|
X
QUI
SƠN CẢNH SÁCH
Thiền
Sư Linh Hựu
Hòa Thượng
Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần
11
Chánh
Văn:
“Như
tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục. Diệc nãi thù
báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược năng bất thoái,
Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân,
xuất một vị tha tác tắc”.
Dịch:
Nếu
làm được như thế, mới thật không uổng mặc áo pháp, cũng
là đền đáp bốn ân cứu giúp ba cõi. Đời đời nếu không
thối chuyển thì quả Phật quyết chắc được nên. Làm người
khách qua lại trong ba cõi, ra vào làm phép tắc cho người.
Giảng:
Nếu
đi đúng đường lối Thiền Tông như trên, tức “ngộ thinh
ngộ sắc như thạch thượng tài hoa”, mới thật không uổng
mặc áo pháp trong nhà Phật. Chủ trương của chúng tôi ở
đây là ngu dân. Ngu dân bằng cách loại bỏ tất cả kiến
thức, vì còn kiến thức là còn vọng tưởng. Nếu khi ngồi
thiền nảy ra ý gì hay liền ghi thành sách, như thế thì chẳng
bao giờ vào cửa “pháp tánh châu lưu” được. Vì thế chúng
ta phải gan dạ loại bỏ các kiến thức tạp nhạp kia ra,
càng nhiều kiến thức càng tầm thường. Muốn vượt khỏi
sự tầm thường ấy thì chỉ nên đi thẳng theo một con đường
cho đến nơi đến chốn. Ví như, người đánh máy cũng biết,
đào mương cũng biết, hội họa cũng biết, làm bếp cũng
biết…cái gì cũng biết hết thì chắc chắn sẽ không giỏi
hẳn một môn nào. Người ấy chỉ có thể tùy thân hữu dụng
chứ không thể thành người tài giỏi được. Muốn thành
người tài giỏi thì phải bỏ hết mà chỉ chuyên một ngành
nào đó thôi. Tất cả kiến thức khôn ngoan của thế gian
hay trong đạo đều là vọng tưởng, chẳng phải là cái chơn
thật, đó chỉ là những hòn bọt ngoài bể cả nào có nghĩa
lý gì. Chúng ta phải gan dạ đập nát hết những hòn bọt
kia đi, mới thấy mình bất sanh bất diệt. Mới thấy được
cái diệu dụng khôn lường của mình và chừng đó mới có
khả năng gánh vác việc lớn, đỡ nâng Phật pháp.
Chánh
Văn:
“Thử
chi nhất học tối diệu tối huyền. Đãn biện khẳng tâm,
tất bất tương trám”.
Dịch:
Môn
thiền này rất diệu rất huyền. Chỉ cần có đủ quyết
tâm, mới biết Phật Tổ không dối.
Giảng:
Có
một thiền khách đến hỏi Thiền sư:
-Vì
sao nói “Như-Lai có mật ngữ mà không có mật tàng?” Thiền
sư liền đưa tay lên, hỏi:
-Hội
không?
-Thưa
không hội.
-Nếu
ông không hội thì Như-Lai có mật ngữ, nếu ông hội thì
Như-Lai có mật tàng.
Lại
nữa, một hôm ở trên hội Linh-Sơn Phật đưa cành hoa sen
lên, cả chúng hội đều ngơ ngác. Chỉ có Ngài Ca-Diếp đắc
ý chúm chím cười.
Điều
Phật muốn nói, muốn chỉ vượt ra ngoài tầm hiểu biết
theo vọng tưởng của mình, nên chúng ta nghe như bí mật. Vì
chúng ta không lãnh hội được nên thấy như Phật có “mật
tàng”. Còn đối với Ngài Ca-Diếp thì Như-Lai có mật ngữ,
song không có mật tàng. Khi chưa lãnh hội được thì nghi ngờ
lời Phật Tổ, khi lãnh hội được rồi thì hết nghi. Mới
thấy môn thiền này rất là diệu huyền. Ai tu thiền cũng
phải cố gắng mà nhận ra “cái chân thật” mới thấy Phật
Tổ không dối gạt mình. Nhất là quý vị đang nghi ngờ: nếu
dẹp hết kiến thức rồi còn gì? Chẳng lẽ tu rồi không
biết gì hết, cứ ngơ ngơ sao? Đừng lo chuyện ấy, chỉ lo
trong lòng chưa được trống không thôi. Chứ khi dứt hết
vọng tưởng điên đảo rồi thì: “bên này bên kia ứng dụng
không thiếu”, đừng lo đến đó rồi hết. Có lắm vị ngồi
Thiền được yên tĩnh giây lát, sanh nghi ngại: tới chỗ yên
rồi hết sao? Thật ra được yên chốc lát làm sao có diệu
dụng? Chừng nào đi, đứng, nằm, ngồi đều như như, như
Ngài Triệu Châu suốt ngày không có tạp niệm, trừ hai thời
cơm cháo là còn phải quán tưởng, thì chừng ấy mới “pháp
tánh châu lưu”. Còn chúng ta thì không yên được nữa ngày,
sáng cạo râu, trưa hớt móng tay, chiều sửa soạn đi dạo…chưa
có được 5 phút như như, thì làm thế nào có diệu dụng?
Chỉ khi không còn vọng tưởng mới thấy mình chẳng phải
là cái thân bé nhỏ mong manh này mà là cái bất diệt vĩnh
cửu. Đó là chỗ cứu kính của người tu. Đâu chỉ riêng
Thiền tông thấy như vậy mà bên Tịnh độ cũng thế. Trong
một buổi tiếp khách của một Thiền sư Nhật Bổn, có một
vi Tăng đến, Thiền sư hỏi:
-Thầy
tu pháp môn nào?
