x
|
cx
TRIỆU
LUẬN LƯỢC GIẢI
Tác Giả:
Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư
Việt
Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
BÀI
LUẬN THỨ BA
BÁT
NHÃ VÔ TRI
TIỂU DẪN :
Vua Tần Diêu Hưng (từ năm
394-416 CN) là minh chúa lúc đương thời, đã triệu tập các
pháp sư giáo môn hơn 500 vị, trong đó có những vị Sư người
Ấn như: Thiền Sư Phật Đà Bà Đà La, học thiền với Phật
Đại Tiên ở Ấn Độ sang Trung Quốc vào thời Hoằng Thủy,
dạy thiền ở Ngọa Quang Tự (1). Ngoài ra, còn có Tam Tạng
Pháp Sư Phất Nhã Đa La, và hai luận sư Tỳ Bà Sa là Đàm
Ma Da Xá và Đàm Ma Quật Đa, dịch kinh ở vườn ngự uyển
Tiêu Dao Quán. Ngài Cưu Ma La Thập đọc nghĩa tiếng Phạn,
vua Tần chính tay viết ra Hán văn để dịch các kinh đại
thừa. Tôi là người ít học, từng dự vào dịch tràng, được
nghe những điều tâm yếu khác thường và ý chỉ nhiệm mầu
của Bát Nhã bắt đầu từ lúc ấy.
GHI CHÚ
(1) Tác giả cũng theo sư học
thiền và được ngộ.
GIẢI ĐỀ :
Bát Nhã dịch là Trí Huệ,
là thật trí của pháp thân do chư Phật khế ngộ. Trong kinh
nói: Trí huệ của chư Phật thâm sâu vô lượng, sự nhiệm
mầu trong pháp giới phải nhờ trí nầy chiếu soi, nên gọi
là Căn bản trí. Tam thừa đều lấy trí nầy làm nhân mà
được chứng quả, vì tâm chấp lớn nhỏ bất đồng nên
sự chứng có cao thấp, chỉ có Phật mới đạt đến cùng
tột.
Hai Luận Vật Bất Thiên và
Bất Chân Không ở trước hiển bày chánh lý bất nhị của
Chân Đế và Tục Đế, ấy là cảnh sở quán. Nay lấy Bát
Nhã làm trí năng quán, là dùng sự vô tri của Bát Nhã để
chiếu soi sự bất nhị của trung đạo, tạm lập Bát Nhã
làm nhân, chứng được bất sanh bất diệt của Niết Bàn
làm quả, nên gọi là Như Lai vậy. Nhưng Bát Nhã chỉ có một
mà dụng lại có ba :
l.- Thật tướng Bát Nhã: vì
Bát Nhã là thật tướng của các Pháp.
2.- Quán chiếu Bát Nhã : tức
là thật trí nhiệm mầu của trung đạo để chiếu soi lý
nhiệm mầu của trung đạo. Lý và Trí đồng một, bình đẳng
nhất như, nên lý và sự song dung, quyền trí và thật trí
cùng hiển bày cũng gọi là nhị trí.
3.- Văn tự Bát Nhã: vì ngôn
giáo của chư Phật đều xuất phát từ Bát Nhã, nên mỗi
văn tự đều hiễn bày tổng trì (tổng nhất thiết pháp,
trì nhất thiết nghĩa) ấy là muốn nhờ văn tự để sáng
tỏ Bát Nhã.
Sự "vô tri" có hai nghĩa :
l.- Lìa vọng : nói là vốn
chẳng có sự tri mê lầm.
2.- Hiển chân : có ba nghĩa
:
a) Là bổn giác lìa niệm,
linh tri tự chiếu, tri tức là vô tri.
b) Là thủy giác vô tri (thủy
giác: giác đầu tiên), nói thấu suốt nhiệm mầu, quên cả
chiếu soi, sự đại dụng chẳng cần tác ý nên không có sở
tri để đối đãi.
c) Là văn tự tánh không, chẳng
phải tri và bất tri. Dù nói nghĩa có ba, nhưng chẳng phải
khác biệt bởi vì chân đế vô tướng, bặt tri kiến, tuyệt
chiếu soi, thể dụng của chiếu soi độc lập, chẳng có đối
đãi, ấy là nghĩa vô tri vậy!
