|
X
QUI
SƠN CẢNH SÁCH
Thiền
Sư Linh Hựu
Hòa Thượng
Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần
4
Chánh
Văn:
“Phật
tiên chế luật khởi sáng phát mông. Quỹ tắc oai nghi tịnh
như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế
điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch tằng vị
thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả
tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường
thố hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ”.
Dịch:
Phật
trước tiên chế luật để mở mang hạng sơ cơ. Phép tắc
oai nghi sạch như băng tuyết. “ Chỉ trì tác phạm” để
kềm thúc kẻ sơ tâm, điều luật chi li để cải sửa những
điều dở tệ. Trường giới luật chưa từng học hỏi thì
liễu nghĩa thượng thừa làm sao lãnh hội? Đáng tiếc, một
đời luống qua, sau rồi ăn năn đâu kịp. Giáo lý chưa từng
để lòng, đạo huyền nhân đâu khế ngộ?
Giảng:
“Phật
tiên chế luật khởi sáng phát mông”. Tổ dạy chúng ta muốn
tu học đúng tư cách người tu phải đầy đủ ba môn học:
Giới, định, huệ. Trước, Phật chế luật để mở mang chỉ
bày cho kẻ sơ cơ (mông, là kẻ đồng mông, tức sơ cơ).
“Quỹ
tắc oai nghi tịnh như băng tuyết”. Chúng ta mới thọ giới
thì bao nhiêu oai nghi giới luật Phật chế ra phải cố giữ
gìn đúng đắn, trong sạch như băng tuyết.
“Chỉtrì
tác phạm thúc liễm sơ tâm”. Thế nào là chỉ trì, tác phạm?
Chỉ là trì, là gìn giữ. Tác là phạm. Như trong năm giới
của người tại gia, giới thứ nhứt là không được sát
sanh. Không sát sanh gọi là trì giời, có nghĩa là ngưng việc
ấy không làm, tức “chỉ trì”. Còn nếu làm việc ấy gọi
là phạm giới, tức “tác phạm”. Vì người mới vào đạo,
tâm còn buông lung nhiều nên phải nhờ giới luật để kềm
chế, chẳng khác nào dùng lồng để nhốt con khỉ không cho
nó chạy nhảy tứ tung. Đây gọi là “thúc liễm sơ tâm”.
“Vi
tế điều chương cách chư ổi tệ”. Vi tế điều chương
là những phần giới luật nhỏ nhiệm. Thí dụ giới của
Phật tử tại gia, Phật cấm nămđiều;
còn giới của Sa di đến mười điều. Mười giới này nhỏ
nhiệm hơn năm giới trước, như giới không đeo tràng hoa,
ướp nước hoa. Việc làm này có hại ai đâu, nhưng sao Phật
lại cấm? Vì đối với Phật tử tại gia Phật chỉ cấm
tà dâm, còn đối với hàng xuất gia Phật cấm hẳn việc
dâm dục. Nếu còn đeo tràng hoa, ướp nước hoa, còn trang
sức, tức nói lên lòng ái nhiễm vẫn còn. Mà lòng ái còn
thì tuy giới thô không phạm, nhưng ái vi tế trong tâm có phạm.
Lỗi tế không tránh được thì lỗi thô một ngày nào đó
có thể sẽ phạm. Phật muốn người xuất gia không phạm
giới thô mà cả giới tế cũng không phạm, nên mới chế
ra những điều luật nhỏ nhiệm. Tu càng cao thì giới càng
vi tế, cốt để tẩy sạch những tâm niệm xấu xa. Như khi
mình ăn mặc dơ bẩn thì thấy mình cũng tầm thường thôi,
nhưng khi ăn mặc sang trọng, ướp nước hoa thơm phức thì
lúc đó thấy mình sang đẹp quá, phải không? Chính khi khởi
niệm đẹp và sang trọng đó là nhiễm ái đã sanh. Cho nên
chúng ta đừng coi thường những giới luật Phật chế ra,
cho rằng không có gì hại lắm. Sở dĩ Phật cấm là để
ngừa tâm ái nhiễm của chúng ta, để chúng ta hằng xét lại
mình vậy.
