|
.
PHÁP NGỮ CỦA
THIỀN SƯ HƯ VÂN
Thích Hằng
Đạt Việt dịch
Nhà Xuất
Bản Tôn Giáo 2004
|
|
-
MỤC
LỤC
-
Lời
Giới Thiệu
Phần
I
I.Năm
1911
II.Năm
1933
III.Thư
đáp T. Giới Thạch
IV.Trùng
Khánh 17-1-1943
V.Trùng
Khánh 18-1-1943
VI.Trùng
Khánh 19-1-1943
VII.
Quý Dương 1-2-1943
Phần
II
VIII.
Khai thị tại Đại Hội Hoan Nghinh Các Giới Chức, tại hội
quán Trung Sơn, Quảng Châu, vào ngày mười tám tháng tám, năm
1946.
IX.
Khai thị tại Đông Liên Giác Uyển, Hồng Kông, năm 1947.
X.
Khai thị tại Áo Môn, hý viện Bình An, vào mồng một tháng
tám, năm 1947.
XI.
Bài diễn thuyết tại xã Liên Nghĩa, Quảng Châu vào ngày hai
mươi bảy tháng chín, năm 1947.
Phần
III
XII.
Bài giảng tại bệnh viện Chí Đức, hội Phật giáo tỉnh
Quảng Châu.
XIII.
Tham thiền cùng niệm Phật.
XIV.
Những điều kiện tiên quyết khi tham thiền.
XV.
Khai thị tại thiền đường.
1/
Phương pháp dụng công nhập đạo.
A/
Điều kiện tiên quyết của việc tu đạo.
a/
Tin sâu lý nhân quả.
b/
Nghiêm trì giới luật.
c/
Tín tâm kiên cố.
d/
Quyết định hành trì một pháp môn.
e/
Phương pháp tham thiền.
g/
Người ngồi thiền phải biết.
B/
Hạ thủ công phu.
a/
Phải nhận rõ chủ khách.
b/
Thoại đầu cùng nghi tình.
C/
Chiếu cố thoại đầu cùng phản văn văn tự tánh.
D/
Tâm thiết tha vì việc sanh tử, cùng phát tâm lâu dài.
E/
Việc khó và dễ trong khi tu đạo của người mới dụng công
và ngườI tu hành lâu năm.
a/
Việc khó và dễ của người mới dụng công.
*/
Việc khó của người sơ phát tâm tu đạo là tâm vọng không
dứt.
*/
Việc dễ của người sơ cơ là có thể xả bỏ hết tất
cả, chỉ còn một niệm.
b/
Việc khó và dễ của người tu hành lâu năm.
*/
Việc khó của người tu hành lâu năm là trên
đầu
cây tre trăm thước không thể tiến thêm một bước.
*/
Việc dễ của người dụng công lâu năm là công phu thầm
lặng liên tục.
2/
Kết Luận.
XVI.
Tham thiền cảnh ngữ (lời răn nhắc đến những người tu
thiền).
Phần
IV
XVII.Tu
cùng không tu
XVIII.
Khai thị trong kỳ pháp hội Thủy Lục Không tại Thượng Hải.
XIX.
Bài 'Phải Hiểu Rõ Sự Niệm Phật' nhân ngày giỗ thứ mười
hai của tổ Ấn Quang, năm 1952.
XX.
Thiền thất khai thị lần thứ nhất tại chùa Ngọc Phật,
thành phố Thượng Hải, năm 1953.
1/
Ngày thứ nhất, (22/2)
2/
Ngày thứ hai, (23/2)
3/
Ngày thứ ba, (24/2)
4/
Ngày thứ tư, (25/2)
5/
Ngày thứ năm, (26/2)
6/
Ngày thứ sáu, (27/2)
7/
Ngày thứ bảy, (28/2)
XXI.
Thiền thất khai thị lần thứ hai.
1/
Ngày thứ nhất, (29/2).
2/
Ngày thứ hai, (3/1).
3/
Ngày thứ ba, (3/2).
4/
Ngày thứ tư, (3/3).
5/
Ngày thứ năm, (3/4).
6/
Ngày thứ sáu, (3/5).
7/
Ngày thứ bảy, (3/6).
8/
Giải thất, (3/7).
9/
Pháp ngữ giải thất.
Phần
V
XXII.
Núi Vân Cư, năm 1955
1/
Ngày 11-03
2/
Ngày 12-03
3/
Ngày 13-03
4/
Ngày 14-03
5/
Ngày 21-03
6/
Ngày 24-03
7/
Ngày 26-03
8/
Ngày 30-03
9/
Mồng 03-04
10/
Mồng 05-04
11/
Mồng 09-04
Phần
VI
12/ Ngày 11-04
13/
Ngày 15-04, Khai thị nhân dịp kiết hạ an cư.
