LUẬN
TÁM
SINH HOẠT THIỀN
TRONG CÁC HỌA PHẨM
Đại
thừa nổi bật trên hết là nền tôn giáo của Bồ tát và
đời sống hiến dâng của Bồ tát (Bodhisattvacaryã, Bồ tát
hạnh) là lý tưởng của sinh hoạt Thiền. Tại Ấn Độ, đời
sống đó được miêu tả với óc tưởng tượng phong phú
cũng như với những trực giác triết học. Rồi từ đó, chúng
ta có những bộ kinh vĩ đại của Đại thừa như Hoa nghiêm
kinh (Avatamsaka hay Gandavyũha), Bát nhã ba la mật (Prajnãpãramitã),
và Diệu Pháp Liên hoa (Saddharmapundarika), và những Bồ tát
vĩ đại như Văn Thù (Manjusri), Phổ Hiền (Samantabhadra), Di
lặc (Maitreya), và Quán Tự Tại (Avalokitesvara). Trực kiến
của tâm linh thấu suốt tất cả những huyền ẩn của tánh
thể, tình cảm yêu thương được chớm dậy từ những miền
sâu của tâm hồn, kế hoạch vĩ đại cứu rỗi toàn diện
bao trùm đến cả những tạo vật hạ đẳng và nhỏ nhoi nhất,
nguồn suối sinh lực vô tận và “phương tiện” được
vận dụng để chu tất công trình, tất cả những sự kiện
mà chúng ta thấy phơi bày ra đó bằng những khuôn mặt siêu
nhiên và siêu nhân đều là các thành tố ý thức của Đại
thừa.
Khi
đạo Bồ tát đến Trung Hoa và được dân tộc này thâu thái,
nó trở thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là Phật giáo Thiền
tông. Nó cởi bỏ trang phục Ấn Độ; những trực giác siêu
hình cao vọi của nó được thay thế bằng những khẩu quyết
thực tiễn cho đời sống thường nhật chúng ta, và những
huyễn ảnh muôn màu phong phú của nó nhường bước cho hoạt
động sống thực với công việc đốn củi và trồng thông.
Dù vậy, chẳng có gì là bình phàm, thô lậu. Trái lại, bất
cứ tinh thần của thiền vận động ở đâu, mọi vật giao
tiếp với nó đều khoác lên cái huyền ẩn. Lọ dầu trong
tay của Đầu Tử[1] lóe sáng lên không tả xiết; cái vá trong
tay của Tuyết Phong[2] không chỉ là một thỏi gỗ mà thôi
, chiếc dép cỏ của Triệu Châu[3] xứng đáng chia một góc
trong kho tàng bảo bối. Không chỉ vậy mỗi con tôm mà Thiên
Tử[4] tiêu thụ vẫn còn sống với chúng ta và trong chúng
ta; con heo mà Trư Đầu[5] chứa đầy trong ruột đã đạt tới
Phật quả đúng lúc. Người ta nói Đào Thủy (Tôsui)[6] đã
ăn ngon lành bằng cái bát ăn xin trong khi đồ đệ của mình
khó mà nuốt cho trôi. Sư nói: “Tâm con vẫn còn bị khuấy
động bởi những ý tưởng về cái ngon ngọt và cái thiu thúi.
Thì cái này mới thúi chớ!” Mặc dù trong trường hợp
đặc biệt này chúng ta chưa chắc bắt chước nổi phong độ
của Đào Thủy, nhưng cái duy tâm luận tuyệt đối của sư
hay kiến giải về Tánh Không của sư phải được nói là
thuộc loại thực tiễn nhất. Dù sao, chúng ta không thể từ
chối sự kiện rằng ở đâu có đời sống Thiền chân thực
thì ở đó có xuất hiện một sự biến chất về giá trị,
và người ta bắt đầu sống trong một cảnh giới mà các
giác quan không thể vươn tới và cái luận lý dựa trên chúng
cũng không.
Người
ta nói rằng có một cõi khác cho các môn đệ Thiền tông thường
của đời sống thường nhật, cái đó được chứng tỏ bằng
những kiểu cách kỳ dị, độc hành, quái đản của họ.
