LUẬN
NĂM
Ý NGHĨA CỦA
TÂM KINH BÁT NHÃ
TRONG PHẬT
GIÁO THIỀN TÔNG
1
BÁT
NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn
nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità). Trong bản Hán dịch
của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ. Đây là bản lưu hành nhất
trong giới Phật tử Nhật Bản. Chân ngôn tông (Shingon), Thiên
thai tông (Tendai) và Thiền tông và Thiền tông (Shingon)[1]. Chủ
đích của thiên luận này là khảo sát xem Tâm kinh giữ một
địa vị quan trọng như thế nào trong giáo pháp của Thiền
tông. Do đó cũng nên có một kiến thức khá về chính bản
kinh đó. Vì ngắn, nên toàn thể nguyên bản Sanskrit sẽ được
dịch trang kế. F.Max Muller, vào năm 1884, cho ấn hành và xuất
bản Tâm kinh bát nhã từ bản lá bối cổ lưu trữ ở Nhật[2].
Nhưng bản dưới đây căn cứ trên bản Phạn Hán[3] của Huyền
Trang với một ít thay đổi dựa trên các bản Hán dịch khác.
Huyền Trang dịch Tâm kinh (Hridaya) ra chữ Hán vào năm 649, được
soạn tập vào ấn bản Đại tạng kinh Taisho, số hiệu 251,
với bài tựa ngự chế của Vua nhà Minh Nhưng bản này hình
ảnh không được dịch từ bản Sanskrit của Huyền Trang, số
hiệu 256, vì cả hai không phù hợp nhau mấy.
DỊCH
BÁT NHÃ TÂM KINH [4]
Khi
(1) Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitésvara) thực hành Bát nhã
ba la mật sâu xa soi thấy rằng, có năm uẩn (skandha)(2); và
thấy năm uẩn đó không có tự tánh trong chúng (3).
“Này
Xá lợi Phất (Sàriputra), sắc ở đây là không (4), không là
sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức
thị là không, không tức thị là sắc. Thọ, tưởng,
hành và thức cũng vậy
Này
Xá lợi Phất, hết thảy các pháp ở đây được biểu thị
là không [5]: chúng không sinh, không diệt , không cấu nhiễm,
không không cấu nhiễm; không tăng, không giảm. Vì vậy, này
Xá Lợi Phất, trong không không có sắc, không có thọ, tưởng,
hành, thức (5) ; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không
có sắc (6), thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới
(7), cho đến (8) không có ý thức giới; không có minh, không
có vô minh (9) không có minh diệt, không có vô minh diệt[6]
cho đến không có tuổi già và sự chết, không có sự diệt
tận của tuổi già và sự chết; không có khổ (10), tập,
diệt, đạo; không có trí, không có đắc, và không có chứng[7],
bởi vì không có đắc. Trong tâm của Bồ tát an trụ trên
Bát nhã ba la mật không có những chuớng ngại;[8] và
bởi vì không có nhũng chướng ngại trong tâm đó, nên không
có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo đạt
đến Niết bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại
và vị lai, do y trên Bát nhã ba la mật, mà chứng đắc giác
ngộ viên mãn tối thượng.
“Vì
vậy nên biết Bát nhã ba la mật là đại thần chú (mantram),
là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú
vô giá, có thể trừ diệt hết mọi khổ đau; đó là chân
lý vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong
kinh Bát nhã ba la mật: gate, gate, pàragate, pàrasamgate, bodhi,
svàha!” (Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến
bờ bên kìa, Svàha!).
CHÚ
GIẢI KINH BÁT NHÃ
(1)
Có hai bản kinh cùng nhan đề là Hridaya (Tâm kinh): một bản
được gọi là Lược bản, và bản khác được gọi là Quảng
bản. Bản dịch ở trên, của bản lược, thông dụng ở Trung
Hoa và Nhật Bản.
Đoạn
mở đầu của quảng bản trong nguyên bản phạn ngữ và tạng
ngữ được tiết lược trong bản lược như sau:
Bản
tạng ngữ có thêm một đoạn: (Kinh lễ Bát nhã ba la mật
vượt ngoài ngôn thuyết, tư tưởng và tán ngữ, vì tự tánh
như hư không, không sinh, không diệt là cảnh giới của huệ
và giới, hiển hiện trong nội tâm chúng tôi, và là mẹ của
hết thảy các đấng Thế tôn trong quá khứ, hiện tại và
vị lai), “Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế tôn ngự
tại thành Vương xá (Ràjagriha), trên đỉnh Linh Thứu, cùng
với chúng Tì khưu và Bồ tát. Bây giờ đức Thế tôn nhập
vào tam muội Chánh giác thậm thâm. Và cùng lúc đó Đại Bồ
tát Thánh Quan Tự Tại àryàvalokitộsvara đang thực hành Bát
nhã ba la mật sâu xa”.