CHÁNH VĂN
Sự linh động nhiệm mầu của
Bát Nhã là tông thể (căn bản) cùng cực của tam thừa. Kỳ
thực chân tâm bất nhị, chẳng có sai biệt, nhưng vì những
kẻ ham chấp dị kiến, tự lập tông phái để luận bàn,
cho nên từ lâu nay đã làm cho tà kiến lan tràn khắp nơi.
Diệu trí của bậc thánh nhiệm
mầu vi ẩn, thâm sâu khó hiểu, vô tướng vô danh, lời nói
chẳng thể diễn đạt được, tôi nay lấy lòng thành cả
gan mượn lời nói để luận bàn thôi, chứ thực không dám
nói rằng chân tâm của bậc thánh có thể tả ra được.
Kinh Phóng Quang nói : "Bát Nhã
chẳng có tướng sở hữu, chẳng có tướng sanh diệt". Kinh
Đạo Hạnh nói: "Bát Nhã vô sở tri, vô sở kiến". Đây là
muốn tỏ rõ sự chiếu dụng của diệu trí. Tại sao lại
nói vô tướng vô tri? Vì quả thật có cái tri của vô tướng
và có cái chiếu dụng của vô tri rõ ràng. Tại sao vậy? Vì
có sở tri thì có sở bất tri, mà chân tâm của bậc thánh
vô tri nên chẳng có chỗ bất tri, tri của bất tri mới được
gọi là nhất thiết tri, nên kinh nói: "chân tâm của bậc thánh
chẳng có chỗ tri, chẳng có chỗ bất tri" là đáng tin vậy.
Lại sự chiếu dụng của Bát
Nhã không cần tác ý, cho nên chân tâm của bậc thánh nếu
trống rỗng trong sạch được chừng nào, thì sự chiếu dụng
đầy đủ chừng nấy, do đó suốt ngày tri mà chưa từng tri
là vậy.
Thật trí chứng lý bên trong,
ánh sáng tiềm ẩn mà quyền trí luôn luôn hiện ra sự ứng
cơ hóa độ bên ngoài. Vì vô tri thì tâm được trống rỗng,
tự nhiên đạt đến chiếu soi nhiệm mầu, lấp bít tâm trí
thông minh mà sự độc giác lại âm thầm cùng khắp nơi, thành
ra chẳng có chỗ bất tri là nghĩa đây vậy.
Nguyên thật trí có cái chiếu
soi nhiệm mầu mà vô tri, quyền trí có công dụng ứng cơ
hóa độ mà không qua sự tác ý. Dụng của quyền trí chẳng
cần tác ý nên được siêu việt trên thế tục, thật trí
chứng lý mà vô tri nên được chiếu soi nhiệm mầu thấu
qua ngoài sự vật. Thật trí dù thấu qua ngoài sự vật chẳng
phải là vô sự; quyền trí dù siêu việt thế tục mà suốt
ngày ở trong thế gian. Cho nên quyền trí tùy cơ hóa độ vô
biên chúng sanh mà chẳng thấy lao nhọc; sự chiếu soi của
thật trí dù sáng tỏ khắp pháp giới mà không có công chiếu,
vì cái tri của vô tri là đã âm thầm dung hợp với tâm thần
diệu của bậc thánh rồi.
Cái dụng của Bát Nhã chân
thật mà bản thể trống rỗng, bản thể trống rỗng mà sự
dụng vẫn chẳng phải không, sự dụng vốn thường còn mà
không thể luận bàn nghĩ ngợi, ấy là diệu trí của bậc
thánh vậy. Tại sao? Muốn nói nó có, thì vô hình vô danh;
muốn nói nó không thì bậc thánh chiếu soi vạn vật, sự
ứng cơ nhiệm mầu linh động. Bậc thánh ứng cơ nhiệm mầu
linh động nên trống rỗng mà chẳng lìa chiếu soi; vô hình
vô danh nên chiếu soi mà chẳng lìa trống rỗng. Chiếu soi
chẳng lìa trống rỗng nên quyền trí lẫn lộn trong vạn vật
mà bản thể trạm nhiên chẳng biến đổi; trống rỗng mà
chẳng lìa chiếu soi nên thật trí chứng lý tịch diệt mà
chẳng bỏ chúng sanh.
Như thế, trí dụng của bậc
thánh chẳng bao giờ tạm ngưng, mà muốn tìm ra hình tướng
thì không khi nào có thể được. Nên Kinh Bảo Tích nói: "Vì
vô tâm (chẳng tác ý) mà được sự hiện hành". Kinh Phóng
Quang nói: "Bất động đẳng giác mà kiến lập các pháp".