Cung cách của họ không cho phép dự đoán hay suy luận hay lý
lẽ. Thường thường là bất ngờ. Tuy nhiên, lạ ở chỗ,
trong nó vẫn có cả cái tươi mát cũng như phấn khởi. Khi
chúng ta được những mẫu sự truyện của các Thiền sư,
hay bất ngờ gặp những họa phẩm mặc hội miêu tả đời
sống của họ, chúng ta nhận ra đâu là một sợi xích sắt
của công ước đạo đức và tri thức mà lúc nào chúng ta
cũng lôi theo. Sợi xích không phải luôn luôn được chế tạo
bằng sắt; đôi khi được chế bằng chất liệu cực mỏng
như sợi tơ sen - và một ý tưởng ngủ vùi trong xó tối của
tâm thức thì cũng thế; nhưng nặng biết bao, và mạnh biết
bao. Chân tay chúng ta cũng bị buộc trói chặt như vậy? Khi
chúng ta cảm thấy mình rất tự do chúng ta vẫn không sao đá
bay đi được sợi tơ sen của ngã ý thức Cái cõi được
biểu tượng qua Bố Đại nhảy múa, Bồ Đề Đạt Ma vượt
biển trên một cành lau, cặp nhà thơ cuồng ngạo với một
cây chổi và cây viết, và những thứ khác, cõi đó hoàn toàn
vượt ngoài tầm tay của hạng phàm phu sinh tử. Ấy thế mà
cõi đó lại quyến rũ và ngây người biết bao!
Thế
giới nội tại thường xuyên được trình bày một cách khách
quan, tức vô ngã. Thiên nhiên phơi mở cho những ảnh tượng
của riêng nó được phác họa mà không cần sự can thiệp
của người. Thiên nhiên có những thể sắc của nó, và chúng
được bộc lộ bằng các tảng đá, núi non, sông ngòi, cây
gỗ, chim chóc, người ta, và cỏ dại. Tinh thần của thiên
nhiên vận chuyển ở giữa đó. Nghệ sĩ Thiền bắt chộp
lấy - và chỉ có thể, khi nghệ sĩ đánh mất mình trong thiên
nhiên, hay đúng hơn, khi nghệ sĩ trở thành dụng cụ tự nguyện
kỳ cùng trong đôi tay thiên nhiên, và rồi từ đó biết bao
nhiêu họa phẩm sơn thủy được các nghệ sĩ mặc hội để
lại. Vì không can dự gì đến cái gọi là những thực tại
mời mọc các giác quan, những họa phẩm sơn thủy này mới
không có màu sắc và viễn cận. Thế nhưng, chúng ta để ý
một tinh thần nào đó đang bay liệng trên những ngọn núi,
những con nước, hay bất cứ những sự vật nào khác. Gần
đây, chừng nghe nói nhiều về việc “chinh phục” thiên
nhiên từ phương Tây, nhưng quan niệm đó hoàn toàn xa lạ
với chúng tôi ở Viễn đông, bởi vì đối với chúng tôi
thiên nhiên là một người bạn nào phải là kẻ thù. Không
hiểu thiên nhiên, đó là lỗi chúng ta, đâu phải tại thiên
nhiên. Ngay cả lúc thiên nhiên chừng như cực kỳ đe dọa,
thiên nhiên vẫn chưa hề tỏ tình cảm ác ý nhắm vào chúng
ta, như hành động của những kẻ gian ác loài người. Vì
vậy nghệ sĩ biết thiên nhiên rất rõ, khi chàng ở trong trạng
thái vô tâm (acitta); và đương nhiên chúng ta nhận thấy rằng
các Thiền sư không ngớt nhắc nhở thiên nhiên, suốt trong
lịch sử của Phật giáo Thiền tông.
Sau
hết, các thiền sư không chỉ là những người yêu thiên nhiên,
họ cũng không bị đầu độc bởi ông “Thượng đế” của
mình, cái ông Thượng đế mà họ cất kỹ trong lòng riêng.
Họ là những nhân công xã hội, họ phụng sự xã hội theo
lối riêng của mình.
Khi
các Bồ tát ở trong cảnh giới Tự thọ dụng thân (Sambhogakaya)
của mình, các ngài phục sức theo lối mà chúng ta có thể
gọi là lễ phục của các ngài, rất tề chỉnh và trong
tư thế trang trọng. Trong các Mạn đà la (Mandala) của Nhân
ngôn tông, tất cả các đức Phật và các Bồ tát được
trình bày như thế, và trong các họa phẩm của Tịnh độ
tông cũng vậy, với mức độ nào đó. Khi lý tưởng Bồ tát
được hạ thấp gần với đời sống con người trên mặt
đất, tức là khi ngài hiện hình bằng Hóa Thân (Nirmanakaya)
của mình, ngài tham gia công vụ thực tiễn phụng sự chúng
sinh, thái độ siêu việt của ngài, quá cứng rắn và quá
xa xôi, dần dà trở thành mềm dịu, gần như thế, và qua
trung gian của sự biến thái “thế tục hóa”. Nói thế có
nghĩa là, Bồ tát hiện hình trong tư thái dung dị hơn, và
xuất hiện trong chiếc áo bồng bềnh giản dị, lột bỏ hết
mọi văn vẻ. Bấy giờ ngài là một khuôn mặt dễ thân thiện
hơn. Ngài không chễm chệ trong một thánh đường làm đối
tượng sùng bái, nhưng ngài có đó để sống giữa chúng ta,
làm một mẫu người thường như chúng ta.
