|
. |
TIỂU THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả:
Kimura Taiken
Hán Dịch:
Thích Diễn Bồi
Việt Dịch:
Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn
Hạnh Việt Nam 1969
Chùa Khánh Anh, France
---o0o---
THIÊN THỨ BA
THẾ GIỚI QUAN
CHƯƠNG III: THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
Tiết
thứ nhất: Khí thế gian
1. LỜI
TỰA
Như đã
thường được trình bày ở trên, Phật giáo cũng chia thế giới này thành ba
cõi: điều đó không khác với Bà La Môn giáo. Nhưng đặc sắc của Phật giáo
là, trong khi Bà La Môn giáo cho Thiên, Không, Địa là ba cõi và coi như
vật lý, thì Phật giáo, để thích ứng với cảnh giới tinh thần của chúng ta,
suy cứu từ thứ tự tu Thiền định, mà gọi ba cõi là Dục giới, Sắc giới, và
Vô sắc giới. Dục giới là nơi lòng dục thịnh; Sắc giới là nơi tuy không
thịnh nhưng vẫn chưa hoàn toàn thoát ly được sự trói buộc vật chất; còn Vô
sắc giới là cõi đã hoàn toàn thoát ly sự trói buộc vật chất, chỉ còn lại
cái đương thể tinh thần độc lập, chính là cái nấc thang tu dưỡng tinh thần
của chúng ta. Đây cũng giống như trong Ý hành kinh thuộc Trung A Hàm,
quyển 43 (Đại chính, 1, trang 400, trung) lấy Sinh địa làm ba cõi, và lấy
Tu địa làm ba cõi vậy. Cứ xem thế thì đủ rõ. Bởi thế, trong Phật giáo, đền
A Tỳ Đạt Ma, để thích ứng với thế giới quan vật lý thần thoại của đương
thời, đến một trình độ nào đó, tuy có tu chỉnh ba cõi thành hình thái tồn
tại vật lý, nhưng đến khi kết quả thì vẫn muốn theo lập trường luân lý Duy
tâm luận mà giải thích hết thảy. Giữa thế giới quan Bà La Môn giáo và thế
giới quan Phật giáo có điểm bất đồng rất lớn. Tức là, Bà La Môn giáo cho
sự bắt đầu cũng như sự chung kết của thế giới là do sự thức giấc hay ngủ
nghỉ của các thần, còn Phật giáo thì cho rằng thế giới phải tùy thuộc vào
những quan hệ nhân duyên, không thừa nhận nó có ý chí tồn tại tuyệt đối;
đến như quan hệ chung kết thì tùy thuộc ở nghiệp lực của các loài hữu
tình: thế giới thành hay hoại, tất cả đều tùy thuộc ý chí của chúng ta,
muốn hiểu thế giới quan Phật giáo. Điểm này đối với thế giới quan của Kỳ
Na giáo hơi tương tự, nhưng rất bất đồng đối với thế giới quan của Bà La
Môn giáo vốn đặt nặng về Khởi Nguyên luận. Theo ý nghĩa này, chiếu theo
văn tự, ta có thể nói trong thế giới quan Phật giáo không có đề mục Khởi
nguyên luận.
Nhưng, nay
nếu đứng trên lập trường của A Tỳ Đạt Ma mà nhìn ba cõi về phương diện vật
lý thì như thế nào? Trong ba cõi thi vô sắc giới vì đã hoàn toàn ly khai
mọi quan hệ vật chất nên được đặt ra ngoài vấn đề thế giới hiện tượng
luận, mà chỉ còn lại hai cõi là Dục giới và Sắc giới. Nhưng, cái gọi là
Sắc giới, mặc dầu về phương diện vật lý, tuy vẫnchưa thoát hẳn sự trói
buộc của vật chất, song đến đây, thật ra do xứ sở mà bị trói buộc, chứ về
phương diện cảnh giới thì vẫn có điểm thù thắng. Ở đây, luận cứu đề mục
khí thế gian tức là luận về dục giới.
Dục giới
lấy núi Tu Di làm trung tâm, trở xuống, từ địa ngục, trở lên, đến 33 tầng
trời; lại lấy núi Thiết Vi làm vòng ngoài, lấy núi Tu Di làm trung tâm,
tức là Cửu sơn, Bát hải, tứ châu, nhật, nguyệt v.v... Song, có điều nên
chú ý là, theo Phật giáo, không những chỉ thế giới này, mà tất cả thế giới
là vô tận, trong Bà La Môn giáo, đối với thế giới này, đã nói có vô số,
nhất là trong Phật giáo thì một tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới
và đại thiên thế giới v.v..., rồi đến thời kỳ phát đạt nhất của A Tỳ Đạt
Ma thì lấy đại thiên thế giới làm một vũ trụ. Tiểu thiên thế giới gồm một
nghìn nhật nguyệt, Tu Di và tứ châu v.v... đã nói ở trên (gọi là
Sahasra-cùdika loka-dhàtu); một trung thiên thế giới lại gồm một nghìn
tiểu thiên thế giới; và một đại thiên thế giới gồm một nghìn trung thiên
thế giới (tức là 1000x1000 = 100,000 tiểu thiên thế giới), và sự hình
thành hay hoại của các thế giới đó có thể nói là giống nhau (Câu Xá quyển
11). Thế giới tuy nhiều như thế, nhưng vì giống nhau nên, trên đại thể,
nếu hiểu được một thế giới tức có thể hiểu được toàn bộ thế giới.