Vì thế, sự tích của bậc
thánh dù có muôn điều nhưng ý nghĩa chỉ là một mà thôi.
Nên Bát Nhã có thể trống rỗng mà chiếu soi, chân đế có
thể tịch diệt mà hiểu biết, vạn vật có thể náo động
mà ngay đó thường tịch, sự ứng cơ của bậc thánh có thể
trống rỗng mà vẫn làm thành, vậy thì chẳng biết mà tự
biết, chẳng làm mà tự làm. Lại còn muốn biết cái gì nữa?
Muốn làm cái gì nữa?
VẤN NẠN RẰNG
:
-
Chân tâm của bậc thánh tự sáng
tỏ nên được chiếu soi vạn vật, ứng cơ giáo hóa khắp
nơi, sự hành động đều thích ứng với căn cơ. Chiếu soi
vạn vật nên sự hiểu biết chẳng có chỗ thiếu sót; hành
động thích ứng với căn cơ nên sự thích ứng chẳng sai
với căn cơ. Sự thích ứng chẳng sai với căn cơ nên phải
có căn cơ để cho thích ứng; sự hiểu biết chẳng có thiếu
sót nên phải có chỗ hiểu biết để cho biết. Có chỗ hiểu
biết để cho biết nên sự hiểu biết của bậc thánh chẳng
phải vô tri; có căn cơ để cho thích ứng nên sự ứng cơ
của bậc thánh chẳng phải trống rỗng. Đã có tri có ứng
mà tại sao lại nói vô tri vô ứng ? Nếu nói quên tri quên
ứng thì đó chỉ là vì bậc thánh không ngã chấp, có tri
có ứng mà không cho là tri là ứng của mình mà thôi! Ấy
chỉ có thể nói : "Chẳng tự cho là có cái tri", chớ có phải
là vô tri đâu?
ĐÁP RẰNG :
Công đức của bậc thánh cao
hơn trời đất mà bất nhơn (1), sáng hơn nhật nguyệt mà
lại càng lu mờ (chẳng cần tác ý mà hiểu biết, nên nói
là càng lu mờ), chứ đâu phải vô tri như gỗ đá! Kỳ thật,
khác với phàm phu bởi do trí huệ sáng tỏ thần diệu nên
chẳng thể theo sự tướng để tìm cầu vậy.
Ý vấn nạn cho rằng "bậc
thánh chẳng tự khoe cái tri mà bậc thánh chưa từng chẳng
có tri" ấy là trái với chân tâm của bậc thánh, mất hết
ý chỉ của lời văn.
Tại sao? Trong kinh nói : "Chân
Bát Nhã thanh tịnh như hư không, vô tri vô kiến, vô tác vô
duyên", ấy thì sự tri tự nhiên vô tri vậy, đâu phải đợi
tiêu diệt cái tâm linh minh rồi mới là vô tri! Nếu nói "Hữu
tri tánh không" mà gọi là thanh tịnh thì chẳng phân biệt
được với cái tri mê hoặc của phàm phu. Bởi vì phiền não
cũng là tánh không, cũng đều thanh tịnh thì đâu cần phải
độc tôn nơi Bát Nhã? Nếu lấy sở tri để tán thán Bát
Nhã thì sở tri chẳng phải Bát Nhã, vì Bát Nhã chẳng có
năng sở. Nếu nói tự tánh của sở tri luôn luôn thanh tịnh,
thì Bát Nhã chưa từng thanh tịnh. Hễ có thanh tịnh thì phải
có ô uế, tức còn đối đãi; thành ra cũng không thể lấy
sự thanh tịnh tán thán Bát Nhã. Nhưng kinh nói : "Bát Nhã thanh
tịnh" là vì thể tánh của Bát Nhã chân tịnh, vốn chẳng
lấy cái tri mê lầm.
Vốn chẳng có cái tri mê lầm
nên chẳng thể gán cho cái tên là "Tri" vậy, đâu phải vô
tri mới gọi là vô tri, sự chân tri tự là vô tri đó! Cho
nên bậc thánh lấy vô tri của Bát Nhã chiếu soi cái vô tướng
của chân đế, chân đế chẳng có dấu vết nào thiếu sót,
sự chiếu soi của Bát Nhã không chỗ nào chẳng cùng tột.