Đoạn
kế tiếp, cũng tiết lược trong bản lược, như sau:
“Này
Xá lợi Phất, như thế Bồ tát phải tự mình thực hành trong
Bát nhã ba la mật sâu xa”. Lúc bấy giờ, đức Thế tôn rời
khỏi Tam muội và tán dương Đại Bồ tát Thánh Quan Tự Tại
rằng: hay thay, hay thay, thiện nam tử! quả vậy! Phải nên
tiếp tục thực hành Bát nhã ba la mật sâu xa. Đúng như lời
ông đã giảng thuyết, các đức Như Lai và A la hán cũng tán
dương như thế”. Đức Thế tôn hoan hỉ nói như thế. Đại
đức Xá lợi phất và Đại Bồ tát Thánh Quan Tự Tại cùng
với toàn thể chúng hội, và thế giới của chư Thiên, loài
người, a tu la và càn thát bà (gandharva) tất cả đều ca ngợi
lời của đức Thế tôn)”.
(2)
Trên quan điểm khoa học mới, khái niệm về Skandha (uẩn)
có vẻ quá mơ hồ và bất xác. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng
nguyên tắc phân tích của đạo Phật không phải xuất từ
nhu cầu khoa học suông; nó có mục đích cứu vớt chúng ta
ra khỏi ý tưởng về một thực tại cá biệt với ảo tưởng
là nó hiện hữu như thế suốt mọi thời. Vì khi ý tưởng
này được nhận làm cứu cánh, thì vướng mắc phải cái
sai lầm của sự chấp trước, và chính do chấp trước đó
đã từng bắt chúng ta làm tôi mọi cho bạo lực ngoại giới.
Năm uẩn (skanha) (các tố chất, hay các thành tố) là : sắc
chất (rùpam), cảm thọ hay tri giác giác năng (vedanà), suy tưởng
(Samjnà), tập hành hay sự tác thành (samskàra), và thức (sijnàna).
Uẩn
thứ nhất là thế giới vật chất hay chất thể của mọi
vật; bốn uẩn còn lại thuộc về tâm giới. Vedanà xuất
hiện qua các quan năng của chúng ta samjnà tương đương
với suy tưởng theo nghĩa rộng; samskàra là từ ngữ rất khúc
mắc, không có từ ngữ tương xứng ở Anh ngữ; nó chỉ cho
cái tạo nên hình chất, là nguyên lý tạo hình; vijnàna là
ý thức hay hoạt động của tâm. Có những hoạt động của
tâm khá rõ như thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó, và nghĩ tưởng.
(3)
Bản dịch của Huyền Trang có thêm: “Ngài diệt trừ tất
cả khổ ách”.
(4)
Không (sùnya) hay “tánh không” (sùnayatà) là một trong những
khái niệm quan trọng nhất trong triết lý đại thừa và đồng
thời cũng gây nhiều rắc rối khó hiểu nhất cho những độc
giả ngoài đạo Phật. Tánh Không không có nghĩa là “thực
tại tính hay hiện trung tính”, hay “cái không chi”. Nó chỉ
cho cái tuyệt đối, hay bản tính siêu việt, dù nói thế cũng
sai lầm như chúng ta sẽ thấy ở sau. Khi các nhà Phật học
tuyên bố hết thảy mọi vật đều không, họ không binh vực
một quan điểm hư vô luận; ngược lại nó ám chỉ một thực
tại tối hậu, không thể đặt dưới các phạm trù luận
lý. Với các phạm trù đó, nếu nói đến tính cách hữu vi
của vạn hữu thì cũng nói luôn hiện hữu của cái hoàn toàn
vô vi siêu việt tất cả mọi xác định. Sùntà như thế thông
thường cũng được diễn dịch rất chính xác là Tuyệt đối
thể. Khi kinh nói rằng năm uẩn mang bản sắc không (không
tuớng) hay trong cái không, không có sinh và diệt, không có
nhiễm, tịnh, v.v.. thì có nghĩa rằng: đừng có gán cho Tuyệt
đối thể những phẩm tính quyết định; khi nó nội tại
trong tất cả mọi vật thể cụ thể và cá biệt, nó hoàn
toàn không thể định tính. Do đó, phủ định toàn diện trong
triết lý Bát nhã là một hậu quả tất yếu
(5)
“Không có mắt, tai, v.v...” chỉ có sáu quan năng. Trong triết
học Phật giáo, ý thức (manovijnàna) là quan năng đặc biệt
để thâu nhận các pháp (dharma) hay các đối tượng của tư
tưởng.
(6)
“Không có sắc, thanh. v.v...” là sáu phẩm tính của ngoại
giới, chúng làm đối tượng cho sáu quan năng.
(7)
Nhãn giới v.v…chỉ cho mười tám giới (dhàtu) hay các yếu
tố của hiện hữu, chúng gồm sáu giác năng (indriya: căn),
sáu phẩm tính (visaya trần) và sáu thức (vijnàna).
(8)
“Cho đến” (sanskrit: ỳavat ; Hán: nãi chí), rất thông dụng
trong văn học Phật giáo dùng để tránh lặp lại những đề
tài đã biết. Những lối phân loại hơi có vẻ phồn tạp.
(9)
“Không có minh, không có vô minh...” là phủ định toàn bộ
12 Nhân duyên (pratityasamutpàda), gồm vô minh (avidya), hành (samskàra),
thức (vijnàna), danh sắc (nàmarùpa), lục nhập (sadàyatana),
xúc (sparsa), thọ (vedàna), ái (trisna), thủ (upàdàna), hữu
(bhava), sinh (jàti), già và chết (jaràmarana). 12 Nhân duyên này
đã được các nhà học giả đạo Phật thảo luận rất nhiều.