14/
Ngày 16-04
15/
Ngày 17-04
16/
Ngày 21-04
17/
Ngày 22-04
18/
Ngày 23-04
19/
Ngày 25-04
20/
Ngày 26-04
21/
Ngày 27-04
22/
Ngày 28-04
Phần
VII
23/
Ngày 29-04
24/
Ngày tết giữa năm
25/
Rằm tháng năm
26/
Ngày 16-05
27/
Ngày 17-05
28/
Ngày 18-05
29/
Ngày 20-05
30/
Ngày 21-05
31/
Ngày 23-05
32/
Ngày 26-05
Phần
VIII
33/
Mồng 02-06
34/
Mồng 03-06
35/
Ngày 16-06
36/
Ngày 23-06
37/
Ngày 25-06
38/
Ngày 27-06
39/
Mồng 08-07
40/
Mồng 10-07
41/
Ngày 11-07
XXIII.Tháng
10 - 1955. Khai thị trong kỳ truyền giới
tại núi Vân Cư
1/
Duyên khởi của kỳ truyền giới
2/
Nguyên nhân những vị bên ngoài đến không thể tham gia thọ
giới
3/
Khai thị phương tiện tự thệ thọ giới
4/
Y bát
Phần
IX
5/
Giới luật là nền tảng căn bản của Phật pháp
6/
Giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng
7/
Những điểm giống nhau và khác nhau giữa giới luật đại
thừa và tiểu thừa
8/
Tam quy y, ngũ giới
9/
Mười giới, cụ túc giới, tam tụ tịnh giới
10/
Kết khuyến
XXIV.
Thiền tông cùng Tịnh Độ tông
XXV.
Thuyết pháp 1958
XXVI.
Biểu tướng của Tăng Đồ trong đời mạt pháp
XXVII.
Mười hai bài kệ tham thiền
XXVIII.
Bài ca đi, đứng, nằm, ngồi
Phụ
chú
1/
Đại lão hòa thượng Hư Vân tiếp nối mạch nguồn năm hệ
phái Thiền tông
2/
Nhân duyên của quyển Tăng Đính Phật Tổ Đạo Ảnh
Lời
Giới Thiệu [^]
Tuy
thuyết pháp trong bốn mươi chín năm trường mà đức Phật
Thích Ca tự bảo rằng Ta chưa từng nói một lời nào. Tuy
truyền trao tâm ấn cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp qua hình ảnh
"Niêm Hoa Vi Tiếu", mà đức Phật cũng chưa hề nói một chữ
"Thiền". Tuy bao đời lịch đại tổ sư, thầy trò "Dĩ Tâm
Truyền Tâm" với nhau, nhưng chưa từng nói rằng có một pháp
nào để truyền thừa. Tiếp nối tông chỉ này, thiền sư
Hư Vân, bậc minh nhãn thiện tri thức thời cận đại, tuy
giảng kinh thuyết pháp, hoằng truyền tông giáo, khơi dậy
mạch nguồn Thiền tông, tiếp thừa hệ phái ngũ gia (Lâm Tế,
Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng), hóa độ hàng
chục ngàn tăng ni và hàng triệu cư sĩ tại gia trải qua một
thế kỶ, mà chính tự tay Ngài chưa từng viết một quyển
khai thị hay pháp ngữ nào. Mãi cho đến khi Ngài bị công an
Cộng Sản Trung Quốc tra tấn dã man trong hai lần liên tục,
chư đệ tử mới khẩn thỉnh Ngài tự thuật lại cuộc đời
tu hành, hoằng pháp lợi sanh, hầu mong làm tấm gương sáng
cho hậu thế. Vì lòng từ bi quảng đại, tuy bị trọng thương
qua hai lần bị tra tấn cực hình, Ngài vẫn cố gượng kể
lại cuộc đờI tu hành của mình, mà sau này chư đệ tử
viết lại thành quyển "Biên Niên Tự Thuật" (đã được chúng
tôi và anh Nguyên Phong phiên dịch cùng phóng tác ra Việt ngữ,
qua quyển "Đường Mây Trên Đất Hoa"). Lại nữa, vì hương
thơm đức hạnh tu hành của Ngài lan truyền khắp nơi, khiến
chư đệ tử phải thâu thập những bài giảng thuyết, khai
thị, pháp ngữ của Ngài, rải rác trong bao thập niên, rồi
gom lại thành tập "Pháp Ngữ", để lưu truyền hậu thế.
