LUẬN
BỐN
GANDAVYÙHA
NÓI VỀ MONG
CẦU GIÁC NGỘ
1
Chứng
giác ngộ tối thượng (anuttarasamyaksambodhi) là cứu cánh của
đời sống người theo đạo Phật; dù Đại thừa hay Tiểu
thừa, đó là một sự kiện mà hết thảy những người học
Phật đều biết rõ: bởi vì thành tố của Phật giáo chính
là sự giác ngộ, mà Phật đã đạt đươc dưới gốc cây
Bồ đề, bên dòng sông Ni liên thuyền (Nairanjana) trên 25 thế
kỷ về trước. Tất cả giáo thuyết của Phật giáo được
truyền dạy tại Đông phương ngày nay cùng bắt nguồn cảm
hứng nơi chân lý này, cái chân lý vừa có tính cách lịch
sử vùa mang chất siêu hình. Nếu không vì sự giác ngộ đó
thì không có Phật, không có đạo Phật, không có Thanh văn
(Sravaka), không có Duyên giác (Pratyekabuddha), không có A la hán,
không có Bồ tát. Giác ngộ là nền tảng của tất cả triết
học Phật giáo, cũng như tất cả hoạt dụng Phật giáo, đạo
đức và tâm linh.
Phật
tử nguyên thủy đi tìm sự giác ngô cho chính mình, cho lợi
lạc tâm tinh của riêng mình, và hiển nhiên không nghĩ đến
những kẻ khác, không nghĩ đến tất cả mọi người, mọi
loài. Ngay dù họ có nghĩ đến, thì họ đòi hỏi mỗi cá
nhân Phật tử phải tự nỗ lực cho sự giải thoát tức là
giác ngộ cho riêng mình, bởi theo họ, vô minh cản trở không
để họ thành tựu giác ngộ và nghiệp ràng buộc họ vào
luân hồi, hai thứ đó nương tựa trên khái niệm về những
thực tại cá biệt
Với
các nhà Đại thừa, ngược lại. Khát vọng giác ngộ của
họ trước hết là vì thế giới. Chính bởi họ mong cầu
sự giác ngộ và giải thoát của cả thế giới nên trước
hết họ nổ lực tụ giác ngộ, tụ giải thoát, tự mình
cởi bỏ sự ràng buộc của nghiệp và những chướng ngại
do tri thức (sở tri chướng). Chuẩn bị như thế rồi họ
mới cất bước đi vào thế gian và công bố chánh pháp của
Phật cho các loại hữu tình.
Vì
lý do đó, Đại thừa nhấn mạnh trên ý nghĩa tâm nguyện
đại bi (mahakaruna). Cứ giở bất cứ quyển kinh nào của Đại
thừa, lúc nào chúng ta cũng phải ghi nhận những chữ thuộc
loại bi (karuna), mẫn (anukampana) hướng đến hết thảy chúng
sinh (sarvasattva; jagat) hầu mang lại cho chúng sự nương tựa
(paritrana), hộ trì (samgraha), hứng khởi (paricodana), thành thục
(paripaka), luật nghi (vinaya), thanh tịnh (parisuddha),
Rồi
lý tưởng Bồ tát - một chúng sinh (sattva) đi tìm sự giác
ngộ (bodhi) - như tôi đã từng nói, bắt rễ trong đạo Phật;
và một thứ Phật giáo thế tục thay thế học phái cổ của
chế độ tăng lữ khổ hạnh và nghiêm khắc. Người tại
gia không chỉ để phục vụ cho vị bất sĩ vô gia đình; giáo
thuyết của Phật phải được thực hành không riêng cho tập
đoàn ưu tú, và khuynh hướng dân chủ xã hội đó đã làm
thay đổi rất nhiều tư tưởng Phật giáo. Một trong những
thay đổi đó là phân tích một cách thực tiễn quá trình
giác ngộ.