(10)
Đương nhiên ám chỉ Tứ diệu đế (satya); 1. Đời sống là
đau khổ (duhkha); 2. Do sự tích tập (samudaya) của các nghiệp
xấu; 3. Có thể tiêu diệt nguyên nhân của khổ (nirodha); 4.
Con đường (marga) dẫn tới diệt nguyên nhân của khổ.
2
Như
nhan đề chứng tỏ, Bát nhã ba la mật đa tâm kinh (Prajna-paramita-sutra)
được cho là làm tâm điểm hay tâm tủy (hrdaya) của bộ kinh
Bát nhã ba la mật đa. Vậy, vấn đề là: Có thực nó mang
tinh yếu của bộ kinh vĩ đại đó? Hay nó chứa đựng một
yếu tố nào ở ngoài kinh? Nếu nó chứa đựng yếu tố ngoài
kinh đô hay một yếu tố nào khác hơn, chúng ta phải hết
sức lưu ý; nghĩa là, chúng ta phải xem thử yếu tố ngoại
lai này có thực sự nằm trong bộ loại Bát nhã hay không,
đồng thời xác chứng mục tiêu của nó để cho thấy tâm
điểm của khối văn học đồ sộ này. Vậy thử khảo sát
Tâm kinh đã được trình bày ở trên.
Ðiểm
trước hết, chúng ta cứ quả quyết rằng Bồ tát Quán Tự
Tại (Bodhisattva Avalokitesvara) không xuất hiện trong bất cứ
quyển kinh nào thủy văn hệ Bát nhã, với nhiều tác phẩm
như Satasahasrka, Pancavimsatisahasrĩka Astasahasika, Saptasatika, v.v...
trong tiếng Sanskrit và bộ Ðại Bát nhã (Maha-prajnaparamita)
gồm sáu trăm quyển trong Hán văn và các tác phẩm tương đương
trong Tạng văn. Nếu đúng thế, chúng ta có thể nói Tâm Kinh
là một sản phẩm hậu kỳ, và trong đó có pha trộn các yếu
tố ngoại lai. Tuy nhiên, đây không phải là điểm chính mà
tôi muốn thảo luận trong thiên luận này. Trong Tâm kinh, còn
có một điểm khác, ngoài điểm đề cập đến Quán Tự Tại;
ấy mới làm chúng ta ngờ là một soạn phẩm hậu kỳ. Tôi
muốn nói tới việc Bát nhã ba la mật được gắn liền với
câu thần chú (mantram) làm thế luận cho bài pháp của Quán
Tự Tại về Tánh Không (Sùnyatà). Văn học Bát nhã đặc biệt
không bị chi phối bởi sự xâm nhập của các công thức ma
thuật như Minh chú (Vidyà) Cấm chú (Mantram) hay Tổng trì (Dharàni).
Sự thực, chính Bát nhã được coi như là Ðại minh chú trong
kinh, nhưng không đề ra những Cấm chú (Mantram) riêng biệt
nào, và đó mới đích xác là trường hợp của Tâm kinh.
Vì
rằng, trong Tâm kinh, có một câu thần chú (Mantram) đặc biệt
được mệnh danh là “Bát nhã ba la mật đa” gồm những
chữ này: “Gate, gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi, svaha”. Lối
xen kẽ đó hoàn toàn mới mẻ, cần phải đặc biệt lưu ý.
Nhớ
kỹ hai điểm này: sự xuất hiện của ngài Quán Tự Tại
và sự xen kẽ Cấm chú, chúng ta thử phân tích nội dung của
chính bản kinh.
Thoạt
tiên, cái gây chú ý nhất trong khi theo dõi bản văn là, hầu
như không có gì hết ngoài một tràng phủ định, và cái được
mệnh danh Tánh là Không thì là thuần túy phủ định luận,
nó giản lược kỳ cùng tất cả vào cái không. Thế thì,
kết luận sẽ là, Bát nhã ba la mật, hay đích thực sự thực
hành của nó, cốt ở chỗ phủ định tất cả. Phủ định
năm Uẩn (skandha); phủ định 18 Giới (dhàtu); phủ định 12
Xứ (ayatana); phủ định 12 Nhân duyên; phủ định 4 Thánh đế.
Và cuối điểm của hết thảy những phủ định này không
có trì hay đắc gì cả. Ðắc (pràpti hay labdhi) có nghĩa là
chú tâm vào và giữ chặt lấy sở tri kết quả từ suy luận
đối đãi. Vì không có thứ đắc nào hết, nên tâm hoàn toàn
vượt qua mọi chướng ngại tức những sai lầm khởi lên
từ tác dụng trí năng và vượt luôn những chướng ngại
bắt rễ trong ý thức truy nhận và cảm quan của chúng ta,
ngại sợ hãi và bàng hoàng, vui vẻ và buồn phiền, thất
vọng và giải đãi Khi chứng được như thế là đã đạt
tới Niết bàn. Niết bàn và giác ngộ (sambodhi) là một. Vậy
ra do từ Bát nhã ba la mật mà hiện khởi hết thảy chư Phật
trong quá khứ, hiên tại và vị lai. Bát nhã ba la mật đa là
mẹ của Phật đạo và Bồ tát đạo, điều thường xuyên
được nhắc nhở trong văn học Bát nhã
Ðến
đây, chúng ta có thể nói, Tâm kinh hoàn toàn phù hợp với
tinh thần của các kinh điển Bát nhã ba la mật. Khởi đầu
với các phủ định, rồi chấm dứt với một xác quyết,
mà trong thuật ngữ Phật giáo gọi là “giác ngộ” ý niệm
về Tánh Không có thể làm khiếp đảm kẻ sơ cơ bởi người
ta thường có thói quen coi nó như một thứ hư vô hóa toàn
triệt, nhất là khi Tâm kinh có vẻ chỉ là chuỗi phủ quyết.
