ư? Lòng tôi luôn
luôn ray rứt, xót thương kẻ mê lầm nên mới chỉ bày cái
tâm ở trong động và tịnh hầu hiển bày lý bất nhị của
động tịnh, làm cho người mê chợt tỉnh, ra khỏi sự ràng
buộc của động tịnh, nhưng chẳng dám quyết đoán là thật
đúng, nay chỉ thử luận bàn mà thôi.
Kinh Đạo Hạnh Bát Nhã nói:
"Các pháp vốn không có nơi xuất phát, cũng không có chỗ
để đến". Trung Quán Luận nói:
"Nhìn phương hướng của người
đi thì biết hướng của họ đi, nhưng người ấy không đến
hướng ấy được". (Vì chẳng có phương hướng thật để
đến). Đó đều là ngay trong động mà hiển bày tịnh, nên
chứng tỏ rõ ràng là Vật Bất Thiên vậy. Người thường
cho là động vì vật xưa không đến nay, nên nói là động
mà chẳng phải tịnh (mặt trẻ lúc xưa, nay biến thành già,
có biến đổi thì là động rồi, chẳng phải tịnh). Còn
tôi cho là tịnh, cũng là vật xưa không đến nay, nên nói
tịnh mà chẳng động (theo tôi xem thì mặt trẻ trụ lúc xưa,
chưa từng dời đến nay, nên nói tịnh mà chẳng động). Người
chấp động mà chẳng tịnh vì nó chẳng đến (vì mặt trẻ
chẳng đến, từ mặt trẻ biến thành già nên cho là động).
Sự thật, tịnh mà chẳng động
vì nó không đi (vì mặt trẻ ở lúc xưa không đến nay cũng
như mặt già hiện nay không đến xưa, nên gọi là tịnh).
Vậy thì hiện tượng chưa từng khác, nhưng sự thấy bất
đồng (cùng lấy "vật xưa không đến nay" mà thấy có sự
động tịnh chẳng đồng).
Người mê lấy tình nghịch
lý nên bị bế tắc, người ngộ thì từ lý đạt sự nên
được thông suốt. Nếu ngộ đạo chân thường thì đâu còn
tướng nào có thể chướng ngại được!
Tình thức của con người bị
mê hoặc đã lâu, nên đối với cảnh chân thật trước mắt
mà chẳng biết, thật đáng thương xót! Đã biết vật xưa
chẳng đến nay mà lại nói vật nay có đi; vật xưa đã chẳng
đến mà vật nay làm sao đi được? Tại sao vậy? Tìm vật
xưa ở nơi xưa, xưa chưa từng không; tìm vật xưa ở nơi
nay, nay chưa từng có. Nay chưa từng có thì rõ ràng là vật
không đến; xưa chưa từng không, nên biết vật chẳng đi.
Tôi nói vật xưa trụ nơi xưa,
chẳng từ nay đến xưa; vật nay trụ nơi nay, chẳng từ xưa
mà đến nay. Nên Khổng Tử nói với Nhan Hồi rằng: "Tôi với
Hồi vừa bắt tay nhau thì sự bắt tay đã mất rồi, như thế
thì rõ ràng là vật không qua lại với nhau" (Tác giả mượn
lời của Khổng Tử để chỉ bày sự biến đổi mau lẹ đến
cùng cực, mới thấy rõ ràng chỗ tỏ bày chân thật của
Vật Bất Thiên).
Kinh Lăng Già nói: "Tất cả
pháp chẳng sanh, đó là nghĩa sát na, mới sanh liền có diệt,
chẳng vì kẻ ngu thuyết". Ngài Hiền Thủ giải rằng: "Vì
sát na lưu chuyển nên không có tự tánh, nếu vật có tự
tánh thì vĩnh viển cố định, không có sanh diệt biến đổi;
vì không có tự tánh nên không sanh. Nếu không sanh thì không
lưu chuyển, vì thế người khế ngộ pháp vô sanh mới thấy
được nghĩa sát na".
Kinh Duy Ma Cật nói: "Bất sanh
bất diệt là nghĩa vô thường" (Tác giả đã ngộ thật tướng,
mới được ngay trong pháp sanh diệt biến đổi mà trực thấy
sự chân thật của nghĩa "Bất Thiên", cho nên mượn lời văn
biến đổi lưu động mà sáng tỏ ý chỉ của "Bất Thiên",
nếu không phải người thông đạt ý nghĩa vô sanh thì rất
khó mà tả được).