Khi
quan niệm về “Hóa Thân” đó trải qua một cuộc biến thái
nữa, Bồ tát đích thực là láng giềng của chúng ta. Ngài
Bồ tát ông hay Bồ tát bà cũng đi chợ mua đồ, ngài bửa
củi, ngài chép kinh, ngài làm việc trong xưởng, ngài làm thơ
ký trong văn phòng; thời xưa, bà Bồ tát thậm chí còn làm
kỹ nữ.
Diễn
tả theo cách khác, điều này có nghĩa rằng Phật tính (Buddhata)
có trong mỗi người chúng ta, trong mọi chúng sinh. Chỉ khi
nào nhìn thấy, chúng ta trực nhận Bồ tát trong một hóa thân
nào đó của ngài. Khi một Văn Thù (Manjusri), hay một Phổ
Hiền (Samantabhadra), hay một Quán Thế âm (Avalokitesvara), hiện
thân trong đẳng cấp xã hội chúng ta theo kiểu đó, chúng
ta gặp ngài Bồ tát ông hay ngài Bồ tát bà mỗi ngày và và
mỗi nơi trong mọi bước đường thường nhật của đời
sống Chúng ta làm cái việc nghèo cùng nhất, chúng ta thực
hiện hành vi vô nghĩa nhất, đó cũng là sự thần biến (vikurvita),
sự nghiêm sức (lalita) của Bồ tát, và tất cả những việc
kỳ diệu mà các nhà Đại thừa Ấn Độ đã làm nổi và
đã được ghi chép rất nhiều trong vô số kinh điển của
họ, tất cả cũng đã được thực hiện bởi Huệ Năng và
Hoằng Nhẫn, Han San và Thập Đắc; hơn thế nữa, bởi nơi
anh Giáp Ất, Trương Tam, Lý Tứ. Điều cần thiết để ý
thức được sự kiện đó, để thấy phải thực hiện ra
sao, chính là việc mở ra con mắt Bát nhã của riêng chúng
ta.
Với
những nhận xét đại khái này, và với những gì đã được
nói trong các trang sách trên, cũng như trong hai tập Thiền luận
trước, độc giả sẽ có thể hiểu ý nghĩa của những minh
họa này, và tự mình khám phá ra đâu là các thông điệp
của Thiền tông.
Những
“vấn đáp” (monđô) dưới đây sẽ phác họa thêm các điểm
mà tôi thường xuyên ghi nhận trong các luận của tôi về
chuyển hướng thực tiễn của tâm lý Trung Hoa khi bộc lộ
đạo lý của Phật giáo Thiền tông, và cũng cung cấp cho độc
giả chìa khóa để mở cửa vào kho tàng trân bảo của sinh
hoạt Thiền.
Nghiêm
Dương tôn giả[7], ở Tân hưng, có thầy tăng hỏi:
“Phật
là gì?”
“Cục
đất”
“Pháp
là gì?”
“Đất
lăn.”
“Tăng
là gì?”
“Ăn
cháo ăn cơm.”
Khi
tôn giả được hỏi về ý nghĩa ứng vật hiện hình của
Phật, ngài nói :
“Mang
giùm cái ghế đằng kia lại đây.”
Huệ
Giác, ở Dương châu[8], có thầy tăng đến kèo nài hỏi:
“Từ
xa xăm đến kiếm sư, xin sư dạy dỗ đạo Thiền.”
“Việc
quan gia nghiêm nhặt, không cho phép an bài.”
“Sư
không có phương tiện (upaya) gì sao?”
“(Vì
ông từ xa đến,) nghỉ đêm trên bếp lửa đi.”
Phụng
thiền sư, ỡ Quốc thanh viện[9], có thầy tăng hỏi:
“Gia
phong của hòa thượng ra sao?” (nghĩa là, những nét đặc
sắc trong tông môn sư, trong giáo pháp của sư là gì?)
“Một
cái bàn, một cái ghế, một bếp lửa, và những cánh cửa
sổ”
“Bổn
phận người xuất gia là gì?”
“Buổi
sáng nói lời chào mừng, buổi tối nói lời trân trọng”.
“Đại
ý của Phật pháp là gì?”
“Thích
Ca là ngưu đầu ngục tốt, Tổ sư là mã a diện bà”.
Vân
nham Đàm Thành[10], nhân đang quét dọn: Qui Sơn đến và nói:
“Bận
rộn quá há!”
“Nên
biết chẳng có người bận rộn.”
“Vậy
thì phải có mặt trăng thứ hai.”
Đàm
Thành đưa chổi lên và nói: “Mặt trăng thứ hai là cái này?”
Qui
Sơn cúi đầu và bỏ đi.