Nhưng, vì chuỗi phủ quyết này cuối cùng đưa chúng ta tới
cái quyết định, mặc dù cái đó không hẳn là xác quyết
theo nghĩa thông thường. Tâm kinh rồi ra không phải một loại
thánh kinh của hư vô chủ nghĩa. Bát nhã ba la mật, làm được
điều kỳ diệu đó, tức diễn dịch hay dẫn khởi một xác
quyết từ những phủ định vô địch, cho nên đáng được
coi như một đại thần chú vô song, vô đẳng đẳng chú. Nói
một cách không thường, Tâm kinh phải đúc kết bằng câu
đó; bài pháp của ngài Quán Tự Tại giảng cho Xá lợi phất
(Sariputra) tiến tới kết luận đương nhiên của nó; khỏi
đi xa hơn nữa, và khỏi phải đọc ta cứ như hát Kịch rằng
thần chú đó là “Gate, gate, v.v.”
Có
thể hiểu tại sao nói Bát nhã ba la mật đa là một đại
phần chú, nhưng nói rằng đại Bát nhã thần chú đó là "Gate,
gate...” thì hình như không có nghĩa gì hết. Những gì đã
sáng tỏ và hợp lý, đến đây bỗng trở thành một thứ
biến dạng huyễn hoặc. Tâm kinh chuyển thành một bản văn
của chú thuật thần bí. Cái này có vẻ là một sự thoái
hóa hay một sự suy sụp. Ðâu là ý nghĩa của biến thái đột
ngột? Hoặc, tại sao có sự vô nghĩa này?
Cái
gọi là Bát nhã ba la mật đa thần chú, nếu dịch ra có nghĩa:
“Này Trí tuệ, đi qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, đi qua đến
bờ bên kia, svàhà!” Svàha là lời chúc lành, lúc nào cũng
nằm ở đoạn cuối của một Mantram hay Dharani. Tiếng thét
đó có can dự gì tới việc tụ tâp bát nhã ba la mật sâu
xa? Mỗi khi được đọc lên, đại khái người ta cho là Mantram
hay Dharani gây ra những phép lạ. Trong trường hợp này, hiệu
quả linh nghiệm do đọc “gate” phải là sự chứng Ngộ.
Vậy, chúng ta có thể nói, cùng đích của môn Phật học khả
dĩ đạt được chỉ cần do cái câu thần bí đó? Ðối với
Tâm kinh đương nhiên đấy là lời kết, vì ở đây không
thể có suy luận nào khác. Làm thế nào người ta có thể
đồng hóa Bát nhã với câu chú “gate” Chúng ta có thể thấy
các tín đồ Chân tông nhận Tâm kinh làm một trong các kinh
chính của họ quá dễ dàng và tự nhiên. Nhưng Thiền cũng
đã từng đọc nó trong khóa tụng hằng ngày bằng cách nào?
Ý niệm và Chân ngôn ( Mantram) khá xa lạ đối với Thiền
đồ. Từ triết học về Tánh Không (Sùnyatà) và Chính giác
(Sambodhi), chuyển hướng đến một tôn giáo của chú thuật,
không dễ gì chấp nhận nổi.
Sự
kiện khác, làm cho hiện diện của Mantram trong Tâm kinh càng
huyễn hoặc hơn, là bài chú (Mantram) kết thúc luôn luôn được
đọc theo lối phỏng dịch nghĩa, làm như âm hưởng đích
thực của lối dịch âm Phạn hán là một tác động mầu
nhiệm. Các loại thần chú không bao giờ được dịch nghĩa
sang Hán văn. Ðây là một cách rất tự nhiên. Nếu các câu
đó không sao hiểu nổi, và chúng cố để cho không hiểu,
chúng càng khó hiểu, vì cứ đề y nguyên văn thì uy lực mầu
nhiệm ẩn náu đằng sau lại càng có hiệu nghiệm. Nhưng,
tại sao trong Thiền lại cần có cái thứ không hiểu nổi?
Không hiểu nổi không phải là không đạt tới nổi kinh bát
nhã ba la mật đa nói nhiều đến chỗ đó.
Chắc
chắn, trong dòng phát triển của nó tại Trung Hoa Thiền đã
thâu nhận khá nhiều thủ pháp của Chân ngôn tông, và trong
nghi lễ của nó có nhiều Thần chú và nhiều Ðà la ni thực
sự của Chân ngôn tông. Vì lý do đó, tôi nghĩ rằng, sự
phát sinh của Tâm kinh thuộc vào một thời kỳ trễ hơn toàn
thể bộ phận của chính văn học Bát nhã. Dù vậy, đâu là
ý nghĩa của câu thần chú “Gate!” trong Tâm kinh, một
trong số các kinh văn quan trọng nhất trong giáo pháp của Thiền?