Đã không có một chút triệu
chứng qua lại thì làm sao có vật gì để lưu động biến
đổi? Kỳ thật, về không gian thì vật không khứ lai, về
thời gian thì không có cổ kim. Cũng như trong chiêm bao thấy
trải qua nhiều năm, nhưng tỉnh giấc thì biết chỉ có chốc
lát thôi. Nếu lấy việc chiêm bao để quán các pháp thì thời
vô cổ kim, pháp vô khứ lai đã rõ ràng trước mắt. Nếu
tác ý phân biệt thì liền lọt vào lưu chuyển, chổ này chẳng
phải phàm tình có thể đến được.
Gió bão bay núi mà thường
tịnh
Nước sông đổ gấp mà chẳng
trôi
Bụi trần lăng xăng mà chẳng
động
Trăng qua bầu trời mà chẳng
đi.
bốn câu kệ nầy đâu còn
kỳ lạ gì nữa.
LƯỢC GIẢI
Tôi (Ngài Hám Sơn) lúc trẻ
đọc Luận nầy đến bốn câu trên, đối với nghĩa "Bất
Thiên" khởi nghi tình trải qua nhiều năm.
Khi cùng Sư Diệu "kiết đông"
ở Phù Bản, khắc lại bản Luận này; lúc dò đến đoạn
nầy, hoát nhiên tỉnh ngộ. Lòng mừng vô hạn, liền đứng
lên lễ Phật thì thấy thân mình không có tướng lễ xuống
hay đứng lên, mở cửa nhìn ra ngoài chợt thấy gió thổi,
lá cây rơi lả tả mà lá nào cũng chẳng động, mới tin câu
"gió bão bay núi mà thường tịnh". Kế đó vào nhà cầu để
đi tiểu mà chẳng thấy tướng lưu chuyển của nước tiểu,
thật là "nước sông đổ gấp mà chẳng trôi".
Ngày xưa về sự nghi câu :
"Thế gian tướng thường trụ" của Kinh Pháp Hoa liền nhờ
đây mà tan rã. Do đó mới biết ý chỉ của Luận này thật
vi tế sâu xa, nếu chẳng phải chân tham thật ngộ, muốn lấy
cái tri kiến mà tỏ bày, đều chẳng khỏi bị hoài nghi nhiều
thêm nữa.
Về sự "động tịnh đến
cùng cực" không dễ gì nói cho người tin được, những lời
ấy là muốn người lìa ngôn ngữ để hiểu ý, đừng chấp
theo ngôn ngữ mà đánh mất ý chỉ vậy.
CHÁNH VĂN
Bậc thánh có nói "Mạng người
chóng mất, mau hơn nước chảy", cho nên thừa Thanh Văn ngộ
"Phi Thường" mà thành đạo, Duyên Giác ngộ "duyên lìa" là
"tức chân".
Nếu vạn pháp chẳng phải
"vô thường" thì bậc thánh nhị thừa tại sao do nghe "vô thường"
mà chứng quả thánh? Tìm lại lời nói của bậc thánh, thật
là vi ẩn khó hiểu. Lời nói của bậc thánh dầu nói vô thường
mà ý muốn hiển bày chơn thường, cho nên vi ẩn khó hiểu.
Hình như động mà tịnh, như đi mà ở, chỉ có thể dùng
thật trí mà hiểu biết, chớ không thể theo sự tướng mà
tìm cầu. Cho nên nói đi chẳng cần cho là đi, chỉ để phá
cái tư tưởng chấp "thường" của người phàm, nói ở khỏi
cần cho là ở, chỉ để phá cái chấp thật có đi của người
mà thôi. Đâu phải nói đi mà có thể rời chỗ, nói ở mà
có thể ở lại được. Nên Kinh Thành Cụ Quang Minh nói : "Bồ
Tát ở trong chỗ chấp "thường" mà giảng giáo pháp "phi thường".
