Kết
lại thành thơ kính tặng người
Lời
đầu sách
Vào
đời Ðường, Lí Hãn có trước một thiên »Mông Cầu« tiện
cho kẻ sơ cơ học thuộc. Từ đó về sau, có một ít người
phỏng tác loại sách Mông Cầu. Ở đây xin nêu ra một vài
quyển như: Thuần chính mông cầu, Tân mông cầu, Tục mông
cầu v.v…
Quyển
sách này có tên »Thiền uyển mông cầu dao lâm« là do phối
hợp hai phần: phần I tức quyển Thiền uyển mông cầu và
phần II tức quyển Thiền uyển dao lâm.
Quyển
Thiền uyển mông cầu trên là do Sư Chí Minh soạn ở chùa
Thiếu Lâm, non Tung Sơn vào đời Nam Tống. Thiền sư Chí Minh
bắt chước theo Lí Hãn, trích dẫn sử truyện, căn cứ vào
các Tổ Lục rồi biên tập việc làm của các đời Tổ sư
trong Thiền Lâm, trên từ Phật Thích-ca đến cuối là Hòa
thượng Huyền Minh. Mỗi câu bốn chữ, cả thảy gồm trong
562 tắc thiền ngữ, dưới thể thơ Ngẫu đối, lời lẽ hài
hòa hợp thành âm vận, giúp người học thuộc dễ dàng, từ
vốn liếng này có thể soi lòng và biện đạo.
Ba
mươi năm sau đó, cũng đời Nam Tống, vào niên hiệu Bảo
Hựu thứ 3 (1255), tại Yên Kinh nơi chùa Ðại Vạn Thọ, Thiền
sư Ðức Giản hiệu Tuyết Ðường, tham khảo trích dẫn các
bộ loại như kinh Phổ diệu, Truyền đăng lục, Phổ đăng
lục, Ngũ đăng hội nguyên, Phật Tổ thống kỉ, Tăng bảo
lục v.v… chú thích sách này rõ ràng, làm cho mỗi câu thêm
thi vị, rồi giao cho Ngọc Khê tiến hành việc khắc bản,
lấy tên là Thiền uyển dao lâm, được xếp vào Tục tạng
chữ Vạn 卐 tập thứ 148.
Về
sự lưu hành này tại Trung Quốc, đến nay cũng chưa biết
rõ ràng, các tác giả ghi chép về Thiền học có Hòa thượng
Nghĩa Ðế cho rằng: »Sách được lưu hành khá lâu ở Nhật
Bản, tuy nhiên ở Trung Hoa thì chẳng còn. Theo ông Viễn Môn
Trụ trong Ngũ đăng tục lược thì vị tăng tên Tuyết Ðường
Giản này thuộc môn hạ của Vạn Tùng«.
Nhờ
sự kiện trên chúng ta có thể thấy ở Trung Hoa, sách này
truyền bá chẳng được rộng rãi. Về niên đại truyền sang
Nhật Bản cũng chưa rõ lắm: Nhờ bản chép tay thời Túc Lợi,
khoảng niên hiệu Ðại Vĩnh (1521-1527), chúng ta mới biết
có sách này lưu hành trong chốn tùng lâm từ trước. Ðến
thời đại Ðức Xuyên (1615-1867), nó được khắc bản trước
sau hai lần, thời gần đây lại được biên vào Tục tạng
kinh. Thế thì, sách này há lại rơi vào điều hiềm nghi về
văn tự thiền ư?
Than
ôi! Tông phong Vạn Tùng làm sách này cốt muốn cho người
chân tham thật chứng, trái lại bọn người cạn cợt lấy
đó làm vốn riêng gây thành đề tài cho các cuộc tranh luận.
Ðâu phải là trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược?
Thế
nhưng, theo chỗ nhận định của cư sĩ Sư Hiên thì »Sách
này gồm có 2000 lời, phát minh 500 việc, lời lẽ sáng tỏ
mà đầy đủ, sở học cuả Sư sâu mà rộng, đáng cho là
cao tột trong Thiền môn. Biển pháp được đúc kết thành
tiêu đề, khiến kẻ hậu học bớt được mười năm nhọc
nhằn, thành tựu trí nhớ hơn nửa tạng. Vậy thì, công lao
cùng lòng từ bi của Sư cũng đủ cho chúng ta thấy«.
Ở
đây, miễn bàn những lời tán dương rườm rà, chỉ biết
quyển Mông Cầu này ra đời nhằm mục đích giúp cho người
mới vào cửa Thiền có tài liệu học tập và các điệu trong
chùa giải trí bằng cách ngâm nga các thi kệ.
Các
cư sĩ: Nhàn, Sư Hiên, Long Sơn đề tựa.