Nếu câu thần chú giữ một địa vị lưng chừng trong kinh,
mặc dù trong một tác phẩm ngắn loại này khó mà tìm thấy
ngay tại chỗ có cái quan trọng nào thứ yếu hơn, thì câu
hỏi về ý nghĩa của thần chú có lẽ không là vấn đề
trọng đại. Nhưng, một độc giả dù khinh suất cũng nhận
thấy ngay địa vị rất nổi bật mà thần chú đã chiếm
cứ trong sự tiến triển của học thuyết Bát nhã. Sự thực,
hình như toàn thể bản kinh được viết ra vì câu thần chú
đó, và không có gì khác hơn. Nếu vậy, rồi ra đâu là ý
nghĩa của thần chú, ngoài nghĩa đen của nó? Tại sao nó là
cao điểm của toàn bộ phủ định trong Tâm kinh?
Theo
ý tôi, giải quyết cái huyền diệu này không những là chìa
khóa để thấu hiểu toàn bộ triết lý Bát nhã, mà còn hiểu
luôn cả mối quan hê chính yếu của nó đối với Thiền.
Vì vậy tôi đã nói nhiều về sự xen kẽ của thần chú trong
Tâm kinh.
Trước
khi thần chú “gate!” vén mở bí mật của nó trong liên hệ
với học thuyết về Tánh Không và Giác ngộ, cũng nên thử
xem các giáo thuyết cốt yếu của kinh Bát nhã ba la mật đa
là gì. Hiểu được cái đó, sẽ dễ định giá Tâm kinh hơn,
nhất là trong tương quan sinh tử của nó với chứng nghiệm
của Thiền[9]
Sau
khi nhận xét về kinh Bát nhã ba la mật đa trong các trang tiếp
theo đây, chúng ta sẽ có thể thấy rằng, giáo thuyết của
Tâm kinh có chỗ phù hợp và có chỗ không với các bản kinh
chính của Bát nhã. Phù hợp ở chỗ cả hai đều lấy Trí
Bát nhã
làm
căn nguyên của giác ngộ, và không phù hợp ở chỗ Tâm kinh
hoàn toàn nhấn mạnh trên câu thần chú “gate!”. Sắc thái
này vắng mặt hẳn trong các bản kinh chính của bộ Bát nhã.
Trong Tâm kinh, việc tụ tập Bát nhã ba la mật đa được đồng
hóa với việc tụng đọc thần chú.
Theo
Ngài Huyền Trang không phải đọc thần chú, mà là đọc trọn
cả Tâm kinh do đức Quán Tự Tai nói; ngài xuất hiện vào
lúc Huyền Trang đang trên đường đi Ấn Ðộ. Huyền Trang
được dạy học kinh này mỗi khi gặp những gian nan và tân
khổ qua những cảnh man dại bị bao phủ trong tuyết lạnh,
bị cuốn bởi những ngọn gió lốc ào ạt và thú dữ thường
xuyên qua lại. Bồ tát hiện thân làm một nhà sư bịnh hoạn,
đọc bài kinh để trấn an nhà sư chiêm bái vĩ đại này của
Trung Hoa. Sư thành tín tuân theo lời khuyên, và cuối cùng nhờ
đó đã có thể bình an đi tới vùng đất tâm nguyện. Bấy
giờ kinh được coi như là chứa đựng tinh yếu của Phật
tâm.[10]
Câu
chuyện khá hấp dẫn, nhưng tụng đọc ở đây cốt để tránh
xa những gian nan hiểm trở chứ không phải để khai ngộ tâm
trí. Ðây không đề cập tới sự đồng nhất của Bát nhã
ba la mật với Cấm chú coi như để dọn sạch những trở
ngại và những dao động của tâm. Ý nghĩa này có thể tìm
thấy nơi khác.
Khi
thần chú được trì tụng mà không cần nghĩ đến kết quả
của nó sẽ như thế nào, và tụng theo cách mà kinh Bát nhã
khuyến cáo những ai muốn học Bát nhã, thì bằng phép lạ
nào mà đạo nhãn được mở ra và soi thấy những bí mật
của Bát nhã? Khi một Thiền sư được hỏi về con số của
các sư tăng trong thiền viện của mình, sư đáp: “Trước
bà ba, sau bà ba”. Ðối với phàm tâm, trả lời kiểu đó
chẳng cho biết bấy giờ sư đang nghĩ gì trong lòng. Có lẽ
thần chú “gate!” có cái ý gì ở bên trong, và chỉ những
ai đã vào đạo mới có thể hiểu nổi; khi hiểu được cái
bí nhiệm trong câu trả lời, vấn đề tự nó trở thành sáng
tỏ và tất cả những gì được ẩn tàng trong Bát nhã lồ
lộ trước mặt có thể lắm; nhưng rồi, tại sao lại là
câu thần chú Gate đặc biệt này, chứ không là cái gì khác?