Do đó, ứng cơ mà chẳng sai, gặp việc nào cũng đúng lý
mà chẳng có chỗ để thấy đúng, nên trống rỗng vô tri
mà chẳng có chỗ bất tri là vậy.
GHI CHÚ :
-
Đại nhơn bất nhơn: nhơn là
thương mến, sự thương mến của bậc thánh bình đẳng, cùng
khắp mọi chúng sanh, vậy thì đâu còn thấy một chúng sinh
nào được thương mến nữa, cho nên nói "Đại nhơn bất nhơn"
là vậy.
VẤN NẠN RẰNG :
Sự vật vốn chẳng tự thông
đạt được, nên phải lập danh để sự vật được thông
đạt. Sự vật dù chẳng phải danh mà quả thật có sự vật
xứng với danh này để lập danh; cho nên theo danh mà tìm sự
vật, sự vật chẳng thể ẩn dấu, mà luận nói: "Chân tâm
của bậc thánh vô tri", lại còn nói "chẳng có chỗ bất tri",
ý nói "vô tri chưa từng tri, tri chưa từng vô tri", ấy là
sự thông đạt của ngôn giáo, và cũng là bản ý của lập
ngôn rồi! Nhưng Luận nói "chân tâm của bậc thánh là một
mà ý chỉ của lời văn thì nhiều khác biệt".
Vậy theo lời văn để tìm
sự thật thì chưa thấy có chỗ đúng. Tại sao? Nếu "Tri"
là hợp với chân tâm của bậc thánh thì khỏi cần nói là
vô tri; nếu "Vô tri" hợp với chân tâm của bậc thánh thì
cũng chắng cần nói tri, nếu cả hai đều chẳng hợp thì
còn gì đâu để luận bàn nữa?
ĐÁP RẰNG :
Trong kinh nói : "Ý nghĩa của
Bát Nhã vô danh vô thuyết, phi hữu phi vô, phi thực phi hư;
hư chẳng lìa chiếu, chiếu chẳng lìa hư". Vậy thì giáo pháp
vô danh, cho nên lời nói chẳng thể nói được. Dù lời nói
chẳng thể nói, nhưng không có lời nói thì chẳng thể truyền
giáo pháp được, cho nên bậc thánh suốt ngày nói mà chưa
từng nói là vậy! Nay vì ông mà tôi cả gan nói thử : chân
tâm của bậc thánh vi diệu vô tướng nên chẳng thể cho là
"có"; luôn luôn chiếu dụng nên chẳng thể cho là "không".
Chẳng thể cho là "không" nên
diệu trí của bậc thánh thường còn, chẳng thể cho là "có"
nên ngôn ngữ của giáo lý dứt bặt, cho nên nói "Tri" chẳng
nói là tri, mà chỉ muốn thông đạt sự chiếu soi; "Bất tri"
chẳng nói là bất tri, mà chỉ muốn tỏ cái tướng mê lầm.
Tỏ tướng mê lầm, chẳng phải là "không", thông đạt chiếu
soi, chẳng phải là "có"; "phi hữu" nên tri mà vô tri, "phi vô"
nên vô tri mà tri. Cho nên, tri tức là vô tri, vô tri tức là
tri, chớ nên vì lời nói khác biệt mà làm cho chân tâm của
bậc thánh cũng khác biệt theo.
VẤN NẠN RẰNG :
Chân đế thâm sâu nhiệm mầu,
kẻ vô trí chẳng thể suy lường được, cái năng lực của
thánh trí do đây mà hiển bày. Nên kinh nói : "Chẳng được
Bát Nhã thì chẳng thấy chân đế, chân đế là duyên của
Bát Nhã". Lấy duyên để tìm trí thì trí là tri rồi, tại
sao nói vô tri?
ĐÁP RẰNG :
Lấy duyên tìm trí, trí chẳng
phải tri. Tại sao? Kinh Phóng Quang nói : "Chẳng duyên sắc mà
sanh thức nên gọi là chẳng thấy sắc". Lại còn nói "Vì
ngũ ấm thanh tịnh nên Bát Nhã thanh tịnh". Bát Nhã tức là
năng tri, ngũ ấm tức là sở tri. Sở tri tức là duyên, năng
tri với sở tri đối đãi nhau mà "có", đối đãi nhau mà "không".