-Tôi
tu pháp môn Tịnh độ.
-Đức
A-Di-Đà bao nhiêu tuổi?
-Bằng
tuổi của tôi.
Câu
đáp này chứng tỏ vị Tăng đó đã nhập được pháp tánh,
không còn thấy Phật A-Di-Đà là một vị Phật ở cõi xa xôi
nào mà chính là tự tánh của mình nên mới nói: “Bằng tuổi
của tôi”. Nghe qua, thấy như ông Tăng này phạm thượng dám
so sánh tuổi mình bằng tuổi Phật, nhưng người thật tu,
hiểu thấu đáo rồi mới thấy đó là sự thật.
Sau
khi dạy tu Thiền xong Tổ e có người đối với giáo lý cao
siêu như thế không kham lãnh nổi, nên Ngài hạ xuống một
nấc, dạy phương pháp khác.
Chánh
Văn:
“Nhược
hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp
lưu tâm, ôn tầm bối diệp. Tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng
phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”.
Dịch:
Nếu
có kẻ bậc trung, chưa thể vượt qua được (phương tiện).
Thì phải, đối với giáo pháp lưu tâm, ôn tầm kinh luận.
Tinh thông nghĩa lý truyền bá mở mang, tiếp dẫn hậu lai,
báo ân đức Phật.
Giảng:
Nếu
người đốn siêu được thì ngay trong đời này có thể cứu
giúp chúng ta trong ba cõi đền đáp bốn ân. Còn chúng ta không
được như thế thì phải nghiên cứu kinh điển cho tinh thông
để đem ra truyền bá, hầu tiếp dẫn người sau, đáp đền
ơn Phật. Như thế cũng là tốt vậy.
Chánh
Văn:
“Thời
quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy
nghi, tiện thị tăng trung pháp khí”.
Dịch:
Thời
giờ chớ nên luống bỏ, phải dùng giáo pháp để phò trì.
Đi đứng oai nghi, mới là pháp khí Tăng bảo.
Giảng:
Nếu
chúng ta không phải là người nhất thời thấu suốt về thiền
thì cũng không nên luống bỏ thì giờ, bằng cách nghiên cứu
kinh điển cho thâm sâu để dạy dỗ người sau, giữ gìn nề
nếp, đi đứng oai nghi…Như vậy, cũng đã là mẫu mực cho
Tăng chúng và đền đáp ơn Phật rồi.
Chánh
Văn:
“Khởi
bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác
thắng nhân phương năng quảng ích”.
Dịch:
Há
chẳng thấy, dây sắn nương cây tùng mà vượt cao lên ngàn
trượng. Nương gá nhân lành thù thắng thì mới được lợi
ích rộng nhiều.
Giảng:
Đoạn
này ý nói dây sắn dây bìm nhờ nương quấn cây tùng mà vượt
lên cao ngàn trượng. Cũng vậy, chúng ta là kẻ tầm thường
thì phải nương nhờ kinh luật để tu. Vì sao? Vì kinh giáo
ví như chiếc bè để qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng.
Nương ngón tay mà thấy mặt trăng, nhân kinh mà ngộ được
bản tánh. Dầu cho đời này không tỏ ngộ được thì cũng
chứa nhóm thiện căn, nuôi dưỡng hạt giống Phật. Đồng
thời nghiên cứu kinh điển mới nắm vững đường lối tu
để hướng dẫn cho người khiến cho mọi người cũng bớt
khổ được vui. Thế nên người tu phải khéo léo linh động
để được lợi ích cho mình và cho người.
Chánh
Văn:
“Khẩn
tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh, thù diệu nhơn
quả”.
Dịch:
Phải
nên thiết tha tu hành trai giới cho thanh tịnh, chớ nên khinh
dối bỏ qua. (Như thế) đời đời kiếp kiếp sẽ được
nhân quả tốt đẹp.
Giảng:
“Khẩn
tu trai giới, mạc man khuy du”. Ở trên Tổ đã khuyên học
kinh, nhưng sợ chúng ta chấp lý bỏ sự, hạnh giải không
tương ưng nên đến đây Ngài dạy phải nghiêm trì giới luật,
chớ nên thiếu sót bỏ qua (khuy: thiếu sót, du: bỏ qua) giữ
giới là sự, học kinh là lý, sự lý phải viên dung. Như chim
có hai cánh thiếu một thì không thể bay được. Như người
có hai chân, thiếu một thì không thể đi được. Thế nên
Tổ Ca Diếp trọn đời tu hạnh đầu đà. Ngài Vĩnh Gia không
ăn rau dưới đầu cuốc ( vì cuốc đất làm chết trùng kiến).
Ngài Khuê Phong quanh năm không rời đãy lọc nước…Chư Tổ
đã ngộ đạo mà đối với giới luật còn không dám coi thường,
huống người nay học hiểu được chút ít lý Thiền đã vội
buông lung phá chấp, đó là bịnh.
“Thế
thế sanh sanh, thù diệu nhơn quả”. Giữ giới thì hiện đời
tâm được trong sạch, đời sau được báo thân đoan chính
trang nghiêm. Cho đến thân 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của
Phật cũng do nhiều đời giữ giới mà được thành tựu.
Nên nói “đời đời kiếp kiếp nhân quả tốt đẹp”.
|