Các
nhà bác học Tiểu thừa chuyên tâm những vấn đề tinh tế,
về thế giới của sắc, hữu hình (rupaloka), về thuyết vô
ngã (anatmya), về nhân cách của Phật, về phân tích tâm, v.v...
Họ có xu hướng quá siêu hình, quá học thuật, quá duy lý,
với kết quả là những vấn đề thực tiễn liên quan đến
sự thành tựu giác ngộ và sự ứng dụng hiệu nghiệm của
nó trong môi trường sinh hoạt thường nhật của chúng ta bị
bỏ quên. Mối bận tâm chủ yếu của các nhà Đại thừa
là chính cái đời sống đó.
Khi
khảo sát về quá trình hiện thực của giác ngộ. Đại thừa
thấy ra rằng nó gồm có hai bước quyết định. Khởi đầu
cần phải tạo nên một khát vọng giác ngộ vì kẻ khác,
thì mục đích tối hậu mới có thể thành tựu được. Khát
vọng đó cũng quan trọng và rất có ý nghĩa như sự thành
tựu, vì không thể có thành tựu nếu không có khát vọng
kia; quả thực, sự thành tựu luôn luôn được xác định
bởi khát vọng; tức là, thời gian, nỗ lực, hiệu quả, .v.v..
của giác ngộ, hoàn toàn dựa trên phẩm chất của ý nguyện
ban sơ được phát khởi cho sự thành tựu chủ đích tối
hậu. Động lực xác định diễn trình, cá tính, và năng lực
của hành động. Mong cầu giải thoát được thúc bách kịch
liệt có nghĩa rằng, quả vậy, cái phần lớn và khó khăn
của sự nghiệp đã được làm xong. Người ta cũng nói, khởi
sự tức là hoàn tất.
Dù
vậy, các nhà Đại thừa ý thức rõ giá trị của tâm nguyện
ban sơ, khát vọng chứng thành giác ngộ. Sau cuộc phát tâm
lần đầu này, vẫn còn nhiều cuộc tu tập; nhưng khóa trình
mà Bồ tát bấy giờ phải hạ thủ đã được xác định
trọn vẹn và chắc chắn. Công trình quả là tân khổ, nhưng
ngài không còn ở trong bóng tối của nghi ngờ và ngu dốt.
Vì vậy, trong các kinh điển Đại thừa, sư trỗi dậy ban
sơ của khát vọng giác ngộ đó được coi là một biến cố
trọng đại trong đời sống của một Phật tử, và được
nhắc nhở một cách đặc biệt.
Coi
Bồ tát như một kẻ trên thì mong cầu giác ngộ, mà dưới
thì do tấm lòng lân tuất nhiệt tình muốn cho khắp cả thế
gian thọ hưởng pháp lạc, cái lý tưởng đó được kiên
trì trong tất cả những người theo Đại thừa giáo. Thượng
cầu Bồ đề, hạ hóa chúng sinh như thế đã là nguyên tắc
quy phạm của đời sống đạo Phật ở Viễn đông. Trong tất
cả các Thiền viện, người ta xướng lên bốn đại nguyện
vào mọi cơ hội, sau một công tác, sau một thời kinh, sau
một bữa cơm, sau một buổi giảng:
衆
生 無 邊 誓 願 度
Chúng
sinh vô biên, thệ nguyện độ;
煩
惱 無 盡 誓 願 斷
Phiền
não vô tận, thệ nguyện đoạn;
法
門 無 量 誓 願 學
Pháp
môn vô lượng, thệ nguyện nguyện học;
佛
道 無 上 誓 願 成
Phật
đạo vô thượng, thệ nguyện thành.
Không
rõ các “thệ nguyện” này được quy định và được nối
kết vào đời sống của thiền tăng vào lúc nào, nhưng cái
tinh thần sung mãn trong chúng là tinh thần của đại thừa
cũng như tinh thần Thiền, và hiển nhiên, kể từ khi đạo
Phật truyền vào Trung Hoa và Nhật Bản, nguyên tắc các thệ
nguyện đó đã ảnh hưởng đời sống văn hóa Đông phương
trong mọi ngành.