Đối đãi nhau mà "không" nên
tâm và cảnh "chẳng có"; đối đãi nhau mà "có" nên tâm và
cảnh "chẳng không". "Tâm và cảnh chẳng không" là chưa quên
được tâm cảnh, nên mới có nhân duyên sanh khởi; "tâm và
cảnh chẳng có" là tâm cảnh đều quên, nên nhân duyên chẳng
thể sanh khởi. Duyên chẳng thể sanh khởi vì chân trí lìa
duyên, nên chiếu duyên mà chẳng phải tri; vì nhân duyên sanh
khởi nên biết nhân duyên đối đãi mà sanh; cho nên, tri với
vô tri sanh nơi sở tri.
Tại sao? Trí vì tri sở tri,
chấp tướng nên gọi là tri; chân đế vốn vô tướng, chân
trí làm sao tri? Như thế sở tri chẳng phải sở tri, vì sở
tri sanh nơi tri. Sở tri đã sanh tri, tri cũng sanh sở tri, năng
sở đã tương sanh với nhau tức là nhân duyên; nhân duyên
nên chẳng thật, chẳng thật nên chẳng phải chân đế vậy!
Trung Quán Luận nói : "Vật
do nhân duyên sanh nên chẳng thật, chẳng do nhân duyên sanh
nên tức là chân". Nay chân đế nói chân, chân thì chẳng phải
nhân duyên.
Chân chẳng phải nhân duyên
vì không có vật nào do phi duyên mà sanh được, nên Kinh nói
"chẳng thấy có pháp nào không duyên mà sanh".
Vì thế, chân trí quán chân
đế chưa từng lấy sở tri. Trí chẳng lấy sở tri, trí nầy
do đâu tri. Nhưng trí chẳng phải vô tri, vì chân đế chẳng
phải sở tri nên chân trí cũng chẳng phải tri, mà ông muốn
lấy duyên để tìm trí, nên cho trí là tri, duyên vốn chẳng
phải duyên, ở đâu mà tìm tri?
VẤN NẠN RẰNG :
Luận nói : "chẳng chấp lấy",
là khi vô tri chẳng chấp lấy hay là tri rồi chẳng chấp lấy?
Nếu vô tri nên chẳng chấp lấy thì bậc thánh tối mò như
đi chơi đêm, chẳng phân biệt được trắng đen có khác;
nếu tri rồi mới chẳng chấp lấy thì cái tri đã khác với
chẳng chấp lấy rồi?
ĐÁP RẰNG :
Chẳng phải vô tri mà chẳng
chấp lấy cũng chẳng phải tri rồi mới chẳng chấp lấy,
ngay chỗ tri tức là chẳng chấp lấy, nên được chẳng chấp
lấy mà tri.
VẤN NẠN RẰNG :
Luận nói chẳng chấp lấy,
kỳ thật vì chân tâm của bậc thánh chẳng chấp lấy vật
nơi vật, nên không có sự chấp lấy mê lầm. Chẳng chấp
lấy thì chẳng có tâm nhận vật, chẳng có tâm nhận vật
thì chẳng có cơ để ứng, vậy thì còn có cơ nào để ứng
với chân tâm của bậc thánh? Thành ra đoạn diệt rồi, mà
sao lại nói chân tâm của bậc thánh chẳng có chỗ bất tri.
ĐÁP RẰNG :
Phải vậy! Chẳng có tâm nhận
vật thì chẳng có cơ để ứng; chẳng có cơ để ứng thì
không cơ nào chẳng được ứng. Ứng là tâm, cơ là cảnh,
nếu có một cảnh ứng với tâm thì chân tâm bị kẹt mà
chẳng thông (có sở trụ), nếu chẳng có cảnh ứng với tâm
thì cảnh tịch tâm không, chân tâm được chánh biến tri (chẳng
có chỗ bất tri) nên không có cơ nào chẳng được ứng.
Không có tâm nhận vật thì
tâm không, tâm không thì cảnh tịch; tâm không cảnh tịch
thì mỗi pháp đều chân, nên chẳng có vật nào mà không nhận
ra được. Chẳng có vật nào không nhận ra được, nên nhận
mà chẳng thấy nhận, chẳng có cơ nào không được ứng,
nên ứng mà chẳng thấy ứng. Vì thế Kinh nói: "Thấy tất
cả các pháp mà chẳng có sở thấy" là vậy.