Tuy bị công an Cộng Sản Trung Quốc tra tấn, chết đi sống
lại hai lần, nhưng xuyên qua những bài pháp ngữ cùng trong
quyển "Biên Niên Tụ Thuật", Ngài chưa từng đả kích hay
lên án chế độ Cộng Sản, mà chỉ bảo là do nghiệp duyên
tiền kiếp, nên nhẫn nhịn gánh chịu. Lịch đại tổ sư
đã từng bị bao nghịch duyên oan trái như tôn giả Mục Kiền
Liên bị ngoại đạo đánh chết, tổ Sư Sử bị vua Di La Quật
chém đầu, tổ Bồ Đề Đạt Ma bị người hãm hại bằng
thuốc độc, nhưng các ngài chẳng hề oán trách ai, mà chỉ
vui lòng thọ nhận oan khiên tiền kiếp, vì đã nhận ra "Bổn
Lai Diện Mục", tức chủ nhân ông trong thân tứ đại bọt
bèo huyễn hóa. Ngược lại, phàm phu vừa bị một trong tám
gió thổi đến, thì tham sân si bèn nổi lên.
Quyển
Pháp Ngữ mà hiện tại quý độc giả đang cầm trên tay, được
chúng tôi phiên dịch từ quyển "Hư Vân Hòa Thượng Khai Thị
Lục" do pháp sư Tịnh Huệ, và một phần trong quyển "Hư Vân
Văn Tập" do hai cư sĩ Hồng Khánh Sùng cùng Hoàng Khánh Lâm
biên tập ghi chép lại.
Đối
với hành giả Thiền Tông nói riêng và hàng Phật Tử thành
tâm cầu đạo giải thoát nói chung, sẽ thấy quyển này vô
vàn quý giá vì là kim chỉ nam và cẩm nang cho người tu tập
pháp Tổ Sư Thiền, như những bài "Điều kiện tiên quyết
khi tu thiền", hay "Phương pháp quán thoại đầu cùng phản
văn văn tự tánh", mà chính thiền sư Hư Vân đã "Thật Tu
Thật Chứng". Lại nữa, nếu muốn thâm nhập vào ba môn vô
lậu học, tức giới định huệ của Phật giáo Đại Thừa,
hành giả phải nên đọc qua quyển Pháp Ngữ này, vì trong
đây thiền sư Hư Vân giảng sâu rộng về phương thức trì
giới thanh tịnh, thâm nhập chánh định, phát khởi trí huệ
vô sư.
Ngoài
ra, có đọc qua những bài pháp ngữ này, chúng ta mới cảm
kích thâm sâu hạnh nguyện nhẫn nhục, tâm hồn vị tha vô
ngã, đạo tâm kiên cố trường viễn, hành tung bình dị, hạnh
tu đầu đà của thiền sư Hư Vân, một vị thánh tăng trong
đời cận đại, cho dầu thế sự có đảo điên, hay "Nội
Ưu Ngoại Hạn" của quốc gia dân tộc.
Phiên
dịch quyển Pháp Ngữ này, chúng tôi hy vọng quý độc giả
mến chuộng tu thiền sẽ nghiền ngẫm và áp dụng những lời
vàng ngọc của thiền sư Hư Vân vào cuộc sống tu tập hằng
ngày, hầu mong ly khổ đắc lạc, và sống lại với tự tánh
thanh tịnh bản nhiên của mình.
Kế
đến, chúng con thành tâm đốt nén tâm hương kính lễ đức
Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, ba đời mười phương chư Phật, chư
Bồ Tát chư hiền thánh Tăng, đại lão hòa thượng Hư Vân,
ân sư đại lão hòa thượng Tuyên Hóa trong cõi Niết Bàn thấu
rõ và chứng minh cho bản dịch Pháp Ngữ này.
Trong
kinh thường dạy: "Hãy chí thành viết một chữ hay truyền
cho kẻ khác chừng một câu thì công đức phước báu vô lượng".
Vậy có bao nhiêu công đức do dịch quyển Pháp Ngữ này, chúng
con thành tâm hồi hướng cầu nguyện cho quê mẹ Việt Nam
và thế giới được thanh bình; Phật giáo Việt Nam và Thế
Giới mãi được trường tồn; tất cả chúng sanh đồng phát
tâm Bồ Đề chứng quả vị Phật.
Cuối
cùng, chúng con thành tâm cầu xin chư vị thiện tri thức trong
mười phương từ bi xá tội và chỉ dạy những lỗi lầm
sơ suất trong bản dịch này.
Nam
mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mùa xuân
năm 2000.
Tỳ
kheo Thích Hằng Đạt kính bút
* Hình
trên là Tháp Hư Vân Hoà Thượng tại Chùa Nam Hoa, Quảng Châu
Đọc
thêm:
Empty
Cloud: The Teachings of Xu Yun
|