Ganda
có mô tả hai sắc thái của đời sống Phật tử. Thứ nhất,
phát Bồ đề tâm hay làm trổi dậy khát vọng mong cầu giác
ngộ tối thượng; thứ hai, thực hành đạo của Bồ tát,
tức là Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra). Thiện Tài đồng
tử (.Sudhana) sau khi đã phát tâm (cittotpada) dưới sự chỉ
dẫn của ngài Văn Thù, từ đó cuộc hành hương hoàn toàn
nhắm vào việc hỏi thăm cách thức thực hành bồ đề hạnh
(bodhicaryà). Cho nên ngài Văn Thù nói với đệ tử của mình,
khi ngài chỉ thị Thiện Tài đồng tử ra đi cho một cuộc
lữ hành trường kỳ và gian khổ: “Lành thay, lành thay, thiện
nam tử! Sau khi đã phát tâm mong cầu giác ngộ tối thượng[1],
bây giờ lại muốn tìm học hạnh của Bồ tát, Thiện nam
tử, ít thấy có ai phát tâm mong cầu giác ngộ tối thượng,
mà những ai sau khi đã phát tâm mong cầu giác ngộ tối thượng
lại còn tìm học hạnh của Bồ tát, càng ít thấy hơn. Vì
vậy, thiện nam tử, nếu muốn thành tựu Nhất thiết chủng
trí, hãy tinh tiến thân cận các bậc thiện hữu tri thức
(kalyanamitra)...”
Trong
kinh Bát nhã Ba La mật, sắc thái thứ hai của đời sống Phật
tử, sau khi phát tâm Bồ đề, là thực hành Bát nhã Ba La mật.
Trong Ganda, sự thực hành đó được thắt chặt với công
hạnh của Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra); và Bồ đề hạnh
(Bodhicaryà), sinh hoạt của sự giác ngộ, được đồng hóa
với Phổ Hiền hạnh (Bhadracaryà). Như thế, Phổ Hiền (Samntabnadra)
đứng đối với Văn Thù (Manjusri) trong Ganda. Có thể nói:
ý tưởng về nhân cách hữu ngã đã xâm nhập ở đây.
Trong
các kinh Bát nhã Ba La mật Bát nhã văn hoàn toàn vô ngã. Một
đoạn kinh nói như sau[2]: “Trong thế gian này ít ai có thể
nhận biết sáng tỏ Phật, Pháp, Tăng là gì, ít ai thành tín
bước theo Phật Pháp Tăng... ít ai có thể phát tâm vô thượng
bồ đề[3]... Tu hành Bát nhã lại càng ít nữa... Tinh tiến
tu hành Bát nhã cho đến địa vị Bất thối chuyển và an
trụ trong Bồ tát địa, lại càng ít gấp bội...”.
“Phát
bồ đề tâm” trong Phạn ngữ là bodhicittotpàda, mà nói đủ
là “anuttaràyàm samyaksambodhau cittam utpàdam”, tức là : Phát
khởi vô thượng chánh giác tâm.
Nếu
dịch thành: khởi cái tâm tưởng về giác ngộ, là sai và
lầm, như sẽ giải thích sau. Bởi vi nó tương đương vớI
“Anuttaram samyaksambodbim àkànksamàna”[4] Mong cầu giác ngộ
tối thượng; hay “anuttaràyam samyaksambodhau pranidhanam”[5]
Kiên trì khát vọng giác ngộ tối thượng. Trong Ganda, chúng
ta thấy có những diễn tả như trên đây, chúng cùng mang một
ý:
“vipula-kripa-karana-manasa,
paryesase' nuttmam Bodhim”,[6] phát khởi lòng từ xa rộng, rồi
tìm cầu giác ngộ tối thượng; “ye bodhiprarthayante”, những
ai mong cầu giác ngộ tối thượng[7]
“Anuttarayam
samyaksambodhau cittam utpadam”, mà hình thức rút gọn của nó,
như đã nhắc đến, là: “bodhicittotpadam”, cũng tương đương
với: “anuttarayam samyaksambodhau pranidadahanti.”.[8] Pranidadhàti
có nghĩa: “dồn hết chú tâm vào” tức là “quyết tâm
thành tựu công trình”. Cái Pranidhana (thệ nguyện) của Bồ
tát là cái quyết định cùng độ của ngài quyết thực hiện
kế hoạch cứu rỗi tất cả.