Đại Thừa Luận nói: "Các pháp không động, chẳng có chỗ
khứ lai". Đó đều là để dẫn dắt cho mười phương chúng
sanh được thông đạt ý, hai lời trên chỉ là một thôi,
đâu phải do lời văn khác biệt mà có trái nghịch nhau.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy giải thích lời
của bậc thánh dù khác nhau mà ý chỉ là một, cũng như hai
pháp sanh tử và Niết Bàn, nghĩa đều là không cả. Kinh Thành
Cụ nói: "Bồ Tát ở trong chỗ phàm phu chấp thường mà nói
vô thường để phá chấp ấy, chẳng phải thật có tướng
sanh tử; ý là muốn người ngay trong vô thường mà ngộ "chân
thường". Như Đại Thừa Luận nói: "Các pháp trạm nhiên thường
trụ chẳng động, vốn không khứ lai". Ý muốn cho người
ngay khi náo động mà ngộ "Bất Thiên", lời nói THƯỜNG và
VÔ THƯỜNG đều là tùy cơ để giáo hóa chúng sanh, lời tuy
khác mà ý là một, đâu phải vì văn khác mà đối chọi nhau,
vậy thì người chấp theo ngôn ngữ để tranh biện, chẳng
phải là mê hoặc ư?
CHÁNH VĂN
Cho nên nói thường mà chẳng
trụ, nói đi mà "Bất Thiên". Chứng vô vi mà không bỏ vạn
hạnh, nên thường mà chẳng trụ; ở nơi sanh tử mà chẳng
lìa Niết Bàn, nên đi mà "Bất Thiên". Vì "Bất Thiên" nên
dù thấy có tướng đi mà thường tịnh, vì chẳng trụ nên
dù thấy tướng tịnh mà thường đi. Tịnh mà thường đi
nên đi mà "Bất Thiên", đi mà thường tịnh nên tịnh mà chẳng
trụ vậy. Sự giấu núi của Trang Tử (1) và sự "đến bờ
sông" của Khổng Tử (2)là vậy, đó đều là cảm thấy sự
đi khó trụ, đâu phải nói thấy đi mà có đi. Cho nên, người
quán được tâm của bậc thánh thì chẳng đồng với sự
thấy của người thường. Tại sao? Người thường cho là:
già trẻ cùng một cơ thể, đến trăm tuổi cũng chỉ là một
bản chất, ngày tháng trôi qua, hình thể theo từng thời gian
biến
đổi mà chẳng biết. cho nên ông Phạn Chí lúc tuổi trẻ
xuất gia, đầu bạc trở về, người lối xóm thấy hỏi :"Người
xưa kia còn sống sao? "Phạn Chí đáp: "Tôi giống người xưa
mà chẳng phải người xưa ấy! " Người lối xóm ngạc nhiên
cho lời ông ấy nói sai. Cũng như lời văn trên nói "giấu
núi ở nơi vũng nước, người có sức mạnh vác đi mà kẻ
mê chẳng biết". Đó là chỉ việc giống như người lối
xóm của Phạn Chí.
GHI CHÚ :
(1) Trang Tử nói :"Giấu núi,
tàng sơn, nơi vũng nước cho đó là vững chắc, nhưng người
có sức mạnh có thể vác đi được mà kẻ mê chẳng biết,
nếu giấu thiên hạ nơi thiên hạ thì không còn chỗ nào mà
dời đi được". Ý nói người chưa quên hình thể để hợp
với đạo thì dù cho ẩn giấu nơi núi rừng mà hình thể
bị tạo hóa âm thầm biến đổi mà kẻ mê chẳng biết, vì
có giấu thì có mất. Nếu hình thể với đạo đã hợp làm
một rồi thì không có chỗ giấu, không giấu thì không mất,
cũng như giấu thiên hạ nơi thiên hạ thì chẳng thể mất
được vậy. Đó là ý của Trang Tử.
(2) Trong luận ngữ, Khổng Tử
ở trên bờ sông nói: " Nước chảy qua mau như thế chẳng
lìa ngày đêm", là lời tán thán đạo-thể như nước sông
chảy chẳng ngừng. Đó là ý của Khổng Tử. Tác giả lấy
lời văn trên dẫn chứng sự "Bất Thiên", ý nói kẻ mê chẳng
biết, dù "Thiên" mà "Bất Thiên", nói chẳng lìa ngày đêm
thì dẫu cho đi mà chẳng đi. Nên Luận nầy giải thích rằng
hai lời nói trên chỉ cảm thấy đi mà khó trụ, chẳng phải
nói đi mà thật có đi, cho nên nói: dù thấy "Thiên" mà ý
thật "Bất Thiên", và cảnh cáo rằng : người quán được
tâm của bậc thánh, chẳng nên theo thường tình chấp ngôn
hại nghĩa thì mới phải.