2. PHONG
LUÂN, THỦY LUÂN, KIM LUÂN
Từ căn để,
vòng gió, vòng nước và vòng vàng trên đây dựa vào hư không (tức không
gian). Từ trên không gian sinh ra vòng gió. Theo luận Câu Xá, gốc của vòng
này có 16 Lạc xoa (Tàu dịch là Ức, tương đương với 100,000) do tuần; còn
theo lập Thế A Tỳ Đàm luận, quyển 1, thì có 19 ức sáu vạn do tuần. Theo
Tụng sớ, mỗi do tuần là 16 dặm. Chiều rộng của nó thì từ Khởi Thế kinh cho
đến Câu Xá luận đều thông lệ cho là vô biên, nhưng duy có Lập Thế A Tỳ Đàm
luận lại bảo đường kính của nó là mười hai vạn ba nghìn bốn trăm năm do
tuần.
Trên vòng
gió lại sinh ra vòng nước. Theo Câu Xá luận, chiều sâu là tám ức do tuần,
chiều rộng là mười hai ức ba nghìn bốn trăm năm mươi do tuần; còn Lập Thế
A Tỳ Đàm luận thì bảo chiều dài là bốn ức tám vạn do tuần, và chiều rộng
thì cũng giống với Câu Xá, Đại Lâu Thán kinh thì nói sâu bốn trăm sáu mươi
vạn do tuần; còn Khởi Thế kinh lại bảo sâu sáu mươi vạn do tuần; còn Thế
Kỷ kinh thì nói ba nghìn ba mươi do tuần, và rộng thì vô biên.
Trên vòng
nước lại có vòng vàng: rộng cũng như vòng nước, còn dày, theo Câu Xá là ba
ức hai vạn do tuần (những sự so sánh tường tận đó thấy trong Câu Xá luận
pháp nghĩa, quyển 11, và Câu Xá luận quyển 11). Tóm lại, đến vòng vàng này
là sự thành lập của địa cầu, và tất cả các hiện tượng trên địa cầu, là
những hình thái trên vòng vàng.
3. CỬU
SƠN, BÁT HẢI LẤY NÚI TU DI LÀM TRUNG TÂM
Nếu đứng về
phương diện ngang mà quan sát thì thế giới nhỏ này lấy núi Tu Di làm trung
tâm mà có chín núi, tám biển. Tức trong Bá Lạp Na gọi là bảy biển, bảy
châu. Trong Phật giáo thì gọi là chín núi, tám biển. Mà trung tâm của chín
núi, tám biển là núi Tu Di. Theo Câu Xá luận, Lập Thế A Tỳ Đàm luận và Đệ
Duy Da Ngõa Tha Na thì các núi và biển bao quanh núi Tu Di theo thuận tự
như sau:
Tô Mê Lư
Sơn (Diệu Cao)
Du Kiện
Đạt La Sơn (Trì Song)
Y Sa Đà La
Sơn (Trì Trục)
Khư Địa
Lạc Ca Sơn (Diêm Mộc)
Tô Đạt Lê
Xá Na Sơn (Thiện Kiến)
Ngạch Thấp
Phược Yết Noa Sơn (Mã Nhĩ)
Tỳ Na Đát
Ca Sơn (Tượng Nhĩ)
Ni Dân Đạt
La Sơn (Trì Sơn, hay tên cá)
Thiết Luân
Vi Sơn
Theo Lân Ký
thì những tên này do theo hình mà đặt (Tụng sớ quyển 11). Theo Khắc Lỗ
Ngãi Lỗ thì bảy núi từ Trì Song đến Trì Sơn là quan hệ với bảy sao Nhật,
Nguyệt, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, và Thủy.
Nhưng thuận
tự trên đây chưa hẳn nhất trí trong các truyền thuyết. Theo kinh Bản Sinh,
tương đương với bảy núi trên là: 1. Sudassana, 2. Isadhara, 3. Nemindhara,
4. Assakanna, 5. Karavika, 6. Yugandhara, 7. Vinataka. Ngoài ra, trong Á
Tha Na Lợi Nạt, Đại Sự, Lâu Thân kinh, và Khởi Thế kinh v.v... thuận tự đó
cũng có nhiều chỗ không giống nhau, đó là điểm cần ghi nhận (Câu Xá quyển
11). Tóm lại, dù sao thì thuận tự đó đều có. Những núi đó lấy núi Tu Di
làm trung tâm, rồi thuận theo thứ tự, cách biển (hải luân), mà bao vây ở
vòng ngoài tức là Luân Sơn. ]
Song, vị
trí của những núi đó như thế nào? Theo Câu Xá, quyển 11 thì tất cả đều
đứng trên Kim luận (vòng vàng) và đều bâm sâu xuống nước tám vạn do tuần,
nhưng độ cao ở trên mặt nước thì không nhất định. Núi Tu Di ở trên nước
tám vạn do tuần, nhưng núi Trì Song chỉ có bốn vạn, rồi đến núi thứ ba là
Trì Trục thì chỉ có hai vạn do tuần, dần dần cứ giảm đi một nửa cho đến
cuối cùng là núi Thiết Vi chỉ nhô lên khỏi mặt nước có ba trăm mười hai do
tuần rưỡi mà thôi. Còn về chiều rộng của các núi đó thì cũng bằng độ cao
của chúng (Câu Xá quyển 11), cho nên thuận theo độ cao, chiều rộng cũng
giảm bớt đi dần dần. Tức thế giới này lấy núi Tu Di làm trung tâm mà thành
hình thái như biểu đồ sau đây:
HÌNH VẼ
(cũng có
thuyết theo thứ tự giảm nửa độ cao của các núi từ dưới nước - Lập Thế A Tỳ
Đàm luận quyển 2, Đại Chính, 32, trang 182, thượng).