Tiểu
sử tác giả
Tác
giả là Thiền sư Chí Minh, tự là Bá Hôn, hiệu Lạc Chân
Tử, lại có hiệu là Thố Am, người đời Tống ở An Châu
(nay là huyện An Tân, Hà Bắc), con nhà họ Hác. Tính tình của
Sư rất mực thước, dáng bên ngoài trong quê mùa chất phác,
nhưng tinh thần bên trong rất là sáng suốt.
Ban
đầu Sư ở chùa Hương Lâm (nay thuộc huyện Vấn, Tứ Xuyên).
Nơi đây, Sư thụ giới cụ túc với Tịnh Công và ngày đêm
tham cứu chẳng chút biếng trễ, lại đến thưa hỏi nơi thất
Tịnh Phổ. Sau đó, tại chùa Ðông Lâm (nay thuộc Lô Sơn tỉnh
Giang Tây), Sư triệt chứng. Ít lâu sau, Sư được tuyển vào
chùa Siêu Hóa. Thời Nam Tống trong những năm 1226-1227, Sư nhận
lời đại chúng mời về trụ chùa Thiếu Lâm thuộc Tung Sơn,
Hà Nam. Chính tác phẩm Thiền uyển mông cầu được hoàn thành
trong lúc này.
Về
sau, Sư tự làm một thiên trường ca rồi ra đi, đại chúng
giữ lại chẳng được khiến mọi người càng kính ngưỡng
cao đức của Sư. Ðiểm đáng tiếc là chúng ta chẳng rõ Sư
mất vào năm nào, ở đâu, cùng tuổi hạ được bao nhiêu,
chỉ biết Sư thuộc pháp phái Vạn Tùng.
Sau
đây là một phần trong thiên trường ca do Sư làm trước khi
ra đi:
Quán
cơm trước núi mở cửa rồi,
Bánh
to như đấu, bánh như rây,
Lạc
Dương thành ấy nhiều đàn tín,
Ðua
nhau bày cúng: chuyện vua tôi.
Lão
nghèo nàn, tài kém cỏi,
Do
đâu lão đến múa rối tồi!
Chống
gậy thẳng lên Tung Dương Lộ
Cười
chỉ núi xanh, về đi thôi!
Về
người chú thích
Người
chú thích sách này tên là Ðức Giản, tự Vô Tránh, hiệu
Tuyết Ðường, nối pháp Thiền sư Hành Tú thuộc phái Vạn
Tùng tông Tào Ðộng, trụ ở chùa Ðại Vạn Thọ ở Yên Kinh.
Ðời
Nam Tống, triều vua Lí Tông, trong niên hiệu Bảo Hựu (1253
— 1258), Sư tìm tòi và dẫn các Kinh lục để chú giải cho
quyển Thiền mông cầu, lấy tên là Thiền uyển dao lâm. Sách
này gồm sáu muôn lời, căn cứ vào nguyên bản của sư Chí
Minh mà làm, thật là trên gấm lại thêm hoa.
Ðáng
tiếc là không làm sao biết rõ được tự truyện của Sư.
Thể
lệ chung
Bản
tiếng Việt này được dịch từ ba quyển: 1. Thiền uyển
mông cầu của Thiền sư Chí Minh; 2. Thiền uyển dao lâm của
Thiền sư Tuyết Ðường; 3. Thiền uyển mông cầu thập di
của Thiền sư đời Tống.
Về
quyển thứ nhất và quyển thứ hai ở bản Hán được ghép
chung và còn có các tên khác như: Thiền uyển dao lâm chú,
Thiền uyển dao lâm, Thiền uyển mông cầu, Thiền mông cầu
gồm 562 tắc (đã được nói rõ ở lời đầu sách). Riêng
quyển 3, do một vị khuyết danh (mà người ta đoán là một
Thiền sư đời Tống) ra công sưu tập các tắc còn sót lại
được 144 tắc.
Như
thế, quyển »Vườn Thiền Rừng Ngọc« sẽ có trên 700 mẩu
truyện Thiền và được trình bày giống như sách giáo khoa,
nghĩa là cứ 4 câu là 1 bài, sắp xếp theo thứ tự như sau:
a. Nguyên tắc chữ Hán; b. Phiên âm; c. Dịch nghĩa; d. Chú thích.
Trong
phần chú thích, chúng tôi nhận thấy có 44 tắc mà Thiền
sư Tuyết Ðường không tìm được xuất xứ. Riêng về phần
chúng tôi trong khi đọc các sách Thiền khác, tình cờ tìm
được phần chú thích cho 6 tắc dưới đây: 1. Qui Tông duệ
thạch, tắc 65; 2. Tứ Hiền vấn đạo, tắc 81; 3. Tam Phật
hạ ngữ, tắc 82; 4. Phần Dương lục nhân, tắc 199; 5. Thứ
Công điểm nhãn, tắc 377; 6. Quốc sư thủy oản, tắc 522.
Thông
Thiền
08-31-2008
11:23:46