Dĩ
nhiên, ở đây cần phải có một cái biết chính đáng hay
một cái nhìn tri thức trọn vẹn về công trình mà ngài cố
thành tựu, nhưng một Pranidhàna còn xa hơn thế nữa, nó là
ý chí phải thực thi. Tri thức suông không phải là cứ địa
của năng lục ý chí; ý tưởng suông không bao giờ có thể
là một tác viên thực thi hữu hiệu. Cittotpàda (Phát tâm)
là một hình thái của Pranidhàna. “Hoài bảo một ý tưởng
hay “phát khởi một tâm niệm” là một chuyện, mà thực
hiện nó lại là một chuyện khác, nhất là khi nó được
thực hiện một cách hăng say và nhiệt thành.
Đối
với “anuttaràyam samyaksambodhau cittam utpadam”, các dịch giả
Trung Hoa có một câu mà nghĩa đen là “phát vô thượng bồ
đề tâm”. Tuy nhiên, đây không phải là một lối dịch chính
xác. Nghĩa đen nguyên thủy là “có một cái tâm được cất
lên cho sự giác ngộ” chứ không phải là cất lên “cái
tâm giác ngộ”: Nếu dịch như thế, chúng ta có thể nghĩ
rằng, có một tính chất tâm lý đặc biệt được gọi là
“cái tâm giác ngộ”, và nhờ khả năng đó mà tâm của
ta mở ra cho giác ngộ, hay chính cái tâm đó là sự giác ngộ.
Nhưng ý nghĩa của nó thực ra là “ấp ủ ước vọng mong
cầu giác ngộ”. Nó là một kiểu đảo ngược, quy hướng
về sự giác ngộ của tâm mà trước kia vốn dĩ đã bị khoác
cho một bản sắc trần tục; hay nó là sự trỗi dậy của
một khát vọng tâm linh mới đã từng yên ngủ; hay nó là
một sự định hướng mới của những hoạt động tinh thần
mà ta chưa hề mơ tưởng đến; hay nó là cái thấy về một
trung tâm mới của năng lực mở ra một viễn tượng tâm linh
hoàn toàn mới mẻ. Chúng ta có thể nói rằng, ở đây, người
ta đã nói tới sự giác ngộ, và sự giác ngộ đó giúp cho
xác định con đường hành xử ngày mai của mình; và rằng,
ở đây, một Bồ tát đang bước vào giai đoạn phát khởi.
Còn
có những ngộ nhận khác về hình thức giản lựợc của
anuttaràyàm samyaksambodhaucittam utpàdam; tôi muốn nói đến lối
diễn giải thông thường của các học giả, về thành ngữ
bodhicittotpàda trong tiếng Phạn. Nếu khinh suất, như người
ta thường mắc phải, nó dường như có nghĩa rằng: “làm
trỗi dậy cái tư tưởng về sự giác ngộ? Nhưng đó là nhầm,
bởi vì thành ngữ đó chỉ muốn nói rằng: “ấp ủ ước
vọng mong cầu giác ngộ”, nghĩa là, ấp ủ một khát vọng
tâm linh mong thành tựu giác ngộ tối thượng. Citta ở đây
không phải là “tư tưởng” hay “tâm tưởng” mà là “ước
vọng”….Và bodhicittotpàdam kỳ công là một lối tỉnh lược
của anuttarayàm samyaksambodhau[9] cittam utpàdam.