Thứ đến tám
biển. Trong tám biển này, theo Câu Xá thì bảy biển trước là nội hải, nước
ngọt, còn biển kia, tức nội hải của Thiết Vi Sơn, thì gọi là ngoại hải,
toàn nước mặn. Về chiều rộng thì Câu Xá nói: "Khoảng giữa các núi có tám
biển, bảy biển trước gọi là nội hải. Biển thứ nhất rộng tám vạn do tuần,
bốn bên đều gấp ba. Sáu biển kia chỉ rộng bằng nửa, còn biển thứ tám gọi
là ngoại hải, rộng ba lạc xoa (ức) hai vạn nghìn du thiện na (do tuần)".
Căn cứ theo
lời giải thích trên đây thì từ ngoại diện núi Tu Di đến nội diện núi Trì
Song, đường kính là tám vạn do tuần, bốn góc của núi Trì Song cũng như của
núi Tu Di, nội diện mỗi bên là 24 vạn do tuần, tổng cộng chu vi là 96 vạn
(tức Ấn Độ kẻ là chín ức sáu vạn) do tuần.
Ngoài ra,
các núi kia, vì cứ giảm đi một nửa bề rộng cho nên, từ ngoại diện của núi
Trì Song đến nội diện của núi Trì Trục đường kính chỉ còn bốn vạn do tuần.
Từ đây trở xuống có thể cứ tính theo phương pháp đó, Biển cuối cùng, tức ở
khoảng từ núi Trì Sơn đến núi Thiết Vi thì đường kính là ba mươi hai vạn
nghìn (tức ba ức hai vạn hai nghìn) do tuần, mà núi Thiết Vi, vì là thể
tròn, cho nên toàn chiều dài của nó, tính từ trung tâm núi Tu Di đến đây
cách xa gấp đôi.
Lập Thế A
Tỳ Đàm luận bảo chu vi của núi Thiết Vi là 16 ức một vạn ba trăm năm mươi
do tuần (Lập Thế A Tỳ Đàm luận), quyển 2, Đại Chính 32, trang 181), về
điểm này, giữa Lập Thế A Tỳ Đàm và Câu Xá có chỗ hơi bất đồng, Câu Xá cho
độ sâu của các biển cũng đồng với chiều rộng – Câu Xá quyển 11 nói: "Chín
núi đứng trên Kim luân và đều ăn sâu dưới nước tám vạn do tuần - Lập Thế A
Tỳ Đàm thì cho núi Tu Di là sâu nhất, rồi các núi theo thứ tự cứ nóng lên
dần dần, cho đến núi Thiết Vi thì chiều sâu cũng như bề dày còn có 312 do
tuần rưỡi.
Trên đây
chỉ là sự giải thích đại khái về cõi đại địa này mà thôi. Nhưng, trong đó
cái vị trí của thế giới ta hiện ở đây như thế nào?
Trong ngoại
hải, tức phía trong núi Thiết Vi và phía ngoài núi Trì Song, có bốn châu.
Trong số đó, châu Diêm Phù Đề ở phía Nam, hình giống như cái xe, Bắc rộng,
Nam hẹp, ba cạnh đều dài hai nghìn do tuần, còn cạnh phía Nam chỉ có ba do
tuần rưỡi. Xem hình vẽ:
HÌNH VẼ
Đây chính
là thế giới quan mở rộng địa hình Ấn Độ, mà cũng là thế giới chúng ta đang
ở (Bà La Môn giáo cho châu Diêm Phù Đề là trung tâm của thế giới, trong đó
có núi Tu Di, ở phía Nam núi Tu Di là Bà La Đa, tức Ấn Độ). Phía Đông hải
ngoại là châu Đông Thắng Thần (Pùrvavideva), hình thể như bình bán nguyệt.
Câu Xá nói, cạnh phía Đông có 350 do tuần, nhưng vì ba cạnh kia, mỗi cạnh
đều là 2000 do tuần, cho nên hình thể của nó như biểu đồ sau đây:
HÌNH VẼ
Tư tưởng
Diêm Phù Đề châu chủ yếu đã phát xuất từ nơi có địa hình bán đảo, và đó
chính là đã phát xuất từ Đông phương Duy Tải Cáp, nhưng dĩ nhiên, hình
thái đã không giống với thế giới của ta.