Câu thần chú đó một cách nào đó khá vô nghĩa, nếu xét
về nghĩa đen của nó thì không tài nào hiểu cho nổi. Chỉ
khi nào đặt trong toàn thể nội dung của Tâm kinh mà chúng
ta đã biết, mới thấy nó hết vô nghĩa. Vấn đề của chúng
ta ở đây sẽ là: Có liên hệ mật thiết nào giữa giáo pháp
chung của Tâm kinh và khẩu quyết, hay đúng hơn và lời tán:
“Đi qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, đi qua đến bờ bên kia,
chào Bodhi !”?
3
Theo
ý tôi, có thể giải quyết tất cả những khúc mắc để
thấu triệt Tâm kinh bằng cách sau đây.
Khi
giáo thuyết Bát nhã hoàn toàn đồng nhất với kinh nghiệm
Phật giáo, Tâm kinh được viết ra để nói lên những điểm
cốt yếu của Bát nhã trong một hình thức rất giản ước
đồng thời để chỉ định tiến trình tâm lý của hành giả
tu tập Bát nhã ba la mật uyên áo này. Khi kinh bắt sang trào
lưu phát triển khác, nó mở rộng thành một nền văn học
rất phồn tạp, rườm rà, đồ sộ, mà tại Trung Hoa được
biết dưới danh hiệu Đại bát nhã ba la mật đa (Mahàprajnàpàramità
Sùtra) 600 quyển; trong số đó, 400 quyển đầu đại để tiếng
đương với bản Sanskrit Satasàhasrikà prajnàpàramità, Bát nhã
bách thiên tụng tức bản kinh gồm 100.000 bản tụng. Bản
kinh nào sớm nhất bản rút ngắn hay bản mở rộng[11]; chúng
ta chưa thể biết được. Nhưng, bản rút ngắn không có nghĩa
chỉ là cô đọng; đồng thời với lúc cô đọng nó chuyển
hướng bản kinh thành một tài liệu tâm lý học về kinh nghiệm
Bát nhã. Đây là sự thay đổi đáng chú ý, vì rằng khi thêm
vào câu thần chú “Gate” là đã thay đổi toàn diện sắc
thái của việc giản ước. Nếu không có câu thần chú, giản
ước vẫn là một sự kiện đơn giản, không có nghĩa gì
hết, và tầm quan trọng nặng ký của nền văn học đó đến
đây biến mất hẳn.
Trong
lúc tôi chưa thể tìm thấy một cách chính xác là tâm kinh
trở thành một khóa bản của Thiền tại Trung Hoa vào lúc
nào, các thiền sư hẳn đã khá sáng suốt, trong lịch sử
của Thiền, thấy kinh còn có yếu tố khác chứ không chỉ
là một cố gắng cô đọng. Cho đến về sau, kinh Kim cương
(Vajracchedika) đã đáp ứng cho chủ đích đó, và ngay cả trước
thời Huệ Năng cũng vậy. Khi Huyền Trang kể những chuyện
linh ứng của mình do đọc Tâm kinh, các thiền sư nhận ngay,
và đồng thời còn thấy bên trong có yếu tố khác nữa. Cái
“yếu tố khác” đó có thể .không lọt vào tầm mắt của
các luận sư Duy thức học (Vijnaptimatra), nhưng không trốn
khỏi các Thiền sư họ đặt kinh nghiệm đi trước triết
lý, và rất sốt sắng với giá trị tâm lý của tất cả
nền văn học Phật giáo. Họ hiểu ý nghĩa của thần chú
khác hẳn các tín đồ Chân ngôn tông.
Một
sự kiện đáng lưu ý là thần chú Gate cũng thấy có ở cuối
bộ Đại Bát nhã bản Hán dịch của Huyền Trang. Hình như
nó được thêm vào đời Nguyên, vì ấn bản đời Nguyên mới
có nó. Phải chăng ý tưởng phụ thêm thần chú nên coi là
xuất phát từ Tâm kinh khi nó bắt đầu lưu hành rộng rãi
trong giới Phật tử? Kinh Bát thiên tụng (Astasàharikà) nói
rằng Bát nhã ba la mật là một minh chú (vidyà) lớn, không
lường được, không dò được, không sánh được, và tối
thượng; nếu vậy, nên coi “Gate” như là lối tán dương
của Tâm kinh bằng những từ ngữ chói sáng của Thần chú.
Trở
lại chủ đề chính, việc tụ tập Bát nhã uyên áo cũng là
việc thực tập công án, mà tôi đã đề cập trong Thiền
luận bộ trung. Quán Tự Tại (Avalokitesvara, hoặc Quán Thế
âm) là người học Thiền, và đức Phật trong Tâm kinh cho
biết ngài Quán Tự Tại đã học như thế nào. Vì Bát nhã
là công án được đề ra cho ngài giải quyết, làm phương
tiện chứng quả giác ngộ tối thượng. Quá trình chứng ngộ
của ngài xuôi theo dòng phủ quyết. Phủ định bất cứ thứ
gì có thể đem trí óc mà hiểu như là một đối tượng của
tư tưởng. Thiền tông cũng làm như thế. Nó bắt đầu bằng
trí óc. Phải trừ diệt vô minh cố hữu trong tâm từ vô thủy
quá khứ. Đó là bước thứ nhất hướng tới giác ngộ. Vô
minh tức không thấy sự thực (dharma, pháp) như thế là như
thế, yathàbhùtam (như thật). Vậy rồi, Tâm kinh đề ra một
tràng phủ định, chối bỏ luôn cả nhận thức, hay trí. Bởi
vì, chừng nào ý thức còn có chỗ bám, đó thực là một
trở ngại trên đường đi về giác ngộ tối thượng. Tự
chủ và tự tại có nghĩa là có đường đi hoàn toàn dẹp
sạch tất cả các chướng ngại vật chúng có thể chân ngang
dòng suối tự do và tự tác chủ của Bát nhã. Phủ định
là dọn sạch, là thanh lọc như thế. Trong thực tập công
án, dọn sạch như thế cũng là phương sách tiên quyết.