Lúc
khác, Đàm Thành đang làm đôi dép cỏ, thì Động Sơn đến
hỏi:
“Muốn
có một con mắt; nhờ sư chỉ dạy không biết có được không?”
“Để
cho ai vậy?”
“Không
có ai cả”
“Nếu
có, ông để vào đâu?”
Động
Sơn không đáp, rồi sư nói:
“Người
hỏi xin một con mắt - y là con mắt?”
“Không
phải mắt”, Động Sơn nói:
Thiền
sư thét lên tiếng la “Chu Choa" nghe dễ sợ
BỔ
TÚC VÀ ĐÍNH CHÍNH CỦA NGUỜI DỊCH
BỔ
TÚC LUẬN MỘT ĐOẠN 4
(các
trang 23-31)
Trong
các trang này, tác giả vì không ghi rõ xuất xứ chính xác,
nên khi dịch, tôi không tìm đọc nguyên bán chữ Hán để
đối chiếu. Nhưng tài liệu chữ Hán mà tôi sử dụng khi
phiên dịch hoàn toàn dựa vào hai bản Đại tạng kinh. Bản
đắc dụng nhất là Taisho. Kế đó là bản tục tạng chữ
Vạn. Do đó, lúc đọc các chú thích xuất xứ của tác giả,
thấy nói trích từ các tác phẩm phát kiến được tại Đôn
hoàng, mà tôi lại không có, cho nên mắc phải những sơ xuất
đáng tiếc. Những đoạn bổ túc dưới đây, nguyên văn chưa
chắc đồng với các thủ bản của tác giả, nhưng xét theo
văn lý, hầu hết giống nhau, chỉ trừ văn cú có nhiều chỗ
đáo trang giữa bản dịch tiếng Anh và nguyên bản Hán.
Về
ba đoạn bổ túc dưới đây, đoạn thứ nhất nói về vô
tâm, nguyên văn được tìm thấy trong một tác phẩm nhan đề
Quán vô tâm luận, được gán cho Bồ Đề Đạt Ma (có Chữ
Thích đứng đầu làm họ; lối gọi tên này hiếm thấy trong
những gì liên hệ đến vị cha đẻ của Thiền tông Trung
Hoa này).
Hai
đoạn kế tiếp là những đoạn trích từ bài pháp của Đạo
Tín trong Lăng già sư tư ký, được nói là của sư Tịnh Nguyên
đời Đường soạn. So nguyên văn, hình như có nhiều chỗ
tôi dịch sai. Vậy mong độc giả sửa hộ những đoạn nào
thấy rõ là sai lạc quá trớn.
Ngoài
ra, trong đoạn 6 của Luận 1, từ trang 41 đến 45, được nói
là trích từ Ngữ lục của Thần Hội. Cho đến bây giờ,
tôi vẫn chưa đọc được một chữ của bản Ngữ lục này.
Trong Tuyển tập của Hồ Thích, tôi chỉ đọc được một
bài khảo chứng của Hồ Thích, khảo chứng lịch sử về
Ngữ lục của Thần Hội, và một bài về tiểu truyện
của Thần Hội; nhưng không tìm ra đoạn trích dẫn nào của
Hồ Thích tương đương với đoạn này. Tôi đã cố gắng
dựa vào Hiển tông luận của Thần Hội, in trong Truyền đăng
lục, để tìm một vài dụng ngữ cần thiết. Tuy nhiên, vẫn
còn quá nhiều thiếu sót.
I.
QUÁN VÔ TÂM LUẬN
(được
cho là của Thích Bồ Đề Đạt Ma chế. Ấn hành trong Đại
tạng Taishô, No 2831, tập 85, tr. 1269-1270a. Nguyên bản có thể
chia làm hai phần. Phần đầu, nói chi tiết về Vô tâm, qua
hình thức vấn đáp. Phần hai, các bài tụng và các giải
thích khác về Vô tâm. Dưới đây, trích nguyên văn và phiên
âm phần một).
觀
無 心 論
夫至
理 無 言 , 要 假 言 而 顯 理 , 大 道 無 相 , 為 接 麁 而
見 形 , 今 且 假 立 二 人 共 談 無 心 之 論 矣 .
弟
子問 和 尚 曰 : 有 心 無 心 ?
答
曰 : 無 心 .
問
曰 : 既 云 無 心 , 誰 能 見 聞 覺 知 ? 誰 知 無 心 ?
答
曰 : 還 是 無 心 既 見 聞 覺 知 , 還 是 無 心 能 知 無
心 .
問
曰 : 既 若 無 心 , 即 合 無 有 見 聞 覺 知 , 云 何 得 有
見 聞 覺 知 ?
答
曰 : 我 雖 無 心 , 能 見 能 聞 覺 能 知 .