VẤN NẠN RẰNG :
Chân tâm của bậc thánh chẳng
phải không thể nhận vật, thật là không có tâm nhận vật
mà nhận được vật. Dù không có tâm nhận vật mà nhận
được vật, nên phải nhận vật nơi không có tâm nhận (lầm
tưởng lọt vào "không"). Cho nên Kinh nói : "Chân đế vô tướng
nên Bát Nhã vô tri", thật là Bát Nhã chẳng có cái tri hữu
tướng. Nếu lấy vô tướng làm vô tướng thì đâu có tổn
hại cái nghĩa của chân đế? (1)
GHI CHÚ :
(1) Người vấn nạn chẳng
thông đạt được chân tri độc chiếu của Bát Nhã, nên cho
sự tuyệt vô là Bát Nhã.
ĐÁP RẰNG :
Bậc thánh chẳng có sự vô
tướng (không có tướng để vô). Tại sao? Nếu lấy vô tướng
làm vô tướng thì vô tướng tức là tướng, (chấp vô tướng
thì vô tướng cũng là tướng). Bỏ "có" mà vào "không", cũng
như tránh chết đuối mà nhảy vào lửa, đều chẳng khỏi
tai họa.
Chân tâm của bậc thánh vô
trụ, đâu có giống như thế! Cho nên chí nhân ở nơi hữu
mà "chẳng có", ở nơi vô mà "chẳng không"; dù chẳng chấp
"có, không", nhưng cũng chẳng lìa "có, không" cho nên "hòa quang
đồng trần" (thánh trí ẩn trong trần lao), không có chúng
sanh để độ mà độ chúng sanh trong lục đạo;
Tịch nhiên mà đi, chẳng động
bản thể mà ứng hiện tất cả; trống rỗng mà đến, muôn
triệu biến hóa mà tâm vô sở trụ. Bậc thánh lấy vô trụ
làm tâm, nên vô vi mà vô sở bất vi là vậy.
VẤN NẠN RẰNG :
Chân tâm của bậc thánh dầu
vô tri, nhưng cái đạo ứng cơ hóa độ chẳng sai, cho nên
cái cơ có thể ứng thì ứng, cái cơ chẳng thể ứng thì
để lại. Thế thì chân tâm của bậc thánh có khi sanh, có
khi diệt, há có thể được ư?
ĐÁP RẰNG :
Nói "sanh diệt" là sanh diệt
của phàm phu, bậc thánh vô tâm thì sanh diệt làm sao sanh khởi
được? Nhưng chẳng phải vô tâm như gỗ đá, chỉ là vô
cái tâm sanh diệt mà thôi! Lại cũng chẳng phải không có
ứng cơ, chỉ là tùy duyên mà ứng, vốn chẳng có tác ý muốn
ứng cơ vậy.
Cho nên cái đạo ứng cơ của
bậc thánh, cũng như tiếng dội trong hang, tùy theo thật chất
của tứ thời mà ứng cơ chẳng sai, vì lấy trống rỗng làm
thể nên chẳng thể sanh, cũng chẳng thể diệt vậy.
VẤN NẠN RẰNG :
Sự vô của thật trí và sự
vô của quyền trí đều chẳng sanh diệt thì đâu có chỗ
nào khác biệt?
ĐÁP RẰNG :
Sự "vô" của thật trí là
"vô tri", còn sự "vô" của quyền trí là "tri vô". Nói "vô"
dù là đồng, nhưng cái ý chỉ của vô thì khác. Tại sao?
Vì chân tâm của bậc thánh hư tịnh, chẳng có tri để vô,
nên gọi là "vô tri", chẳng thể nói "tri vô"; quyền trí có
tri, là có tri để vô, nên gọi là "tri vô", chẳng được
nói "vô tri" vậy! Vô tri tức là cái vô của Bát Nhã, tri vô
tức là cái vô của Chân Đế. Cho nên, Bát Nhã với Chân Đế
nói về dụng thì đồng mà khác; nói về tịch thì khác mà
đồng. Vì "đồng" nên vô tâm (vô tác ý) nơi tâm và cảnh,
vì "khác" nên chẳng mất cái công dụng chiếu soi. Cho nên
nói "đồng" là đồng chỗ chẳng đồng; nói "khác" là khác
chỗ chẳng khác; thế thì "khác" chẳng thể cho là khác, "đồng"
cũng chẳng thể cho là đồng vậy.