Làm
trỗi dậy hay cất dậy cái tâm tưởng về sự giác ngộ có
nghĩa là, nếu nó có một ý nghĩa nhất định nào đó, là
có khái niệm về sự giác ngộ, hay tìm thấy ra rằng giác
ngộ có nghĩa là gì. Nhưng citta như đã đề cập, không ẩn
ý một nội dung tri thức nào như thế, bởi vì nó được
dùng trong ý nghĩa tự phát của nó. Cittotpàda là một dòng
vận chuyển của ý chí được quyết định hướng tới sự
giác ngộ. Khi nào muốn nhắc đến trí năng, các nhà Đại
thừa dùng những chữ như jnàna (trí) mati (huệ) budhi (giác),
vìjnàna (thức), vân vân.... Citta, hay cittasya, hay adhyasaya, trái
lại, thường có một khả năng tự phát, và các dịch giả
Trung Hoa đã chấp nhận chữ tâm cho nó một cách rất chính
xác. Citta, hoặc được lấy từ ngữ căn ci “tính tập”,
hay cit “tri nhận”, cách dùng của Đại thừa không nhất
quyết có tính cách trí năng, mà là có tính cách hiệu nghiệm
và chí nguyện. Citta là một cái bản hữu, hay một thái độ
đặc sắc của tâm.
Do
đó, Bodhicittotpàda là một sự kích phát tâm linh mới mẻ,
nó thay đổi trung tâm năng lực của ta. Đó là sự trước
ý về một khát vọng tôn giáo mới mẻ, tạo ra một sự đột
biến trong cơ cấu tinh thần của ta. Một người trước kia
vốn là kẻ bàng quan đối với đời sống tôn giáo, nay y
ấp ủ một ước vọng nóng bỏng mong giác ngộ, hay mong cầu
nhất thiết trí (sarvajnatà), trọn cả dòng sống ngày mai của
y được xác định từ đó - đó là Bodhicittotpàda.
Luôn
tiện, tôi muốn thêm một lời cước chú sau đây: Kể từ
quyển Đại cương về Phật giáo Đại thừa được ấn hành
năm 1907, đến nay, những quan điểm của tôi về Đại thừa
có thay đổi một vài chi tiết, và có nhiều điểm trong đó
mà bây giờ tôi thấy khác đi, nhất là đối với việc giải
thích về rnột số từ ngữ Sanskrit. Chẳng hạn, khi trình
bày về Bodhicitta, tôi đã định nghĩa nó là “tâm minh mẫn”
và thêm rằng, theo lý thuyết, Bodhi hay Bodhicitta có sẵn nơi
mỗi chúng sinh và thiết định bản chất cốt yếu của nó,
chỉ có điều tâm đó bị bao phủ trong vô minh và vị kỷ.
Như thế Bodhicitta được hiểu là một hình thái của Tathagatagarbha
(Như lai tạng) hay Alayuvijnana (Tàng thức). Nếu xét lại, lối
giải thích Citta như vậy là bất xác; vì rằng, theo đó, giác
ngộ tối thượng là sự toàn thiện của Citta nghĩa là, khi
Citta được khai triển trọn vẹn, nó đưa đến giác ngộ.