Chúng
ta biết rằng, phủ định chỉ là phương tiện nhờ đó để
thành tựu cái khác. Trong Bát nhã ba la mật, nó cũng là cái
dẫn chúng ta đi tới mục đích của pháp môn này. Thiền,
ngay từ khởi thủy, đề ra cho chúng ta một công án coi nhẹ
giải thích của trí óc, và do đó chỉ con người phủ định
cho chúng ta đi mà không cần nói một cách công khai. Tâm kinh,
trực thuộc văn học Bát nhã, diễn theo cái đà diễn tiến
chung này, và chứa đầy tiếng không! Nhưng chúng ta cắm dùi
vào đâu sau khi vứt bỏ hết mọi kho tàng trí nàng, khái niệm?
Là cái không trơ trọi, là khoảng trời trống trơn, là cái
trống rỗng hoàn toàn, đó là ý nghĩa của Sùnyatà (Tánh Không)
ư? Nếu đúng vậy, chúng ta vẫn ở nguyên trong cảnh vực
của những khái niệm “Cái không chi” (ngoan không) vẫn còn
là một trong những đối tượng tư tưởng của chúng ta. Phải
vứt bỏ cái đó, vì đó là điên đảo và mộng tưởng.
Trong
Phật giáo Chân tông, bỏ “tự lực” cốt để vãng sinh
về quốc độ của Phật Di Đà (Amìtàbha). Phủ định cũng
là khẳng định ngay đó. Chân tông tránh dùng trí năng. Chủ
trương phủ định của nó không gây kinh hãi và thất vọng
cho bằng Bát nhã ba la mật. Tuy nhiên, ngay đây, một tâm trạng
gọi là “không bố úy”, “không quái ngại” được trồi
lên làm mục tiêu. Mục tiêu đó là gì? Giác ngộ tối thượng
này là gì? Nó ở đâu? Khi nào đạt đến?
Đạt
đến, lúc ngài Quán Tự Tại tuyên bố, “Gate, gate, paragate,
parasamgate!”. Vì đó là sự phóng xuất vọt ra từ nội tâm
của ngài khi ngài sang ngang dòng phủ định. Ngài là hành giả
của Bát nhã ba la mật đa, không thể vĩnh viễn quanh quẩn
trong một vòng tròn phủ định. Một khi ngài đi đến đích,
kiệt sức và vô vọng, chẳng còn ước mong nào trước mặt,
và ngài biết nhưng gì đã bị bỏ lại đằng sau. Nhưng vẫn
có cái thúc đẩy bước tới. Trí năng và xúc cảm hoàn toàn
cùng tận, ngài thực hiện bước nhảy tối hậu. Bứt lìa
đoạn dây cuối cùng trói buộc ngài vào thế giới của đối
đãi và “tự lực”. Ngài thấy mình đứng trên bờ bên
kia. Bị áp đảo bởi các tình cảm của mình, ngài chỉ có
thể đọc lên “Gate”. Rồi thì, Gate trở thành câu thần
chú của ngài, Gate trở thành thần chú của Bát nhã ba la mật
đa. Với sự phóng xuất đó, mọi vật bừng sáng, và Quán
Tự Tại đã tu tập Bát nhã đến chỗ cuối cùng.
Tôi
kết luận rằng, đây là ý nghĩa của Tâm kinh. Do giải thích
bản kinh như thế, chúng ta có thể hiểu tại sao Gate là kết
luận, và tại sao kết luận này diễn tả nội dung của Tâm
kinh một cách triệt để. Để riêng thần chú ra, nó chẳng
có nghĩa gì hết, và khó mà hiểu tương quan sinh tử của
của nó với kinh Bát nhã ba la mật. Đừng có bước tới Tâm
kinh bằng con đường tắt của trí năng, dù thoạt trông nó
như chỉ ra lối đi đó, phải tiến tới theo đường dây của
kinh nghiệm tôn giáo, tức là, bằng đường dây mà chúng ta
giữ chặt trong lối tham cứu công án. Ý nghĩa của thần chú
như thế vén mở những bí mật của nó, và kết quả Tâm
kinh trở thành một tài liệu hoàn toàn dễ hiểu có giá trị
tôn giáo rất lớn.