LƯỢC GIẢI
Tác giả lấy việc của Phạn
Chí để giải thích dù "Thiên" mà "Bất Thiên" để sáng tỏ
cái nghĩa kẻ mê chẳng biết. Người lối xóm của Phạn Chí
nói " người xưa còn sống đây" là lấy cái mặt trẻ khi
xưa cho là người mặt già hiện nay. Phạn Chí đáp: " Tôi
giống người xưa mà chẳng phải người xưa", ý là nói mặt
trẻ tự trụ khi xưa mà chẳng đến nay, đâu có thể lấy
mặt già hiện nay mà đi đến khi xưa được ư? Đây là nghĩa
của "Bất Thiên" rõ ràng, nhưng người lối xóm chẳng biết,
nên ngạc nhiên cho là nói sai, ý muốn chỉ rõ ra: kẻ mê chẳng
biết vậy.
CHÁNH VĂN
Như Lai vì tình chấp của chúng
sanh nên dùng lời phương tiện để đánh thức người mê
hoặc, dùng chân tâm của bất nhị để tỏ ra nhiều lời
giáo hóa khác biệt chẳng phải một. Dù lời nói trái nhau
mà chẳng có thể cho là khác biệt, chỉ có bậc thánh mới
nói được những lời như thế. Tóm lại, lời bậc thánh
có khác mà tâm chẳng khác. Chư Phật ra đời vốn chẳng có
pháp để thuyết, nhân vì tình chấp của chúng sanh nên tùy
theo căn cơ của chúng sanh mà thiết lập lời nói phương tiện
để phá cái chấp ấy. Lời giáo hóa của Phật mặc dù trái
nhau mà tâm thật chẳng có khác, đoạn trên nói vi ẩn khó
hiểu là vậy.
Lại nói về chân thì có tên
gọi là "Bất Thiên", còn dẫn dắt về tục thì có thuyết
gọi là "Lưu Động", như vậy, dù có nói ra muôn ngàn đường
lối khác nhau cũng chỉ để qui về đồng với một mà thôi.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này giải thích cái nghĩa
trái nhau mà chẳng khác. Nói về phần chân thì gọi là Bất-thiên,
mà ý ở nơi giáo hóa thế tục ; nói về phần tục thì có
thuyết Lưu động mà ý ở nơi trở về chân tâm, cho nên muôn
ngàn đường lối khác nhau mà chẳng có thể cho là khác biệt
vậy.
CHÁNH VĂN
Người chấp văn tự thì khi
nghe nói "Bất Thiên" cho rằng việc xưa không đến nay, nghe
"Lưu Động" thì cho rằng việc nay có đến xưa. Đã nói cổ,
kim, thì cổ tự trụ nơi cổ, kim tự trụ nơi kim; mà tại
sao còn muốn dời kim đến cổ vậy?
Cho nên, nói trụ chẳng cần
trụ, cổ kim thường tồn vì nó bất động; nói đi chẳng
cần đi, vì cổ chẳng đến kim thì kim cũng chẳng đến cổ,
không đến cho nên chẳng qua lại nơi cổ kim, bất động cho
nên các tánh (tướng trẻ và tướng già) trụ nơi một thời.
Vậy thì lời văn khác biệt của các Kinh, học thuyết sai
biệt của Bách Gia, nếu đã hội ngộ thì làm sao còn bị
những lời văn sai biệt mê hoặc được?
Cho nên người ta cho là ở
thì tôi nói là đi, người ta nói là đi thì tôi cho là ở;
dù cho đi, ở khác nhau nhưng ý nghĩa chỉ là một mà thôi.
Do đó, Lão Tử nói: "Lời chánh nói ra giống như lời phản,
ai mà tin cho nổi, song lời ấy cũng có lý do vậy".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này hiển bày mê, ngộ
cùng một nguồn gốc. Người cho là "ở" vì do vọng tâm chấp
thường; chấp thường thì lọt vào vô thường, nên tôi nói
"đi" để phá cái chấp ấy, ý ở nơi vô trụ, chẳng phải
nói thật có đi; người cho có "đi" là chấp sanh tử vô thường
thì tôi nói "ở" để phá cái chấp ấy; ý ở nơi vốn không
có sanh tử để chấp, chẳng phải nói "ở" mà thật có ở
lại. Vậy thì hai lời "đi" và "ở" chỉ là lời phá chấp,
để hiển bày đạo nhất chân thường trụ thôi, nên lời
khác mà ý một. Cũng như Lão Tử nói : "Lời chánh nói ra giống
như lời phản, ai mà tin nổi, song lời ấy cũng có lý do vậy".
