|
X
QUI
SƠN CẢNH SÁCH
Thiền
Sư Linh Hựu
Hòa Thượng
Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần
10
Chánh
Văn:
“Thử
tắc phá tam giới, nhị thập ngũ hữu”.
Dịch:
Đây
là phá 3 cõi 25 loài.
Giảng:
Kinh
Lăng Nghiêm, Phật chia ra 25 cõi, nên đây nói 25 loài. Chúng
ta tu là quyết ngay đời này phải ra khỏi tam giới, dứt vòng
luân hồi. Theo tinh thần Thiền tông, chúng ta phải thấy mình
chỉ là mgười khách qua lại trong tam giới thôi. Chúng ta không
còn bị trói buộc mà chỉ vì tùy nguyện độ sanh nên đi
vào tam giới
Chánh
Văn:
“Nội
ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất
thị giả danh”.
Dịch:
Trong,
ngoài các pháp đều biết không thật.Từ tâm biến khởi,
tất thị giả danh”.
Giảng:
Một
câu này, quí vị nếu nhận hiểu rồi, có thể nói tu suốt
kiếp cũng chưa xong. “Nội ngoại chư pháp” là các pháp
bên trong và bên ngoài, tức năm uẩn và sáu trần, đối với
các pháp hằng chiếu soi thấy nó không thật ấy là giải
thoát. Như trong kinh nói: giả sử bố thí châu báu nhiều bằng
quả đất cũng chưa chắc được giải thoát. Vì sao? Vì còn
thấy mình thật, người thật, của cải thật thì đó là
nhơn luân hồi ( nhưng luân hồi trong cõi lành) chứ chưa phải
giải thoát. Người quyết tâm giải thoát phải luôn luôn dùng
trí tuệ thấy rõ năm uẩn, sáu trần, các pháp thế gian và
xuất thế gian đều không thật. Vì sao không thật? Vì “từ
tâm biến khởi?”. Sở dĩ chúng ta luân hồi trong tam giới
là do nghiệp gây nên, mà gốc nghiệp là thân, miệng, ý. Nhưng
xét kỹ thì thân và miệng chỉ là công cụ của ý, ý chủ
động. Ý có nghĩ thân mới làm, miệng mới nói. Vì thế chúng
ta tu là cốt làm sao cho ý dừng lặng không còn tạo nghiệp
thì còn ai lôi chúng ta vào tam giới nữa? Tất cả phương
pháp tu đều quy về chỗ đó. Niệm Phật, trì chú thì phải
đến chỗ nhất tâm, tham thiền phải bặt vọng tưởng, tức
ý không còn hoạt động. Chúng ta không hiểu thấu đáo nên
chấp cho rằng tụng kinh có phước, trì chú có linh nghiệm,
tham thiền có công đức v.v…mà không biết rằng tất cả
những phương tiện ấy chỉ cốt để đập tan dòng ý thức
cuộn chảy trong chúng ta. Khi ý thức lặng rồi thì tâm thanh
tịnh nhất như. Có người tu đến chỗ lặng vọng tưởng
lặng rồi lại hoảng hốt, cho rằng: mình đâu mất! Thế
là cầu thanh tịnh, được thanh tịnh lại hoảng sợ ! Chẳng
khác nào chàng Cùng tử trở lại quê cha, đến chừng thấy
cha lại hoảng kinh chạy trốn, buộc lòng ông cha phải dùng
phương tiện dẫn dụ về làm những công việc hèn hạ, như
hốt rác, đổ phân thế mà lại hài lòng. Thật đáng thương
xót! Cũng vậy, Phật mượn phương tiện dạy chúng ta tu hành
qua thứ lớp. Như tu thiền, quán tứ đại thì trước quán
thủy đại. Quán nước trong thân lần lần tràn khắp hư không
thì được cái định thứ nhứt là sơ thiền, kế đến quán
gió; lửa v.v…cuối cùng xả hết đến Diệt thọ tưởng
định là chận đứng dòng tâm ý. Chỉ vì chúng ta không nhận
nổi cái “trực chỉ”, nên Phật phải dẫn quanh một vòng
phương tiện, đến rốt cùng cũng là bặt tâm ý. Thiền tông
thì chỉ thẳng, khiến cho người hoảng hốt tưởng rằng
đến đó là không còn gì nữa. Đây là bịnh do mê lầm mà
ra, chứ không có gì lạ. Vì chúng ta lâu nay hằng sống với
cái hư giả mà cho là thật, còn đối với cái thật thì lại
hồ nghi. Ví như kẻ xa quê lâu ngày muốn về thăm cha mẹ
nhưng quên mất số nhà chỉ nhớ loáng thoáng con đường.