Về phía Bắc
ngoại hải là châu Bắc Câu Lư, Bà La Môn giáo cũng nhận là châu này ở phía
Bắc núi Tu Di và là một nước lý tưởng. Hình châu nàu vuông, và bốn cạnh
đều có 2,000 do tuần, cho nên trên đại thể, chu vi của nó gồm có 8,000 do
tuần. Sau hết, về phía Tây là châu Tây Ngưu Hóa hình châu này tròn, và
đường trực kính là 2,500 do tuần, nên trên đại thể, chu biên có 7,500 do
tuần.
Về khoảng
giữa các châu này, theo Lập Thế A Tỳ Đàm thì từ trung ương châu Diêm Phù
Đề đến trung ương châu Tây Ngưu Hóa là ba ức sáu vạn sáu nghìn do tuần;
lại từ đầu Bắc châu Diêm Phù đến đầu Bắc châu Bắc Câu Lư có bốn ức bảy vạn
bảy nghìn năm trăm do tuần (Lập Thế A Tỳ Đàm luận, quyển 2, Đại Chính 32,
trang 181, hạ).
Tóm lại,
bốn châu này là chỗ ở của người đời, trong đó, trạng thái sinh hoạt và
tuổi thọ có khác, nhưng bất luận châu nào, đứng về phương diện người mà
nói, thì đều đồng nhất. Điểm thú vị đặc biệt là hình trạng khác nhau, tức
diện mạo của người ở mỗi châu cũng tương tự như địa hình của châu ấy.
Nghĩa là, người châu Diêm Phù Đề thì mặt trên rộng, dưới hẹp, người châu
Tây Ngưu Hóa thì mặt tròn, người châu Bắc Câu Lư mặt vuông, người châu
Đông Thắng Thần mặt hình bán nguyệt.
Ngoài ra,
mỗi châu đều nhận có các đảo phụ thuộc, điểm này, trong thế giới quan Bà
La Môn giáo cũng có. Theo Phật giáo, bốn châu đều có hai châu phụ. Tức hai
châu phụ thuộc Diêm Phù Đề là Da Mạt La châu và Phiệt La Da Mạt La châu,
chính là tư tưởng đã từ phương diện đảo Tích Lôn ngày nay mà phát đạt. Hai
châu phụ của Đông Thắng là Đề Ha châu và Tỳ Ha châu; của Bắc Câu Lư là
Đoản Lạp Dà và Kiều lạp Bà; của Tây Ngưu Hóa là Xá Hước và Uất Đát La Mạn
Đát Lý Noa. Tám châu này tuy nói là chỗ ở của người, nhưng cũng có thuyết
cho rằng Da Mạt La châu, hay Phiệt La Da Mạt La châu là chỗ ở của quỷ La
Sát. Cái gọi là Quỉ đảo đại khái có nghĩa là Tích Lôn.
4. NÚI
TU DI
Thứ đến,
cái trạng thái của núi Tu Di như thế nào? Như dã nói ở trên, núi Tu Di cao
tám vạn do tuần, bốn góc trên ngọn núi, bề mặt mỗi cạnh đều có ít nhất tám
vạn do tuần. Nửa phần dưới, tức từ mặt nước đến điểm bốn vạn do tuần, có
bốn tầng, cách nhau một vạn do tuần. Các tầng đó chạy dài ra vây quanh
trung khu bộ của núi Tu Di. Tức tầng thứ nhất nhô ra một vạn sáu nghìn do
tuần, tầng thứ hai, tám nghìn do tuần, tầng thứ ba, bốn nghìn do tuần, và
tầng thứ tư, hai nghìn do tuần. Xem đồ biểu dưới đây:
HÌNH VẼ
Nhưng những
nơi đó là chỗ ở của quỷ thần. Tầng thứ nhất là chỗ ở của thần Dạ Xoa tên
là Kiên Thủ; tầng thứ hai là của Trì Phát; tầng thứ ba của Hằng Kiêu (xưa
là Hằng Túy): tất cả đều là thần Dạ Xoa, họ hàng của Tứ Thiên vương. Tầng
thứ tư là nơi của Tứ Thiên Vương. Đông phương là Trì Quốc Thiên Vương; Nam
phương do Tăng Trưởng Thiên Vương ở; Tây phương do Quảng Mục Thiên Vương;
Bắc phương do Tỳ Sa Môn Thiên Vương (đa – văn – thiên): bốn vị Thiên Vương
này bảo hộ toàn thế giới (nhưng Khởi Thế Nhân Bản kinh quyển 6 (Đại Chính
1, trang 394, hạ); Lập Thế A Tỳ Đàm luận quyển 4 (Đại Chính, 32, trang
191, trung); Du Già Sư Địa luận quyển 2 (Đại Chính, 30, trang 287, trung)
đều nói bốn vị Thiên Vương này ở trên đỉnh núi Trì Song).