Nhưng bây giờ tôi thấy rằng nó không chỉnh, nếu theo quan
điểm lịch sử mà coi Bodhicitta cùng một kiểu với các thành
ngữ như: Atmagrahacitta, atmaparananatvacitta, bodhimargavipravasacitta,
v.v... Bởi lẽ, theo như tôi nêu ra trong thiền luận này, bodhicitta
là cách tỉnh lược của anuttarayàm samyaksambodhau cittautpàdam,
và nó được dùng đồng nghĩa với sarvajnatàcitta (tâm nhất
thiết trí), nên bodhieittotpàda - sarvajnatàcitto tpàda. Bodhi là
cái tạo nên tinh thể của Phật nên nó là Sarvajnatà, nhất
thiết trí. Sự thực là về sau, mối quan hệ lịch sử đó,
giữa bodhicitta và anuttarayàm samyaksambodhua cit tam của utpàtam,
hoàn toàn bị quên lãng, hóa ra Bodhicitta mới được trình
bày như là có một giá trị thuật ngữ biệt lập. Đó là
lẽ tự nhiên, và không nhất thiết là không chính xác nếu
trình bày từ ngữ đó như vậy Nhưng, tốt hơn hết là hãy
nhớ lại những gì mà tôi đã giải thích ở đây.
Trong
Tathàgala-guhyaka hay Guhyasamàja, tôi thấy Bodhicitta được diễn
tả một cách khá trừu tượng và khá khúc triết. Bản kinh
đó nhất định xuất hiện trễ hơn kinh Gandavyùha. Nó pha
trộn khá nhiều Mật giáo (Tạntrism), vốn phải coi là một
sự thoát sáo của Đại thừa thuần túy. Rồi chúng ta sẽ
thấy sự trình bày về Bodhicitta theo Ganda. Dưới đây là những
định nghĩa về Citta theo các vị Phật khác nhau, các vị này
lập thành đại hội Kim cang bí mật: Vairochana (Đại Nhật
Như lai): “Thấy một chúng sinh như là không tự hữu, cái
đó kêu bằng không thấy, thấy một chúng sinh tức không phải
là chúng sinh cái đó kêu bằng bất khả đắc[10]
Một
đoạn khác, đức Vairochana nói: “Bồ đề tâm vượt ngoài
tất cả sự biến thành; Bồ đề tâm vừa hệ vừa không
hệ trong các Uẩn (shanđha), Xứ (àvatana) và Giới (dhâtu);
quán hết thảy các pháp vô ngã và bình đẳng, đó là Tâm
của chính ta, từ vô sinh nguyên thủy, và bản tánh là Không
(Sùnyatà).” .
Aksobhya
(Bất Động Như lai): “Bồ đề tâm thấy rằng tất cả các
pháp đều không sinh, không tự tánh, không tha tánh; Tâm như
hư không không ngã thể; và đây là chỗ thiết lập vững
chãi lý giác ngộ.”
Ratnaketu
(Bảo Sanh Như lai): “Bồ đề tâm thấy rằng tất cả các
pháp đều không sinh, vô tướng, chúng sinh ra từ pháp vô ngã;
và đây là chỗ thiết lập vững chãi lý giác ngộ.”
Amitàyus
(A Di Đà Như lai): “Các pháp không sinh, phi hậu, phi kiến;
như hư không (dù không có thực tại tính), cũng vậy mới
nói Tâm là hữu.”
Amoghasiddhi
bất Không Thành Tựu Như Lai): “Các pháp tự bản chất vốn
ngời sáng, chúng thuần tịnh như hư không; vì không có cái
giác ngộ, cái chứng đắc, nên mới thiết lập vững chãi
lý giác ngộ.”
2
Hoài
bão ước vọng giác ngộ không phải là biến cố bình thường
trong đời sống của một người theo Đại thừa, vì rằng
đó là buộc quyết định phải có để hướng tới cái mục
tiêu khác hẳn với đời sống của những người được mệnh
danh là Tiểu thừa.
