|
X
QUI
SƠN CẢNH SÁCH
Thiền
Sư Linh Hựu
Hòa Thượng
Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần
9
Chánh
Văn:
“Thân
phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời
thời hữu nhuận”.
Dịch:
Gần
gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không thấy ướt
áo mà dần dần thấm nhuần.
Giảng:
Như
buổi sáng sớm có sương chúng ta đi ngoài trời, tuy không
thấy sương rơi ướt áo, nhưng một lát sau cảm thấy hơi
sương ướt lành lạnh. Cũng thế, được gần Thầy lành,
bạn tốt, không phải chúng ta được lành tốt ngay, nhưng
sống gần gũi lâu ngày tự nhiên có sự nhuần thấm. Nói
đến đây tôi nhớ lại Thầy tôi là Hòa Thượng Viện Trưởng,
Ngài trách tôi: “Thanh Từ thuở xưa không khác nào cục sắt
do tôi mài dũa nay được thành cây kim, giờ lại không ưng
ý làm việc gì hết”. Thật đúng như thế, nay tôi được
hữu dụng cho Phật pháp cũng nhờ công thầy uốn nắn lo lắng
hoàn toàn từ vật chất đến tinh thần. Vì thế, đời tu
chúng ta nếu gặp Thầy lành bạn tốt là điều may mắn, cần
thiết cho sự tiến tu của chúng ta.
Chánh
Văn:
“Hiệp
tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức
mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn
kiếp bất phục”.
Dịch:
Gần
gũi kẻ ác, thêm ác tri kiến, sớm tối tạo ác, trước mắt
chịu quả báo, chết rồi phải trầm luân. Một phen mất đi
thân người, muôn kiếp khó tìm lại được.
Giảng:
Đây
là lời cảnh cáo, nếu không chịu gần Thầy lành bạn tốt
cố gắng tiến tu, mà chỉ gần gũi kẻ ác thì hậu quả sẽ
thảm hại như thế, sẽ mãi mãi trầm luân chịu mọi thống
khổ, một phen mất thân này muôn kiếp khó tìm lại. Tổ thật
từ bi chỉ dạy chúng ta từng li từng tí, chỉ cốt mong sao
chúng ta thành người hữu dụng.
Chánh
Văn:
“Trung
ngôn nghịch nhĩ, khởibất
minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích
thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt”.
Dịch:
Lời
thẳng trái tai, há chẳng ghi lòng đó sao? (Có thể) mới hay
rửa lòng nuôi đức, ẩn tích mai danh, chứa nhóm tinh thần,
xa lánh ồn náo.
Giảng:
“Trung
ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai?”. Lời nói thẳng
thường trái tai, tuy trái tai song phải ghi lòng, có thế mới
tiến được. Bây giờ Tổ mới bắt đầu vào việc tu hành.
“Tiện
năng tháo tâm dục đức. Hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần,
huyên hiêu chỉ tuyệt”.Người tu trước phải rửa tâm nuôi
đức, kế đến ẩn hành tung chôn vùi tên tuổi để chứa
nhóm tinh thần cho trong sạch, muốn thế phải xa lìa chỗ ồn
náo. Sở dĩ chúng ta không thể gội rửa tâm hồn, nuôi dưỡng
đức hạnh cũng chỉ vì, một phần là hiện tướng sờ sờ,
hai là tên tuổi thiên hạ đều biết. Vì hiện tướng sờ
sờ nên ai thấy cũng mời, nay đi chỗ này, mai đi chỗ nọ,
đi mãi thì làm sao có ngày giờ để gội rửa tâm thần? Vì
thế người tu thường ở núi rừng xa vắng, cốt để người
không gặp, tên tuổi chẳng ai biết đến, thì mới có cơ
hội uẩn tố tinh thần. Ngay như tôi khi xưa suốt mấy năm
lăng xăng làm việc này việc nọ, lúc ra đây nếu tôi không
tuyên bố nhập thất chắc cũng không làm gì được. Vì ai
thấy cũng mời, thì rảnh rang đâu lo việc của mình? Nhờ
ẩn đi không ai biết tên thấy mặt, mới từ từ nuôi dưỡng
cái cao siêu của mình, mới gội rửa dần những cấu bợn
nơi mình, rồi sau mới có thể làm được đôi chút lợi ích
thật sự cho người. Cứ mãi hòa trong cái ngàu đục thì biết
đến bao giờ mình mới trong? Vì thế, bây giờ tôi chỉ xin
hẹn với quí vị là ba năm sau đừng ai biết đến tôi. Vì
mấy năm nay những gì tôi dung chứa, gột rửa tôi đã chỉ
hết cho quí vị rồi, thì giờ đây tôi phải tiến nữa chứ
không thể dừng một chỗ được.[1]
Người tu phải khéo sắp đặt cho mình một hoàn cảnh thuận
tiện để tiến tu, chứ không thì mãi lẩn quẩn trong vòng
ngàu đục của thế gian mà chẳng được ích lợi gì.
Chánh
Văn:
“Nhược
dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn,
tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm
áo, khởi ngộ chân nguyên”.