Lời ấy chỉ rõ mê, ngộ không ngoài nhất chân; thị phi vốn
chẳng phải hai, nếu chánh kiến hiện tiền thì chẳng tùy
theo bề mặt của lời nói để hiểu nghĩa vậy.
Tại sao? Người tìm cổ nơi
kim, nói nó chẳng ở, tôi thì tìm kim nơi cổ, biết nó chẳng
đi. Kim nếu đến cổ, cổ phải có kim, cổ nếu đến kim,
kim phải có cổ. Kim mà không cổ thì biết chẳng đến, cổ
mà không kim thì biết chẳng đi. Nếu cổ không đến kim, kim
cũng không đến cổ, cổ kim chẳng đến với nhau thì các
tánh trụ nơi một thời, vậy đâu còn vật gì để cho khứ
lai nữa?
Do đó, người ngộ lý "Bất
Thiên" nơi vi ẩn, dù cho tứ thời biến đổi mau lẹ như gió
bay điện chớp, cũng là bất động như như.
Cho nên công đức của Như
Lai trải qua muôn đời mà hạnh lợi tha thường tồn, đạo
pháp thông đến trăm kiếp mà hạnh tự lợi càng kiên cố
vĩnh viễn. Như thế, dù muôn đời, trăm kiếp, hình như thời
gian biến đổi mà hai hạnh tự lợi và lợi tha đều bất
hủ, đó là thật tướng của "Bất Thiên" vậy.
CHÁNH VĂN
Bưng đất đắp thành núi phải
nhờ ky đất đầu tiên, cũng như đi đến nơi ngàn dặm phải
nhờ bước đầu. Nên công đức đã thành bậc thánh mà vạn
hạnh viên mãn chẳng khác với sơ tâm, phát tâm và cứu cánh
hai sự chẳng khác, từ nhân đến quả mà hạnh hạnh bất
thiên. Duy Ma Cật nói :" Nghiệp sở tác cũng chẳng quên, chẳng
quên tức là bất hủ". Thiện ác đều như vậy, quả thật
chứng tỏ công hạnh và sự nghiệp bất hủ.
Công nghiệp bất hủ nên dù
ở xưa mà chẳng biến đổi; chẳng biến đổi là "Bất Thiên",
bất thiên thì thật tướng trạm nhiên rõ ràng; cho nên Kinh
nói "Ba thứ tai nạn lớn của hoại kiếp (thủy tai, hỏa tai,
phong tai) cùng khắp pháp giới mà hạnh nghiệp trạm nhiên
chẳng động, chẳng hoại". Như thế cái nghĩa "cực thiên"
là "cực bất thiên" thì lời ấy đáng tin lắm!
Tại sao? Quả chẳng cùng nhân,
mà vì nhân thành quả; vì nhân thành quả, nhân xưa chẳng
mất; quả chẳng cùng nhân, nhân chẳng đến nay; chẳng mất,
chẳng đến thì ý chỉ của "Bất Thiên" rõ ràng, đâu còn
mê lầm chỗ đi, ở mà do dự giữa động tịnh vậy.
Như thế, trời đất đảo
lộn chớ cho là không tịnh, bão lụt khắp trời chớ cho là
có động; nếu khế ngộ được "tức vật tức chân" thì
trước mắt đều là thật tướng thường trụ, tất cả vạn
pháp chẳng mảy may có thể động chuyển; như vậy chẳng
cần tìm cầu nơi xa mà ngay đó biết được vậy.
LƯỢC GIẢI
Tôi (Hám Sơn) xem quyển Chánh
Pháp Nhãn Tạng, Hòa Thượng Phật Giám thị chúng, kể công
án "Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là nghĩa "Bất Thiên". Triệu
Châu dùng hai tay làm thế như nước chảy thì Tăng đó tỉnh
ngộ". Còn một công án khác : " Tăng hỏi Pháp Nhãn : chẳng
chấp lấy tướng, như như bất động, thế nào là chẳng
chấp lấy tướng, thấy chỗ bất động vậy? Pháp Nhãn đáp:
Mặt trời mọc ở phương đông, lặn ở phương tây. Tăng
đó cũng tỉnh ngộ".
Nếu mà thấy được chỗ nầy
mới biết rằng : gió bão bay núi mà thường tịnh, nước
sông đổ gấp mà chẳng trôi. Nếu không thì chẳng khỏi bị
chê là nhiều chuyện.