Trên đỉnh
núi Tu Di là Trời 33 (Đao Lợi Thiên) chiều rộng, theo Câu Xá (quyển 11)
đưa ra hai giả thuyết, một cho rằng mỗi cạnh rộng tám vạn do tuần; một cho
mỗi cạnh rộng hai vạn do tuần. Tam Thập Tam Thiên là thoát xuất từ thời
đại Vệ Đà gọi chư thần là Tam Điệp Thập Nhất Thiên, cùng với cái mà Nhật
Bản gọi là "Tám trăm vạn Thần" v.v... tương đồng, nó biểu thị một ý nghĩa
tập đoàn, với số mục 33 này không có quan hệ gì đặc biệt cả. Chủ của cõi
này là trời Đế Thích, thường được xưng là Sá Khắc Lạp Đức Duy Na Mỗ Nhân
Đà La. Bắt đầu là kinh Khởi Thế (quyển 20, phẩm Đao Lợi Thiên)), rồi đến
các kinh, luận khác, đều hết sức tán thán cõi trời Đao Lợi này, bởi thế,
chúng ta hãy nhìn qua cảnh giới đó xem sao. Bốn góc trên đỉnh núi Tu Di có
ngọn núi cao 500 do tuần, là chỗ ở của Kim Cương thủ, là người canh phòng
núi Tu Di. Giữa đất bằng có đô thành gọi là Thiện Kiến (Diệu Kiến, hoặc
dịch là Hỷ Kiến), bốn bên đều có 2,500 do tuần. Chu vi có Kim Thành dài
một do tuần rưỡi. Đất mềm mại như dải nhung tơ. Trong thành này lại có
điện Tỳ Xà Duyên rất thù thắng, là nơi ở của Đế Thích. Bốn phía ngoài
thành có bốn khu vườn: phía Đông là vườn Chúng Xa; phía Nam có vườn Thô Ác
(vườn Ác Khẩu); phía Tây là vườn Tạp Lâm; phía Bắc là vườn Hỷ Lâm(Lập Thế
A Tỳ Đàm luận quyển 3, ngoài bốn vườn kể trên, có ghi vườn Ba Lợi Dạ Đa.
Còn giải thích tên Thô Ác, bảo rằng vì có ao và cây nên vườn này có tên là
Thô Ác. Lại nữa, vì chư Thiên khi vào vườn này tranh giành nhau đi sau đi
trước mà sinh ghét nhau, do đó mới có tên là Ác Khẩu - Đại Chính, 32,
trang 187, thượng). Tất cả vườn đó đều là những nơi du ngoạn của chư Thiên
cõi Đao Lợi. Ngoài bốn vườn đó, về phía Đông Bắc ngoại thành còn có Ba Lợi
Xà Đa, tức là khu vườn Viên Sinh Thụ. Trong đó có cây Viên Sinh cao 100 do
tuần, cành tỏa ra bốn phía thành một cái tàn lớn che rợp 50 do tuần. Dưới
bóng tàn đó, chư Thiên tha hồ ăn uống và ca múa (về Đao Lợi Thiên và bốn
vườn, có thể tham chiếu Trường A Hàm, quyển 20, phẩm Đao Lợi Thiên; Lập
Thế A Tỳ Đàm luận, quyển 2 và 3; và Câu Xá quyển 11).
5. NHẬT
NGUYỆT LỊCH SỐ
Nhật nguyệt
lịch số của Phật giáo so với Nhật nguyệt lịch số của Bá Lạp Na, có thể
nói, rất có ý nghĩa khoa học. Nhật nguyệt lịch số của Bá Lạp Na thấy ở sự
thực, nên rất thẳng mực, mà cách thuyết minh lại quá thần thoại; Nhật
nguyệt lịch số của Phật giáo tuy cũng giả định, nhưng lại kết hợp với sự
thực để tìm cầu, nên phương pháp thuyết minh rất khít khao.
Những văn
hiến nói về sự vận hành của mặt trời, mặt trăng trong Phật giáo có rất
nhiều, nhưng theo chỗ tôi biết thì văn kiện nói ra tường tận nhất về điểm
này là Nhật nguyệt hành phẩm, trong Lập Thế A Tỳ Đàm luận, quyển 5 (Đại
Chính, 32, trang 165, thượng). Bởi thế, sau đây, tôi tưởng chỉ nên căn cứ
theo đó mà nói một cách đại yếu về điểm này.
Theo Lập
Thế A Tỳ Đàm luận thì độ cao của mặt trời, mặt trăng bằng nhau, ở điểm bốn
vạn do tuần của núi Tu Di, tức cũng cao bằng đỉnh núi Trì Song (Bá Lạp Na
cho mặt trời cao mười vạn do tuần, mặt trăng hai mươi vạn do tuần); lơ
lửng giữa không trung, không rơi, mà cũng không bao giờ ngừng xoay vần, sở
dĩ như thế là ở sức gió nâng đỡ. (Theo Thế Kỷ kinh, Thế Bản Duyên phẩm
trong Trường A Hàm thì có năm ngọn gió nâng đỡ và làm cho mặt trời mặt
trăng vận hành, đó là Trì phong, Dưỡng phong, Thụ phong, Chuyển phong và
Điều phong. Đại Chính, 1, trang 145, hạ). (Lại trong Khởi Thế kinh, quyển
10 (Đại Chính, 1, trang 360, hạ) nói là Trì phong, Trụ phong, Thuận phong,
Nhiếp phong và Hành phong). Về hình thể thì mặt trời là một viên thể,
đường kính 51 do tuần, mặt trăng có đường kính 50 do tuần (nếu so sánh với
châu Diêm Phù thì mặt trời và mặt trăng nhỏ hơn biết bao! Vì ba cạnh của
châu Diêm Phù mỗi cạnh có những 2,000 do tuần). Phật giáo cũng nhận trong
mặt trời và mặt trăng có cung điện, điểm này có thể nói cũng đồng nhất với
cách khảo sát của Bà La Môn giáo. Song, những yếu tố cấu tạo thành bộ phận
dưới của chúng thì, theo Phật giáo, mặt trăng là pha lê, được phủ bởi lớp
bạch – ngân và nước chiếm phần lớn; còn mặt trời tuy cũng là pha lê nhưng
được phủ bởi xích kim và lửa chiếm đại bộ phận. Trong Bà La Môn giáo không
có sự thuyết minh này.