Dịch:
Nếu
muốn tham thiền học đạo, là môn vượt ngoài phương tiện,
thì trong phải hợp với mé huyền và nghiên cứu tường tận
cái tinh yếu của đạo. Chọn lựa được chỗ thâm sâu rồi
mới có thể khai ngộ được nguồn chơn (tức bản tánh).
Giảng:
Người
tham thiền học đạo trước phải rõ đây là pháp môn vượt
ngoài phương tiện. Tại sao lại thế? Như trong kinh Phật dạy
quán sổ tức hoặc quán từ bi hay quán bất tịnh v.v…thì
tất cả phương pháp tu ấy đều có danh ngôn hình tướng
tức là phương tiện. Sao đây lại nói pháp môn không phương
tiện? Tôi xin nói lược rồi sẽ chỉ kỹ ở sau. Tổ Bồ
Đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa, Ngài thấy chư Tăng thời ấy
chuyên về văn tự mà không rõ lý đạo, nên Ngài mới dạy
một pháp môn gọi là “Giáo ngoại biệt truyền” là truyền
ngoài giáo lý, để dứt khoát không còn kẹt trong văn tự
nữa. Rồi: “ Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”.
Kiến tánh là gì? Có phải kiến tánh là thành Phật, là có
thần thông…hay không? Sao có nhiều người nói thấy tánh
mà chẳng thấy có thần thông gì hết? Nếu hiểu như vậy
là chúng ta đã bị chữ nghĩa làm rối rắm, sự thật không
phải như vậy. Đây tôi phân tích để quý vị rõ. Như trong
nhà Thiền, khi người học đạo hỏi một câu, được các
Thiền sư hoặc đáp, hoặc đánh, hoặc la hét v.v…nhờ đó
người hỏi được ngộ. Vậy “ngộ” là ngộ cái gì? Có
thành Phật chưa?. Chính “ngộ” là thấy đạo hay “kiến
tánh”, tức thấy được chân tánh bất sanh bất diệt của
mình. Nhận ra mình có bản tánh bất sanh bất diệt rồi, nhìn
lại thấy rõ thân này cho đến vũ trụ đều là pháp sanh
diệt, huyễn hóa. Đã là huyễn hóa thì đâu có dại dột
gì đắm nhiễm chạy theo.Từ đó tiến tu mãi không lùi thẳng
đến quả vị Phật, chứ không phải kiến tánh là thành Phật
ngay. Kiến tánh là nhơn, thành Phật là quả, thẳng một đường
không trải qua một ngôi vị nào khác, nên gọi giáo lý này
là tối thượng thừa. Phật đã nói: “Ta là Phật đã thành,
các người là Phật sẽ thành”, đó là sự thật. Chỉ vì
chúng ta chưa tin được nên không là “Phật sẽ thành”.
Kiến tánh là chủ yếu của người tu. Vì có kiến tánh mới
có thể thành Phật được, nên Tổ chỉ thẳng vào tâm mà
không dùng phương tiện. Chỉ cái nào sanh diệt thì đừng
theo, cái nào không sanh diệt thì hằng sống, đó là không
dùng phương tiện. Như trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: Chư Phật
ra đời cốt chỉ cho chúng ta nhận được “tri kiến Phật”
của chính mình. Các Tổ Thiền Tông cũng chỉ cho chúng ta nhận
được cái sẵn có đó. Và, chính tôi giảng kinh đây cũng
cốt làm sao cho quí vị nương nơi kinh mà thấy được cái
sẵn có nơi mình, chừng ấy bản hoài của tôi đã trọn.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng”. Như
quí vị mới tập tu vào chùa, quí Thầy dạy đếm hơi thở,
rồi niệm Phật trì chú hay quán bất tịnh v.v…tất cả cái
đó đều là phương tiện. Nếu mình bám chặt phương tiện
mà mình đang theo, rồi chỉ trích pháp “không phương tiện”,
đó là lầm lỗi. Phương tiện ví như cây vịn để vịn tay
lần qua cầu, người nào yếu chân sợ té thì phải nương
cây để qua, còn người nào mạnh chân thì cứ thẳng mà đi,
không cần nương vịn. Qua khỏi cầu là phải buông cây, chứ
đâu có nắm hoài. Cũng vậy, niệm Phật đến vô niệm mới
là cứu cánh, khi được nhất tâm rồi thì câu niệm Phật
không cần thiết nữa. Hay như trong kinh A-Hàm Phật dạy: Người
nào quán Tứ niệm xứ hoặc một ngày… cho đến bảy ngày
mà không có tạp niệm thì người đó chứng quả. Còn tôi
nói nếu quí vị quán Bát Nhã từ một ngày cho đến bảy
ngày mà không có niệm khác thì sẽ được Bát Nhã hiện tiền.
Những lời nói này đâu có khác. Đến chỗ cứu cánh thì
phương tiện không còn. Thế mà, vì không thực hiểu nên chúng
ta chấp cho thế này là hay, thế kia là dở. Sở dĩ không dung
hội được như thế, là vì chúng ta đứng ở một khía cạnh
mà nhận xét. Nếu thật thâm hiểu sẽ thấy ngôi nhà Phật
pháp chỉ có một, mà cửa phương tiện bước vào thì có
nhiều.