“Tỳ
ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa
khởi năng chân biệt”. “Tỳ ni” là chỉ cho luật. “Pháp”
là chỉ cho pháp, “tịch” là chiếc chiếu. “pháp tịch”
nghĩa là hội nghe pháp ngồi dưới chiếu. Câu này ý nói trường
giảng luật mình chưa từng đến thưa hỏi thực hành, thì
đối với “liễu nghĩa thượng thừa” làm sao rành rẽ được.
Chúng ta bước chân vào đạo, trước phải lấy giới luật
làm sợi dây để cột tâm buông lung vọng tưởng phần nào,
kế đó mới đem những giáo lý cao siêu ra ứng tu hành để
thoát khỏi mê lầm. Vì thế, ở đây tuy là một Thiền Viện,
song cũng phải giữ tối thiểu 10 giới làm căn bản. Có nhiều
vị cho rằng tu thiền cần gì giữ giới? Quan niệm của tôi
thì không như vậy. Nếu tâm chúng ta được nhất như thì
giới luật cũng bằng thừa. Nhưng tâm còn xao động, còn đang
chạy theo sáu trần mà không có giới luật làm sao ngăn nó
nổi? Giới luật chẳng khác nào hàng rào của Tu viện vậy.
Hàng rào có cổng khóa đàng hoàng thì trong khó ra, mà ngoài
cũng khó vào, nhờ vậy mà hạn chế được tâm phóng túng.
Sau đó mới học cách tọa thiền ngồi yên một chỗ. Đến
khi nào tất cả trong chúng đây tâm tâm niệm niệm lúc nào
cũng ứng dụng Bát Nhã, hoặc dùng Bát Nhã chiếu soi chẳng
phút giây quên, hoặc hằng sống với tâm nhất như không bao
giờ loạn động, thì lúc đó có hàng rào của Tu viện cũng
bằng thừa. Còn bây giờ tâm mình còn loạn, ngồi lại thì
nhớ người này, nghĩ việc nọ, nên phải cần có hàng rào
để ngăn chận, bớt những cái nghĩ tưởng sằng bậy của
chúng ta. Cũng vậy, giới luật là hàng rào để gìn giữ thân
tâm. Muốn đạt đến chỗ cao siêu trước phải lấy giới
luật làm căn bản lúc sơ cơ, sau ứng dụng liễu nghĩa thượng
thừa mới dễ thành tựu.
“Khả
tích nhất sanh không quá hậu hối nan truy”. Đáng tiếc một
đời luống qua,về sau hối hận khó kịp. Nếu chúng ta vào
chùa mà cứ chạy theo ăn mặc, ngủ nghỉ, không học luật
cũng chẳng hiểu đường lối tu hành, cứ để một đời
trôi qua, sau ăn năn khôngkịp.
Vì thế, nay khi còn khỏe mạnh đầy đủ sức lực, chúng
ta phải nghĩ đến sự giải thoát cho chính mình và cứu độ
chúng sanh mà nổ lực tiến tu. Như vậy dù sống 40,50 tuổi
thôi cũng có giá trị . Còn trái lại dù sống đến 100 tuổi
cũng không có ý nghĩa gì.
“Giáo
lý vị thường thố hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ”.
Giáo lý chưatừng học hỏi
huân tập, thì huyền đạo làm sao mà khế ngộ được. Ở
trước, Tổ quở chúng ta không học luật giữ giới, đến
đây Tổ quở chúng ta không học giáo lý (tức kinh điển của
Phật). Bởi vì có lắm người cạo tóc xuất gia vào chùa,
mà chỉ biết có việc đầu hôm Tịnh độ khuya công phu, cho
đó là đủ. Như thế để ngày tháng dần qua, chỉ lấy việc
công quả bình thường cho là tròn bổn phận, đâu ngờ cái
đó chỉ là việc lơ láo qua ngày. Đến phút tắt hơi mới
thấy mình mờ mịt chẳng rõ lối đi. Vì thế, người có
chí xuất gia trước phải hiểu rành luật lệ của Phật dạy,
kế đến hiểu sâu giáo lý thì mới mong tiến trên con đường
cao siêu giải thoát. Chữ “huyền đạo” đây có nghĩa giáo
lý cao siêu của Phật, mà cũng có nghĩa là tông chỉ của
Thiền Tông. Tu học có ba môn giới, định và huệ. Giới,
định, huệ là ba môn then chốt, người vào đạo không thể
thiếu được, thiếu ắt không rõ đường đi. Đây Tổ trách
chúng ta về lỗi không tu học.
|