Khi đến con đường ấy cứ đi tới đi lui mãi, thậm chí
dừng trước cổng nhà mình mà cũng không biết, lại phải
tìm người để hỏi. Chúng ta cũng vậy, khi vọng tưởng dấy
lên cuồn cuộn thì ra sức dẹp, hết vọng tưởng lại thấy
không ngơ, rồi sợ mà không nhận “ cái thật” trong cái
không ngơ đó, nên muốn trở lại vọng tưởng nữa. Cứ lẩn
quẩn, loanh quanh tu mãi chẳng đến đâu. Đó là vì không thấy
rõ lối đi nên bị mắc kẹt, còn nếu chúng ta biết rõ manh
mối chánh yếu của việc tu, thì đi thẳng vào nhà không còn
sợ sệt gì nữa. Thế nên, Tổ dạy người tu thiền trước
phải dùng trí tuệ chiếu soi thấy năm uẩn, sáu trần thảy
là không thật, từ tâm biến khởi chỉ có giả danh. Đây
là giai đoạn căn bản bước vào cửa thiền.
Chánh
Văn:
“Bất
dụng tương tâm thấu bạc, đản tình bất phụ vật, vật
khởi ngại nhân”.
Dịch:
Chẳng
cần đem tâm nương gá, chỉ lòng không gá vật thì vật đâu
chướng ngại được người.
Giảng:
Thật
là đơn giản, tu thiền là thế đó. Nếu ngồi thiền mà tâm
còn nhớ việc này, nghĩ chuyện kia goi là “thấu bạc”.
Điểm này có người thắc mắc, như chánh tư duy là dùng một
đề tài nào đó suy tới nghĩ lui, nghiền ngẫm cho ra lý, lâu
ngày nảy ra một ý kiến hay nào đó, người ta cho là phát
huệ, phải không? Thiền Tông thì không dùng như vậy. Vì như
vậy thì tâm mãi loạn, ý tạo nghiệp bao giờ mới dừng?
Ở đây cốt đánh tan ý. Chẳng đem đề tài nào suy gẩm cả,
mà chỉ không cho vọng tình chạy theo sự vật bên ngoài. Nếu
ngồi thiền mà chợt nhớ ông A, ông B là tình đã gá vật
rồi. “Vật” đây là người, cảnh bên ngoài. Nếu tâm mình
chạy theo vật phải biết mà chận ngay. Đừng để tâm dong
ruổi theo cảnh vật, đến cả danh ngôn cũng vậy, đây là
cái dễ làm cho tâm loạn nhất. Lúc đầu loạn theo cái thô
lần lần đến cái tế. Như những lời nói của cổ đức,
hoặc trong kinh sách, cho đó là nghĩ lành nên thường đuổi
theo, ấy là bệnh của người tu thiền hay mắc phải. Chúng
ta vừa dấy niệm là tình đã “phụ vật” rồi. Tất cả
những nghĩ tưởng của ta đều không rời danh ngôn, sắc tướng.
Khi ngồi yên không thấy người, cảnh bên ngoài. Song, nếu
chợt nhớ hình ảnh nào đó thì liền hiện ra, như có trước
mắt. Hoặc nhớ câu nói nào đó thì liền nghe vang lên trong
tâm thức. Đó gọi là pháp trần. Những lúc đó chúng ta không
gá vào những vật hiện có trước mặt, nhưng gá vào bóng
dáng của vật còn lưu lại trong tâm thức, như vậy cũng là
“phụ vật”, vật từ tâm biến ra. Vì thế chủ yếu là
chúng ta đừng để cho tâm gá vật. Nếu thấy người thấy
cảnh mà tâm không duyên theo thì đâu có gì chướng ngại.
Dù ngọc ngà đầy trước mặt mà tâm không dấy động, thì
thử hỏi cái gì chướng ngại mình? Chướng là do ma bên trong
chực sẵn cộng thêm lũ quỷ bên ngoài nữa, mới làm nội
công ngoại kích mà phá tan thành trì giới luật và Thiền
định của chúng ta. Cho nên, khi có người hỏi Thiền sư:
“Thế nào là giải thoát”. Ngài đáp: “Tâm, cảnh không
đến nhau là giải thoát”. Đây chính là nghĩa “tình không
gá vật”. Như vậy, chúng ta thấy rõ giải thoát chẳng phải
tìm đâu xa, chẳng phải tu nhiều đời nhiều kiếp mới được.
Mà chỉ “tâm cảnh không đến nhau”, chứ chẳng có gì là
kỳ lạ cả. Chỉ vì tâm cảnh dính nhau nên bị trói buộc,
chính vọng tưởng trói chúng ta vào vòng sanh tử, dứt vọng
tưỏng thì nhân trói buộc đâu còn, đó là giải thoát ngay
hiện đời. Sự tu hành đơn giản chỉ có thế.
Chánh
Văn:
“Nhậm
tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục. Văn thinh kiến
sắc, cái thị tầm thường. Giá biên na biên, ứng dụng bất
khuyết”.