Ở
đây Tổ Qui Sơn nói pháp môn vượt ngoài phương tiện, lối
tu này hơi khác lạ khiến người càng sợ. Thông thường,
sơ cơ thì phải tụng kinh, trì chú hoặc ngồi thiền chăm
bẩm kềm tâm, ngó chừng hễ thấy vọng tưởng dấy lên liền
buông ngay. Luôn cầm kiếm sẵn trong tay vừa thấy ma liền
nhiếp phục nó. Đến khi dẹp hết ma quân rồi thì ngồi chăm
bẩm làm chi nữa? Như trâu đã thuần đâu cần cầm roi kéo
mũi, khi tâm đã thuần thì chúng ta phải vận dụng qua cái
khác. Nếu ngồi yên tâm được yên thì phải tập tu trong
động xem nó có thật yên chưa? Chẳng hạn đi nhổ cỏ, cuốc
đất v.v…Nếu trong động mà tâm yên thì mới tiến được
chớ chẳng phải ngồi mãi một chỗ. Có người lầm tưởng
ngồi 2 giờ, 4 giờ, 10 giờ…cho đến ngồi cả ngày quên
cơm nước đó là cao, nhưng thực sự không phải vậy. Ở
đây tôi chỉ cho ngồi 2 giờ là tối đa, cho đến lúc nào
đó quí vị thong thả dạo chơi, xem hoa ngắm kiểng, rồi khuya
dậy châm trà uống , khỏi cần ngồi thiền, mà tâm an nhiên
không động, đó mới là cao. Thiền đến chỗ cứu cánh là
phải như vậy, phải thiền trong tất cả thời, chứ không
phải ngồi mới gọi là thiền. Bây giờ bắt quí vị ngồi
thiền tạm gọi là dùng phương tiện, đến khi nào vọng tưởng
lặng là xong, chỉ cần biết vọng tưởng không theo là đủ.
Nếu chúng ta mượn câu trì chú hoặc niệm Phật để tu, đến
chừng muốn bỏ, bỏ không nổi thì kẹt. Thành ra tu thiền
thấy như khó, vì không có phương tiện, song đến cứu kính
thì thật là dễ, vì không có cái gì để bỏ. Chỉ cốt vong
tưởng dấy lên đừng chấp nhận, vọng tưởng hết thì tâm
nhất như. Nghe như dễ, nhưng lại rất khó. Thật ra chẳng
phải dễ hay khó mà chỉ do chúng ta có chí hay không.
Chánh
Văn:
“Bác
vấn tiên tri, thân cận thiện hữu. Thử tông nan đắc kỳ
diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh
nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm”.
Dịch:
Rộng
hỏi tiên tri, thân gần thiện hữu. Tông này khó đạt được
chỗ nhiệm mầu, cần phải dụng tâm chính chắn. Nếu trong
ấy đạt được chánh nhân, đó chính là thềm bực giải
thoát.
Giảng:
Nếu
không khế ngộ được nguồn chơn thì phải tham vấn các bậc
tiên tri. Chữ “tiên tri” đây có nghĩa là người đã học
đã tu trước mình. Vì tông này rất khó mà đạt được diệu
chỉ, nên cần phải dụng tâm cho chính chắn. Nếu ở trong
ấy mà ngộ được chánh nhân rồi thì liền vượt khỏi cõi
trần không cần theo thứ lớp. Đây là chỗ quan trọng của
Thiền tông. Thiền tông là con đường tắt không quanh co, không
theo thứ tự, nên khó mà nhận được yếu chỉ. Nhưng nếu
khéo dụng tâm và đạt được bản nhân rồi, thì tin chắc
ngay trong đời hiện tại không còn bị luân hồi lôi kéo nữa.
Song đây không phải là việc dễ, phải khéo cẩn thận. Có
nhiều người tu thiền cầu được những điều hay lạ, tâm
chạy theo danh sắc nên đã lạc lầm đi trong sanh diệt. Có
người muốn tu, đến đây nhờ tôi nói một câu chỉ thẳng
yếu chỉ. Tôi biết nói thế nào, chỉ có cách là học ba
năm đi rồi sẽ thấy, chớ chỉ liền không thể được. Vì
đây là chỗ không hình tướng. Tuy không phải là không, nhưng
khó thể chỉ bày. Quí vị chịu khó ngày nay nghe thấm một
ít, ngày mai nghe thấm một ít. Cho đến hôm nào đó, chợt
lãnh hội được yếu chỉ, thì sự tu hành mới bảo đảm
không lầm. Dẫu đây là pháp môn không phương tiện, nhưng
trình độ quí vị không thể khai thông liền, nên phải có
thời gian, rồi cơ hội tốt đến, quí vị tự lãnh hội.
Đó là điều mà chúng tôi mong mỏi.
[1]
Sở nguyện như thế mà hoàn cảnh không cho phép thực hiện

|