Song, sự
vận hành của mặt trời, mặt trăng như thế nào? Chúng đều lấy núi Tu Di làm
trung tâm, lấy bốn châu làm giới hạn mà cùng xoay vần trong quỹ đạo. Do sự
vận hành ấy mà có ngày, đêm. Mặt trời xoay từ Đông sang Tây; nửa đêm ở Bắc
châu là lúc mặt trời lặn ở Đông châu; giữa trưa ở Nam châu là lúc mặt trời
mọc ở Tây châu. Điểm này cũng tương đồng với Bà La Môn giáo. Còn về sự
dài, ngắn của ngày, đêm thì: Bá Lạp Na cho quỹ đạo mặt trời, mặt trăng là
180 đường tròn hình ốc; trong Lập Thế A Tỳ Đàm luận thì đại thể chia nó
thành ngoại lộ và nội lộ, và khoảng cách giữa hai đường này là 290 do
tuần. Tựu trung, ngoại lộ trước hết ở hai châu Nam Phù và Bắc Câu Lư, từ
điểm cực Nam (các châu thường lấy mặt hướng về núi Tu Di làm phương Bắc)
của hai châu này, ở điểm 60 do tuần một điểm, rồi lại ở hai châu Đông
Thắng Thần và Tây Ngưu Hóa, từ cực Nam, định điểm tại khu vực một phần ba
của 393 do tuần, chiếu theo bốn điểm đó mà họa một hình tròn và lấy nó làm
ngoại lộ. Như vậy, đường kính của ngoại lộ sẽ là bốn ức tám vạn một nghìn
ba trăm tám mươi do tuần, chu vi là mười bốn ức bốn vạn bốn nghìn một trăm
bốn mươi do tuần. Còn nội lộ, từ bốn điểm 290 do tuần, là một đường suốt
phương Bắc, tức là điểm ở hai châu Nam Phù Đề và Bắc Câu Lư, cách cực Nam
350 do tuần; ở hai châu Đông Thắng Thần và Tây Ngưu Hóa là điểm ở vào một
phần ba của 683 do tuần, đường trực kính là bốn ức tám vạn tám trăm do
tuần, chu vi bốn ức bốn vạn hai nghìn bốn trăm do tuần. Mặt trời mặt trăng
vận hành trong khoảng hai con đường này, và vì sự bất đồng của 290 do tuần
nên Nhật nguyệt lịch số có tướng trạng khác nhau.
Do đó, lấy
thuyết quỹ đạo trên đây làm nền tảng để trước hết nói về sự vận hành của
mặt trời, lấy một năm làm 360 ngày (5 năm nhuận một tháng), thì quỹ đạo
của mặt trời sẽ có 180 loại khác nhau. Đó tức là sự bất đồng giữa khoảng
từ ngoại lộ vào nội lộ và từ nội lộ vào ngoại lộ vậy. Đương nhiên, mặt
trời (cả mặt trăng cũng thế) quyết không chỉ vận hành riêng ở ngoại lộ hay
nội lộ mà tất phải vận hành cả ở ngoại lẫn nội lộ, và chính vì đó mà thành
180 loại. Trong số này, có bốn loại có thể được coi là tiêu chuẩn cơ bản.
Thứ nhất, tại ngoại lộ Diêm Phù và nội lộ Bắc Câu là một đường quán thông
trung lộ của hai châu Đông và Tây, ngày Đông chí (xưa là ngày 9 tháng 11?)
của châu này (Diêm Phù) tức là đường đó. Thứ hai, khi mặt trời vận hành
tại trung lộ của châu này và Bắc châu là vận hành ở ngoại lộ của Tây châu
và ở nội lộ của Đông châu, ngày Thu phân ở châu này tương đương với ngày
đó. Thứ ba, là đường kết hợp ngoại lộ của Bắc châu với nội lộ của nam châu
và trung lộ của hai châu Đông, Tây, khi mặt trời đi theo quỹ đạo đó là
tiết Hạ chí của châu này. Thứ tư, là đường kết hợp trung lộ của hai châu
Nam, Bắc với ngoại lộ của Đông châu và nội lộ của Tây châu, thì ngày đó
tương đương với ngày Xuân phân của châu này. Như vậy, bốn quỹ đạo ày là
tiêu chuẩn và sự kết hợp, giao thoa giữa chúng thành ra 180 đường.
