|
X
QUI
SƠN CẢNH SÁCH
Thiền
Sư Linh Hựu
Hòa Thượng
Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần
12
Chánh
Văn:
“Bất
khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích
quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín
thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lụy chuyển thâm, tâm
trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi”.
Dịch:
Chẳng
nên thong thả qua ngày, ngẩn ngơ hết buổi. Thì giờ đáng
tiếc sao chẳng cầu tu tiến. (Như thế thật là) luống hao
của tín thí, cũng là cô phụ bốn ân. Tích chứa càng nhiều
tâm trần dễ lấp, gặp việc ngăn bít, bị người chê cười.
Giảng:
“Bất
khả đẳng nhàn quá nhựt, ngột ngột độ thời”. Tổ quở
chúng ta không nên lửng lơ thong thả qua ngày, ngây thơ cho
hết tháng. Chữ “ngột ngột” có chỗ dùng để chỉ cho
người trong lòng không còn một chút kiến giải nào tâm nhất
như, người này cũng ngáo nhưng không phải là cái ngơ ngơ
ngáo của người không hiểu đạo lý. Còn ở đây Tổ dùng
chữ “ngột ngột” để chỉ cho người lo ăn chơi theo thế
tục, cứ ngơ ngơ để ngày tháng trôi qua vô ích.
“Khả
tích quang âm bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương
tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân”. Chúng ta phải biết quý
tiếc thời giờ mà nổ lực tiến tu. Nếu không thì đã luống
tiêu hao của tín thí mà cũng là cô phụ bốn ân.
“Tích
lụy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ,
nhân sở khinh khi”. Tích chứa tiền của càng nhiều thì tâm
dễ bị bụi trần che lấp. Như khi chúng ta không có một xu
dính túi thì đâu có nghĩ gì, nếu có ai cho vài ngàn thì lúc
đó nghĩ phải mua gì đây? Tức vọng tưởng dấy lên. Tiền
ít thì vọng tưởng ít, tiền nhiều thì vọng tưởng càng
nhiều. Người có bạc tỷ thì thật khó tu vì phải nghĩ làm
sao cho khỏi mất mát, làm sao để sanh lợi? Tâm lúc nào cũng
bất an, tức đã bị bụi trần phủ che. Nên người nào chứa
nhóm càng nhiều thì càng bị chướng ngại, đối với việc
Phật pháp không sáng tỏ được. Tuy có tiền của nhiều,
song vẫn bị người khinh vì tu mà đạo lý không biết gì
cả. Đến đây Tổ lại an ủi:
Chánh
Văn:
“Cổ
vân: Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi
thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm
nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích”.
Dịch:
Người
xưa nói: Kia trượng phu ta đây cũng thế, chớ tự khinh mình
mà lui sụt. Nếu chẳng như thế, luống ở trong cửa đạo
dần dà hết một đời, trọn không có lợi ích.
Giảng:
“Bỉ
ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh khi thoái khuất”.
Trong kinh A Hàm có kể chuyện Ngài La Hầu La, Ngài đi tu lúc
còn bé, nên hơi khỉ. Có lần thấy các vị Tỳ Kheo ngủ,
Ngài đến chọc léc. Các Tỳ Kheo mách lên Phật, Phật quở:
-Sao
ông không học theo những vị trưởng lão đằm thắm nghiêm
chỉnh, lại đi trửng giỡn như thế?
La
Hầu La thưa:
-Bạch
Thế Tôn, con đâu dám bì với các hàng Trưởng lão.
Phật
dạy:
“Kia
là trượng phu, mình cũng thế. Cớ sao lại tự khinh mình,
lại có những tánh xấu như vậy?”
Từ
đó, câu “ Bỉ ký Trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự
khinh nhi thoái khuất” luôn được nhắc nhở đến. Chúng
ta thường có cái bịnh là tự ti mặc cảm. Nghe nói đến
Phật thì tưởng như Phật ngồi trên mây cao, còn mình thì
ở dưới đất. Biết thế nên Phật đã hạ thấp Ngài xuống
để hòa với chúng ta và bảo: “Ta là Phật đã thành, các
ngươi là Phật sẽ thành”. Tức Phật đã nâng chúng ta lên
mà chúng ta vẫn không dám, nên xem chuyện thành Phật quá cao
xa, không làm nổi. Tu là tu vậy, chớ không dám tin là mình
sẽ thành Phật. Cứ thầm tưởng như vậy nên thay vì cố
gắng mười phần chỉ ráng năm, sáu phần thôi. Như anh học
trò sắp thi Tú Tài mà lại mang mặc cảm là sẽ rớt, nên
đến trường học cầm chừng thôi, bạn bè có rủ đi chơi
liền đi. Từ ý niệm thiếu tự tin dẫn đến bê tha. Nếu
anh đinh ninh thế nào cũng đậu thì sẽ cố học, ai rủ ren
cũng không đi chơi, nhờ thế mà trong suốt niên học siêng
năng cần mẫn. Vậy bê tha hay cần mẫn đều do tự tin hay
không tự tin. Hiện nay đại đa số người tu chúng ta hầu
như mất tự tin. Vì nghĩ mình tu không thành Phật nên thôi
thong thả tu, chớ cố gắng làm chi cho nhọc. Có ai rủ đi
giải trí thì đi cho khuây khỏa một chút, chắc cũng không
phạm tội gì. Cứ thế từ lỗi nhỏ dẫn dần đến lỗi
lớn, rồi càng ngày càng xa đạo. Gốc là do thiếu tự tin.