Nếu
Tâm kinh là một sản phẩm của thiên tài Trung Hoa, câu thần
chú có thể không mang hình thái Gate! Như chúng ta đã thấy
qua nhiều trường hợp khác nhau rồi, thần chú của các thiền
sư đã khoác những màu sắc khác hẳn. Nhưng, trên phương
diện tâm lý mà nói, quá trình tâm linh được chứng nghiệm
bởi người Trung Hoa và Ấn Độ rõ ràng cũng thế và hiển
nhiên, phải thế. Khi một người Trung Hoa được hỏi Phật
là ai, y trả lời: “Đó là một cái thùng đầy nước bị
thủng đáy”.
Phê
phán theo tiêu chuẩn thường của luận lý, nói thế nghe như
nói một Dharani. So sánh Phật với thùng nước coi có vẻ phạm
thượng, nhưng trong con mắt của Thiền thì phải là cái thùng
thủng đáy, nước tuôn ra ngoài hết và không có trăng rọi
bóng vào trong đó. Rồi Phật mới hiện thân với 32 tướng
tốt.
Tâm
kinh không cụ thể mức này, nhưng nó mô tả kinh nghiệm Thiền
khá sáng sủa.
Trong
“Gate!” những phủ định của Tâm kinh đã vươn tới khẳng
định lớn, mà trong tất cả các kinh điển Đại thừa gọi
là Chân như (tathtà). Những phủ định ấy cốt dẫn các hành
giả của Bát nhã đi tới kết cuộc này. Việc đọc của
Huyền Trang, đọc trong hình thức chú thuật, bây giờ trở
nên chứa đựng những giá trị tôn giáo có tầm vóc lớn.
Do sức mạnh của câu thần chú kết thúc, giác ngộ tối thượng,
mà các học giả quen hiểu bằng trí năng, trở thành một
biến cố vĩ đại của kinh nghiệm tâm linh. Địa vị của
Tâm kinh trong giáo thuyết của Thiền được định đúng mức
ở đây.
Vẫn
còn phải cắt nghĩa trường hợp nào thần chú đặc biệt
đó được đọc lên. Cái này đòi hỏi dài dòng hơn, mà ở
đây thì không đủ; tôi chỉ có thể nói vắn tắt là, ý
niệm “bờ bên kia” có chất Ấn riêng biệt, Và nó xuất
hiện sớm trong văn học tôn giáo của Ấn Độ. Lấy thí dụ
từ văn học Phật giáo khởi thủy, trong kinh Pháp cú chúng
ta có câu này?
appaka
te manussem yejana paragamino athayam itara paja tiram evanudhavati
Một
ít người sang tới bờ bên kia;
Những
người khác đang lang thang ở bờ bên này.
Có
thể nói, Tathagata là paragata, Như Lai là Người Qua bên kia.
Nhưng, ý niệm tathà đã trở nên có xu thế trong triết học
Phật giáo hơn pàram và Pàràgata được thay thế bằng Tathàgata.
Dấu vết ý niệm Pàram còn sót lại trong chữ Pàramità, chỉ
cho những đức tính dẫn hành giả sang bờ bên kia của giác
ngộ. Pàramità thường được dịch là đáo bỉ ngạn, sang
đến bờ bên kia, mà trên thực tế đồng nghĩa với paragata,
đi qua bờ bên kia; hai thành ngữ khác nhau là về hướng đi.
Đi từ cuối bên này, và đến ở cuối kia; tùy theo chỗ đứng.
Trong kinh Bát nhã ba la mật đa, dòng tiến của Quán Tự Tại
mà diễn tả như đã “cập bờ bên kia” (pàrasamgate), thì
rất là chính xác
Động
Sơn Lương Giới[12] thuở còn là chú tiểu, một Luật sư dạy
học Tâm kinh, và sư cố cắt nghĩa câu này: “Không mắt,
không mũi...”. Nhung Lương Giới đưa mắt nhìn chăm chú sư,
rồi sờ vào thân thể mình, và sau hết nói: thầy có hai mắt,
hai tai, và các căn khác, và con cũng có như thế. Tại sao Phật
dạy là không có?”. Luật sư nghe hỏi, ngạc nhiên bảo: “Ta
làm thầy con không nổi. Con nên theo hầu một Thiền sư, vì
sau này sẽ là một đại sư của Đại thừa”.
Khi
một tâm hồn trẻ trung hay thắc mắc như Lương Giới mà vấp
phải phủ định luận của Bát nhã, đó là dấu hiệu tốt.
Nếu cứ tiếp tục thắc mắc, nhất định sẽ có ngày bùng
vỡ. Nhưng sau khi bùng vỡ nên bước trở lui lại con đường
phủ quyết để thử xem trong con đường dẫn vào chứng nghiệm
có thứ gì. Thuyết Tánh Không chẳng còn là phủ định luận
thuần túy nữa. Rồi tôi sẽ giảng giải trong các trang sau;
đó là cách giản dị nhìn các pháp như thật (yathàbhùtam),
nhìn chúng dưới sắc thái Tathatà của chúng. Nó không chối
bỏ thế giới vạn thù; núi non vẫn đó, hoa anh đào đang
nở rộ, ánh trăng tỏa rạng trong đêm thu; nhưng đồng thời
chúng không chỉ y nguyên là những cái riêng biệt, chúng gợi
cho ta một ý nghĩa sâu thẳm, chúng được thấu hiểu trong
cái không là chúng. Tâm kinh nằm trên nền tảng này.