Tại sao? Bên trong có cái sáng
của tự chiếu soi, bên ngoài có sự chân thật của vạn pháp.
Vạn pháp dầu thật mà không chiếu soi thì chẳng được cái
thật, trong và ngoài cùng nhau mới thành cái công dụng chiếu
soi, thế thì sự dụng của bậc thánh chẳng thể đồng là
vậy. Bên trong dầu chiếu soi mà vô tri, bên ngoài dầu chân
thật mà vô tướng. Trong và ngoài tịch nhiên, cả hai đều
không, thế thì cái tịch của bậc thánh chẳng thể khác là
vậy. Cho nên Kinh nói : "Các pháp không có sai biệt", đâu phải
dời chỗ gò cao, lấp bằng trũng thấp rồi mới cho là chẳng
khác? Kỳ thật vì chẳng khác ở nơi khác nên dù khác mà
chẳng khác vậy. (1) Chớ nên thấy cảnh khác mà cho là tâm
cũng khác. Nên kinh nói : "Lạ thay, Thế Tôn! Ở trong pháp không
khác mà nói các pháp có khác". Lại còn nói : "Bát Nhã nơi
các pháp chẳng phải một tướng, cũng chẳng phải khác tướng"
là đáng tin vậy.
GHI CHÚ :
(1) Tự tánh bất nhị. Nếu
có "đồng" là nhị; có "khác" cũng là nhị.
VẤN NẠN RẰNG :
Luận nói : "Nói về dụng thì
khác, nói về tịch thì đồng", chưa rõ ở trong Bát Nhã có
sự dụng và tịch khác nhau chăng?
ĐÁP RẰNG :
Dụng tức là tịch, tịch tức
là dụng; dụng và tịch thể tánh là một, cùng xuất phát
từ một tâm, nhưng tên gọi thì khác nhau; thật ra thì chẳng
có cái tịch của vô dụng để làm thành sự dụng. Cho nên
thật trí càng lu mờ thì sự chiếu soi càng sáng tỏ; quyền
trí càng vắng lặng thì sự ứng cơ càng linh động, đâu
phải vì lời nói sáng tối và động tịnh mà sanh ra sự khác
biệt? Nên Kinh Thành Cụ nói : "Chẳng làm mà siêu việt sự
làm".
Kinh Bảo Tích nói : "Vô tâm
vô thức, nên chẳng có chỗ nào chẳng được tri". Ấy là
quyền trí ứng cơ đến cùng tột, thật trí chiếu lý đến
cứu cánh. Quả thật là lời nói diễn tả thấu suốt ra ngoài
hiện tượng vậy. Dựa theo lời văn sáng tỏ của các kinh
thì có thể rõ được chân tâm của bậc thánh rồi.
THƯ CỦA LƯU DI DÂN
(Ngài Huệ Viễn, sơ tổ của
Tịnh Độ Tông, sau khi đọc bài Bát Nhã Vô Tri Luận, có tán
thán rằng "xưa nay chưa từng có". Nhưng cảm thấy trong Luận
còn nhiều điều thắc mắc chưa thông, nên có sai cư sĩ Lưu
Di Dân, là vị đệ tử thượng thủ viết thư gởi cho Ngài
Tăng Triệu để tham vấn đồng thời cũng có ý vấn nạn).
(Lược bỏ phần thăm hỏi,
ở đây chỉ dịch phần vấn nạn).
Chánh lý tinh vi thì lời văn
kỳ hiểm, âm điệu quá cao thì người xướng họa rất ít,
nếu chẳng phải hạng người siêu việt ngôn ngữ, quên lời
được ý thì sẽ chấp vào lời nói mà trái ngược với chánh
lý.
Lời đáp trong bài Luận Bát
Nhã Vô Tri, về đoạn lấy duyên để tìm trí, ý nghĩa tỏ
ra thật uyển chuyển cùng tột, cực kỳ tinh xảo, chẳng có
kẽ hở. Nhưng kẻ chưa thấu lý thì khó mà hiểu được,
nay còn có một hai chỗ chưa hiểu rõ, xin kể ra trong thư viết
riêng kèm theo đây, nếu Ngài được rảnh rỗi thì giải thích
cho.
Trong Luận nói : "Thể tánh
của Bát Nhã phi hữu phi vô, hư chẳng lìa chiếu, chiếu chẳng
lìa hư, nên nói chẳng động đẳng giác mà kiến lập các
pháp".
|