Giác
ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự
gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được
đặt ngay trong lòng vũ trụ. Khi mà tôi giác ngộ, thì trọn
cả Pháp giới (Dharmáphàtu) cũng giác ngộ; thực sự , cái
lý giác ngộ của tôi là cái lý của Pháp giới (Dharmadhàtu),
cả hai buộc trói lẫn nhau rất sít sao. Vì vậy, nói rằng
tôi đã có thể thai nghén một hoài bão to tát cho sự giác
ngộ, cái đó nghĩa là cả thế gian đều muốn được giải
phóng khỏi vô minh và những dục vọng tội lỗi. Đó là ý
có nghĩa của những lời được dẫn dưới đây, phát ra từ
Hải Vân tỳ kheo (Sàgramegha), một trong những vị thầy mà
Thiện Tài (Sudhana) đến viếng trong cuộc lữ hành cầu đạo
trường kỳ của mình: “Hay thay, ông đã làm trỗi dậy ước
vọng mong cầu giác ngộ tối thượng; đó là việc không thể
có cho những ai chưa từng chứa nhóm đầy đủ thiện căn
trong những đời quá khứ.” Cái được gọi là “thiện
căn” chỉ có giá chừng nào nó làm ích lợi cho tất cả
thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường
gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó nghĩa là, nếu
cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi
xa xôi nhất thì Thiện đức (kusala) của y không phải là “Thiện
đức” thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như
vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ.
Hải
Vân tỳ kheo tiếp tục tán dương hoài bão khát vọng của
Thiện Tài, cái hoài bão chỉ có thể có cho những ai hội
đủ những đặc tính sau đây:
1.
Những hành vi công đức của họ mang tính cách phổ biến
và tỏa sáng (phổ môn thiện căn quang minh);
2.
Sự thành đạt Tam muội (samàdhi) của họ đầy đủ ánh sáng
của trí tuệ phát xuất từ bước đi trên con đường chân
chánh (chân thật đạo tam muội trí quang);
3.
Họ có thể làm phát sinh một đại dương công đức (phước
hải quảng đại thiển căn);
4.
Họ tích tập tất cả các pháp thanh tịnh không hề mệt mỏi
(tăng trưởng pháp bạch tịnh không hề mệt mỏi);
5.
Họ luôn luôn gần gũi những người bạn tốt và luôn luôn
thờ kính;
6.
Họ không phải là những người cất chứa tài sản và không
hề ngần ngại thí xả thân mạng của mình cho chánh pháp;
7.
Họ không còn cống cao ngã mạn, và giống như mặt đất,
đối xử bình đẳng với tất cả;
8.
Tim của họ đầy cả tình thương yêu và lân tuất, lúc vào
cũng nghĩ đến sự ích lợi cho kẻ khác;
9.
Họ luôn luôn đối xử thân thiện với tất cả chúng sinh
trong các nẻo luân hồi;
10.
Họ luôn luôn ước mong được tham dự chúng hội của chư
Phật. Rồi Hải Vân kết luận rằng chỉ có những tâm hồn
nào thụ bẩm những cảm hứng đó, những tâm tình đó, và
những thái độ đó, thì mới đặc cách có hoài bão ước
vọng giác ngộ. Bởi vì khát vọng giác ngộ đó thực sự
được khởi lên từ:
1.
Tâm đại bi (mahãkarunãcitta), mong bảo bọc hết thảy chúng
sinh;
2.
Tâm đại từ (mahãmaitrĩcitta), luôn luôn muốn làm lợi ích
cho hết thảy chúng sinh;
3.
Tâm an lạc (sukhacitta), mong làm cho kẻ khác hạnh phúc, vì
thấy chúng chịu đựng đủ mọi hình thức khổ não;
4.
Tâm lợi ích (hitảcitta), mong làm lợi ích cho kẻ khác, cứu
rỗi họ thoát khỏi những hành vi sai quấy và tội lỗi;
5.
Tâm bi mẫn (dayàcitta), mong bảo bọc hết thảy chúng sinh thoát
khỏi những tâm tưởng khốn quẫn;
6.
Tâm vô ngại (asamgacitta), muốn dẹp bỏ tất cả những chướng
ngại cho kẻ khác;
7.
Tâm quảng đại (vaipulacitta) đầy khắp cả vũ trụ;
8.
Tâm vô biên (anantacitta), như hư không;
9.
Tâm vô cấu nhiễm (vimalacitta), thấy hết thảy chư Phật