Nếu căn cứ
theo Lập Thế A Tỳ Đàm luận thì mỗi ngày mặt trời đi đại khái là:
Đi thẳng 1444140 + 1442400:
360 = 4009 x 1/12 do tuần
2
Đi chếch 290 =1 x 11/18 do
tuần (từ nội lộ đến ngoại lộ hay từ ngoại lộ đến nội lộ). Xem đồ biểu:
180
HÌNH VẼ
Lý do tại
sao ngày đêm có dài, ngắn khác nhau là hoàn toàn ở đấy. Khi mặt trời qua
lại trong nội lộ các châu thì rất dài, khi qua lại trong trung lộ thì Bình
phân. Các thuyết minh này của Phật giáo cũng giống với của Bà La Môn giáo.
Một ngày một đêm là 30 Mâu hô lật đa, hoặc Mâu hưu đa; ngày hoặc đêm đài
nhất là 18 Mâu hô lật đa, ngắn nhất là 12 Mâu hô lật đa. Điểm này cũng
giống với Bà La Môn giáo. Nếu theo Lập Thế A Tỳ Đàm luận thì: sự bất đồng
của một ngày là: 1/30 Mâu hô lật đa = 1 La bà hay Lạp phược. Tức là từ Hạ
chí, mỗi ngày thời gian giảm đi một Lạp phược, từ Đông chí, tăng lên một
Lạp phược. Song, ở đây vấn đề được đặt ra là ngày Đông chí, Hạ chí và ngày
Bình phân tương đương với ngày nào? Vấn đề này, trên thực tế, do vĩ độ mà
có hơi sai khác. Về điểm này, Lập Thế A Tỳ Đàm luận, quyển 5, đưa ra hai
thuyết khác nhau.
Thuyết thứ
nhất là:
Ngày 15
tháng 5 - Hạ chí
Ngày 15
tháng 8 – Bình phân
Ngày 15
tháng 11 – Đông chí
Ngày 15
tháng 2 – Bình phân
Thuyết thứ
hai là:
Ngày 9
tháng 6 - Hạ chí
Ngày 9
tháng 9 – Bình phân
Ngày 9
tháng 11 – Đông chí
Ngày 9
tháng 3 – Bình phân
Lại trong
luận Bà Sa, quyển 136 thì nói:
Ngày 8
tháng ma Dà (9-12) – Đông chí
Ngày 8
tháng Thất La Phiệt Noa (9-6) - Hạ chí
Câu Xá luận
thì nói:
Từ Vũ Tế
tháng thứ hai, ngày 9, đêm dần dần tăng: từ Hàn Tế tháng thứ tư, ngày 9,
dần dần giảm.
Song, Vũ Tế
tháng thứ hai, và Hàn Tế tháng thứ tư đích thực chỉ tháng nào thì điều đó
vẫn chưa được rõ. Quang Ký đưa ra nhiều thuyết.
Thái Sớ thì
nói:
Ngày 9
tháng 8 (Vũ Tế tháng thứ 2) – Thu Bình phân
Ngày 9
tháng 2 (Vũ Tế tháng thứ 4) – Xuân Bình phân
Quang Ký
thì nói:
Ngày 9
tháng 5 (Vũ Tế tháng thứ 2) - Hạ chí
Ngày 9
tháng 11 (Vũ Tế tháng thứ 4) – Đông chí.
Điểm này,
như Tụng sớ nói, cái gọi là đêm tăng lên, có sự giải thích bất đồng là
Bình phân tăng và sau Hạ chí. Song, nếu cho như thế mà giải thích sự bất
đồng, đó bằng Vũ Tế và Hàn Tế thì có điểm không ổn thỏa. Nhưng, nếu lại
tiến thêm một bước nữa mà khảo sát thì, cái gọi là Vũ Tế, Hàn Tế, hoặc là
ngày đêm dài ngắn khác nhau, thật ra là do sự bất đồng của vĩ độ, cho nên
dù chỉ ở một nước Ấn Độ cũng khó mà có sự nhất định rồi, huống chi còn
liên hệ nó với cả Trung Quốc và Nhật Bản. Nếu ta muốn đạt đến một quy luật
nhất định, thì dĩ nhiên, điều đó cực kỳ khó khăn.
Nếu tính
theo ngày nay, thì thời gian mà trái đất xoay quanh mặt trời được một vòng
là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút, 46 giây, do đó, nếu cho một năm là 365 ngày,
thì cứ cách bốn năm phải có một ngày nhuận. Đằng này, Ấn Độ lại dùng Âm
lịch, vì một năm chỉ có 360 ngày, còn lại 51/4 ngày nữa, cho
nên cần phải có một tháng nhuận. Lập Thế A Tỳ Đàm luận tuy cho năm năm
nhuận một tháng nhuận, nhưng không định rõ số ngày của nó như thế nào. Vì
không rõ về lịch số nên kết quả là không thể luận cứu về vấn đề này một
cách tường tận được. Đây là một điều rất đáng tiếc.
Trên đây,
đại khái là đường vận hành của mặt trời. Sau đây sẽ nói qua về mặt trăng.