Trong
kinh Pháp Hoa có phẩm đáng chú ý là phẩm Thường Bất Khinh
Bồ Tát. Bồ Tát Thường Bất Khinh thường làm một việc
có vẻ như đùa, đến đâu gặp ai, Ngài cũng nói: “Tôi không
dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều có khả năng thành Phật”.
Ngài không tu hành gì hết, chỉ thường nói một câu ấy thôi,
thế mà Phật kết luận rằng: “Thường Bất Khinh Bồ Tát
là tiền thân của ta, nhờ tu hạnh ấy mà bây giờ ta được
thành Phật. Còn những người mà ta gieo hạt giống thời đó,
hiện tại đang ở trong hội chúng đây, có người là Bồ
Tát, có người là La Hán”. Như vậy chỉ một câu nói “Tôi
không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều sẽ thành Phật”,
mà quan trọng vô cùng. Câu nói này đã gieo vào lòng người
một niềm tin, tin mình có hạt giống Phật. Chủ yếu của
kinh Pháp Hoa là ở phẩm này. Chỉ vì chúng ta mất niềm tin,
nên đối với quả Phật cảm thấy vô phần, trong khi mỗi
người chúng ta đều có Phật tánh. Mà đã có hạt giống
Phật thì quyết định sẽ có ngày thành Phật. Nên ở trên
Tổ đã nói: “Phật giai quyết định khả kỳ” tức quả
Phật chắc chắn sẽ có ngày thành tựu. Phật Tổ cũng là
người như chúng ta, nếu chúng ta đi đúng theo gót chân các
Ngài thì chúng ta cũng thành Phật thành Tổ. Nếu chúng ta chưa
ra gì mà tự xưng là Tổ thì đó là ngã mạn. Còn nói: “quyết
định sẽ thành Tổ”, thì đâu phải ngã mạn. Chúng ta nên
hiểu rõ như thế để cố gắng vươn lên.
“Nhược
bất như thử đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù
vô sở ích”. Nếu không được như vậy thì luống ở trong
dòng họ nhà tu, lơ lửng một đời trọn không có lợi ích.
Tới đây Tổ vừa nhắc nhở vừa quở rầy mà chúng ta đâu
đó vẫn y nguyên, mới biết mình nghiệp chướng thật sâu
dầy.
Chánh
Văn:
“Phục
vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử
thố khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh
tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức
ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh
tịch chỉ vị cửu trệ bất thông”.
Dịch:
Trông
mong (các ông) phát chí dũng mãnh, mở lòng rộng xa. Việc làm
phải noi gương hàng Thượng đức chớ học kẻ tầm thường.
Đời này tự mình quyết đoán, chẳng do người khác liệu
giùm. Dứt ý quên duyên, đừng với các trần làm bạn. Tâm
không cảnh lặng, chỉ vì hằng lâu ngăn trệ chẳng thông.
Giảng:
“Phục
vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài. Cử
thố khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh
tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân”. Tổ
trông mong chúng ta hãy khởi ý chí quyết liệt, mở tâm rông
rãi, phàm làm việc gì phải noi gương các bậc tiền bối
(Phật Tổ) chớ duyên theo những kẻ tầm thường. Đời này
phải chính mình lo giải quyết lấy việc sanh tử của chính
mình chớ trông cậy vào người khác. Như thế mới xứng đáng
và không uổng phí một đời tu. Tổ đã thúc đẩy mạnh mẽ
để chúng ta một bề thẳng tiến, kế đây Ngài dạy tu:
“Tức
ý vong duyên bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh tịch,
chỉ vị cửu trệ bất thông”. Dứt ý quên duyên đừng cùng
với trần cảnh làm đối đãi, tức “tâm cảnh không đến
nhau”. Chữ “cảnh tịch” ở đây có nghĩa tâm không duyên
theo cảnh. Nếu ở giữa chợ mà tâm không duyên theo cảnh
thì đó là “cảnh tịch”. Còn nếu ở núi non vắng vẻ
mà tâm cứ nhớ đây nhớ kia thì đó là cảnh ồn. Cảnh vắng
hay ồn là do tâm duyên hay không duyên vậy. Xưa nay, tâm vốn
rỗng rang, trần cảnh vốn lặng lẽ. Chỉ vì quên chơn theo
vọng lâu ngày bị các duyên che lấp, mất bản tâm khiến
phải lăng xăng trong sáu nẻo. Bây giờ chỉ cần dừng vọng
tưởng là dừng bước luân hồi. Đến đây Ngài nhắc:
Chánh
Văn:
“Thục
lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc
tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tỵ.
Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch
nhiên, khởi vô ưu cụ”.
Dịch:
Hãy
đọc kỹ văn này, thường tự nhắc nhở. Cố gắng làm chủ
chớ theo tình người. Nghiệp quả kéo lôi thật khó trốn
tránh. Tiếng hòa thì vang thuận; hình thẳng thì bóng ngay.
Nhân quả rõ ràng há không lo sợ.
Giảng:
“Thục
lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc
tuẫn nhân tình”. Tổ dạy chúng ta phải thường đọc lại
bản văn này cho thuộc lòng để luôn tự đánh thức mình.
Phải cố gắng tự chủ đừng chạy theo tình người. Tình
người là sao? Là nay, chỗ này thỉnh Thầy đi tụng giùm con
một thời kinh. Mai, chỗ nọ thỉnh Thầy đi cúng giùm con một
đám v.v…không đi sợ Phật tử buồn cứ như vậy xách gói
đi hoài thì làm sao có thì giờ để tu? Cho nên mình phải
tự chủ đừng chạy theo tình người, mới có thể tiến tu
được.
“Nghiệp
quả sở khiên, thành nan đào tỵ. Thanh hòa hưởng thuận,
hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ”,
một khi nghiệp quả đã buộc ràng thì khó mà trốn tránh.
Gây nhơn lành thì được quả tốt, cũng như tiếng êm ái
thì âm vang cũng nhẹ nhàng, hình ngay thì bóng thẳng. Nhơn
quả theo nhau rõ ràng như vậy. Nếu đời này tu hành chưa
giải thoát được thì biết chúng ta gây nhân gì phải gặt
quả nấy. Thế nên người biết tu phải dè dặt.
Chánh
Văn:
“Cố
kinh vân, giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong,
nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ”.
Dịch:
Cho
nên kinh nói: “Giả sử trăm nghìn kiếp, nghiệp đã tạo
không bao giờ mất. Nhân duyên khi gặp gỡ, quả báo lại phải
chịu.
Giảng:
Đây
là Tổ dẫn trong kinh Nhân Quả. Giả sử chúng ta đã tạo
nghiệp, dù trãi qua trăm ngàn kiếp, nghiệp đó cũng không
mất. Khi hội đủ duyên thì quả báo sẽ đến và chúng ta
phải nhận chịu. Đôi khi chúng ta tưởng những việc chúng
ta đã làm sẽ qua mất theo thời gian, nhưng thật sự nó không
mất mà âm hưởng vẫn còn. Như tiếng nói phát ra chúng ta
tưởng là mất, nhưng thật sự nó vang ra và còn lưu lại
đâu đó. Điều này bây giờ khoa học đã giúp chúng ta thấy
rõ. Những hành động của chúng ta cũng thế. Tuy nhiên, không
mất mà mất, mất mà không mất. Giả sử như khi chúng ta
có quyền thế, đối với những người xung quanh lắm lúc
ta có những lời lẽ hay hành động khinh miệt đối với họ.
Lúc đó tuy bên ngoài vì sợ uy lực của ta nên họ không dám
buồn trách, nhưng trong lòng họ nhớ mãi. Đến một ngày nào
đó, chúng ta sa cơ thất thế, người kia có uy thế hơn, bấy
giờ họ sẽ trả thù. Chừng ấy mới thấy nhơn quả rõ ràng.
Là người tu biết rõ lý nhân quả thì chúng ta phải dè dặt
từng hành động, từng lời nói vậy.
Chánh
Văn:
“Cố
tri tam giới hình phạt oanh bạn sát nhân. Nổ lực cần tu
mạc không quá nhật”.
Dịch:
Nên
biết, ba cõi hình phạt trói buộc hại người. Gắng sức
lo tu chớ luống qua ngày tháng.
Giảng:
Ba
cõi là chỗ chúng sanh thọ quả báo, nên nói: “Ba cõi hình
phạt”. Phiền não vọng tưởng là sợi dây trói buộc, là
giặc thù cướp mất huệ mạng (hay như trong nhà Thiền gọi
là “gia bảo”) của chúng ta, nên nói “trói buộc hại người”.
Đến đây Tổ kết thúc và nhắc nhở hết sức thiết tha.
Chánh
Văn:
“Thâm
tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách
kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết:”
Dịch:
Biết
rõ lỗi lầm nên mới khuyên nhau tu tập. Nguyện trăm kiếp
ngàn đời, chỗ chỗ cùng (nhau) làm bạn pháp, bèn làm bài
minh rằng:
Giảng:
Sở
dĩ Tổ khuyên như vậy, vì Ngài đã thấy rõ lỗi lầm đó
nên mới khuyên chúng ta tu tập theo lời Tổ dạy. Ngài nguyện
trăm kiếp ngàn đời nơi nơi chỗ chỗ đồng làm bạn pháp
với chúng ta để nhắc chúng ta cùng tu cùng sớm thành Phật
đạo. Và đây cũng là sở nguyện của tất cả người tu
vậy. Để toát yếu lại Ngài làm bài minh:
Chánh
Văn:
|