Dịch:
Mặc
tình pháp tánh trùm khắp, chẳng phải đoạn dứt cũng chẳng
cần tiếp nối. Nghe tiếng thấy sắc là việc tầm thường.
Bên này bên kia ứng dụng không thiếu.
Giảng:
Đến
đây Tổ chỉ cho chúng ta thấy một cái gì cao siêu rộng khắp:
“Nhậm
tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục”. Khi tâm cảnh
không dính nhau, chúng ta khôngcòn
lệ thuộc vào vọng tình, cái mà hằng lâu chúng ta chấp cho
nó là mình. Lúc đó cái gì là mình? Chỉ vì lâu nay chúng
ta thấy hòn bọt cho đó là biển cả, đâu ngờ nay đập tan
hòn bọt mới thấy biển cả mênh mông. Khi vọng tưởng hết,
chừng ấy chúng ta mới thể nhập pháp tánh vô biên. Chổ
này Tổ Tăng Xán gọi là “Viên đồng thái hư, vô khiếm
vô dư”. Khi tâm dừng, không chạy theo vọng tưởng nữa đừng
tưởng là hết, mà lúc ấy là lúc đập tan hòn bọt để
hòa cùng biển cả. Nơi nơi chốn chốn đều có mình. Mình
không còn hạn cuộc trong cái thân nhỏ bé này nữa mà trùm
khắp hư không. Vì thế, Ngài Thiện Tài đồng tử khi bước
vào lầu các của Bồ Tất Di-Lặc liền thấy vô lượng vô
biên chư Phật, và mỗi chỗ mỗi chỗ đều có mặt Ngài đang
đảnh lễ. Khi nhập pháp tánh rồi thì nó tràn lan trùm khắp,
không cắt đứt cũng đừng tiếp nối, lúc đó an nhiên tự
tại. Lúc đó là sống với pháp thân. Cho nên các Tổ khi thể
nhập được pháp tánh rồi thì nói một lời là một bài
kệ. Đi, đứng, nói, nín đều là đạo. Không cần đợi đến
chết mới nhập pháp thân, chỉ cần dứt vọng tưởng là
được. Đến đó thì:
“Văn
thinh kiến sắc cái thị tầm thường”, tức nghe tiếng thấy
sắc đều là tầm thường. Bởi vì khi đã thể nhập được
pháp tánh, nhận được cái chân thật rồi thì tất cả sự
vật ở thế gian đều là ảo ảnh không thật, không có gì
đáng để chúng ta quyến luyến. Nhưng nếu chưa đến đó
thì phải thận trọng. Có một số tu sĩ sắm radio, tivi để
xem, rồi hút thuốc, uống bia…tự cho mình là người phá
chấp, tự tại trong khi tâm còn đầy ấp vọng tưởng, thì
đó là ngụy biện để che mắt thế gian. Chúng ta chỉ tự
tại khi nào nhập được “pháp tánh châu lưu”, khi nào nhận
được cái chân thật thì cái giả mới không màng. Ví như
một em bé nhà quê được mẹ mua cho đôi bông bằng vàng giả.
Em bé hí hửng đem khoe với bạn bè, tự hài lòng quí thích
đôi bông, vì em tưởng nó là thật. Nhưng đối với người
có đôi hoa tai bằng vàng ròng hay kim cương thì đôi bông giả
kia đâu có giá trị gì. Dù cho đầy trước mắt những thứ
giả ấy, họ cũng không thèm để ý huống nữa là quí thích.
Khi chúng ta vượt qua khỏi lãnh vực giả dối, tìm lại được
mặt thật xưa nay, thì khi ấy đối với thế gian này ta mới
là người hoàn toàn không ô nhiễm. Như Ngài Phù Dung nói:
“Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi
kiến danh như nhãn trung trước tiết”. Tức là gặp thinh
gặp sắc như cây trồng trên đá, thấy lợi thấy danh như
bụi rơi vào con mắt. Đối với người đã đạt được pháp
tánh rồi thì thinh sắc danh lợi không bám được, chẳng có
chi phải bận lòng. Mà lúc ấy:
“Giá
biên na biên ứng dụng bất khuyết”. Bên này bên kia ứng
dụng không thiếu. Bên này bên kia là thế nào? Là đứng về
mặt xuất thế gian thì không còn bị năm trần ô nhiễm. Còn
đứng về mặt thế gian thì tùy cơ ứng biến diệu dụng
không lường. Không chấp có, không kẹt không, không mắc trong
thế gian cũng không đắm trong giải thoát.
Tự
tại qua lại trong tam giới, tùy duyên hóa độ muôn loài. Đó
là chỗ cứu kính của người tu. Đoạn trên Tổ đã thố
lộ chỗ chí yếu của việc tu để chúng ta không còn ngờ
vực, đến đây Tổ lại khen ngợi để sách tấn.
|