Mặt trăng thì cũng hệt như mặt trời, nghĩa là, cũng vận hành giữa khoảng
hai con đường nội và ngoại, nhưng khi đi qua 15 đường thì lại trở về đứng
ở quỹ đạo cũ. Đại khái trong 30 ngày thì đi hết toàn thể quỹ đạo của nó,
tức là từ ngoại lộ vào nội lộ hết 15 ngày, và từ nội lộ trở lại ngoại lộ
hết 15 ngày. Theo ý nghĩa này, khi mặt trăng đi chếch thì nhanh hơn mặt
trời, nghĩa là, trong một ngày đi được 191/3 do tuần. Nhưng khi
đi thẳng thì tốc độ mặt trăng lại chậm hơn mặt trời, đại khái một ngày mặt
trời nhanh hơn mặt trăng 48,080 do tuần, do đó có hợp hay ly. Khi hợp thì
ánh sáng mặt trời bao phủ mặt trăng trong một ngày là 3: 1/3 do tuần, dần
dần đến ngày 15 thì toàn bộ bị bao phủ, ánh sáng mặt trăng không hiện mới
thành ra "hắc phân". Khi ly thì dần dần một ngày hiện ra 3: 1/3 do tuần,
cứ như thế cho đến ngày 15 thì hoàn toàn không bị mặt trời che nữa, và lúc
ấy là trăng tròn (bạch phân): đó là lý do tại sao trăng có khuyết, có tròn
vậy. Dĩ nhiên, nếu nói theo quan niệm ngày nay thì điều đó không chính
xác, nhưng nếu so với Bá Lạp Na bảo do sự đầy vơi của cam lộ mà trăng có
tròn, khuyết, thì cách thuyết minh trên đây của Phật giáo có thể nói rất
khoa học (Câu Xá quyển 11 nói: "Các sư xưa giải thích là do độ đi vòng của
mặt trời, mặt trăng có khác nhau, nên mới hiện có tròn, khuyết". Tụng sớ
chú thích các sư xưa là các sư của Kinh Bộ. Nếu vậy, có thể nói, những
điều được thuyết minh trong Lập Thế A Tỳ Đàm luận hợp với với Kinh Bộ).
Tiết thứ hai: Địa ngục
1. VĂN
HIẾN
Sau đây,
chúng ta hãy bàn qua về tư tưởng Địa ngục của Phật giáo.
Từ thời đại
Phật giáo nguyên thủy, tư tưởng địa ngục đã được thu dụng trong Phật giáo
rồi. Song, lúc đầu nó mới chỉ là luân lý luận thông tục chứ chưa đạt đến
yếu tố thế giới quan. Về số mục hoặc vị trí của địa ngục thì mãi đến A Tỳ
Đạt Ma luận thư sau này hầu như cũng chưa xác định (A.L.p.141, M.3p.166,
S. L. p. 151. Tạp A Hàm, quyển 47, Tăng Nhất A Hàm, quyển 36, Trung A Hàm,
quyển 1, Thiên Sứ Kinh). Tuy nhiên, nói một cách đại thể thì lúc đầu các
thuyết minh về địa ngục đều rời rạc, vả lại có tính cách thí dụ nhiều hơn,
và có rất nhiều điểm liên hệ với tư tưởng địa ngục của Bà La Môn giáo
(chẳng hạn như số 7 được nhận là số mục địa ngục). Trải qua các niên đại,
đồng thời với sự phát huy những đặc sắc của Phật giáo, tư tưởng địa ngục
cũng lần lượt được chỉnh lý, để rồi đã chiếm một địa vị lớn trong thế giới
và hữu tình quan.
Dưới đây
chúng tôi xin kể kể qua những tài liệu nghiên cứu về tư tưởng địa ngục:
Tăng Nhất Bộ và Trung Bộ văn Ba Li là những tư tưởng thời đầu đã dần dần
đầy đủ. Từ đó tiến lên bước nữa thì có phần chú kinh Bản Sinh, Đại Sự,
Trường A Hàm, quyển 19, phẩm Địa Ngục, cuối cùng có Lập Thế A Tỳ Đàm luận,
quyển 8, phẩm Địa Ngục, Thế gian Thi Thiết luận, Câu Xá luận, Thế gian
phẩm (quyển 11), cho đến Du Dà Sư Địa luận là thuyết minh chung cục về địa
ngục.
2. VỊ
TRÍ
Trước hết
hãy nói về vị trí của địa ngục. Trên văn hiến, lúc đầu khảo sát về địa
ngục như một nơi tận cùng của thế giới. Trong Trường A Hàm, phẩm Địa Ngục
nói: "Nơi tận cùng của thế giới này tựa vào một biển nước lớn, lại có hai
ngọn núi Kim Cương, nơi giữa khoảng hai ngọn núi này, ánh sáng mặt trời,
mặt trăng không chiếu rọi đến được, và đó là địa ngục (Đại Chính, 1, trang
121, hạ), Lập Thế A Tỳ Đàm luận quyển 1 thì bảo địa ngục ở ngoài núi Thiết
Vi (Đại Chính, 32, trang 173, trung). Song, đến Câu Xá luận thì cho rằng
nếu bảo nơi tận cùng của thế giới là địa ngục thì quyết không thích hợp,
nên cho địa ngục là dưới mặt đất, và lấy địa điểm phía dưới châu Diêm Phù
hai vạn do tuần (dưới đáy, bốn vạn do tuần từ bề mặt trở xuống) làm địa
ngục A Tỳ (Vô Gián địa ngục), lấy đó làm cơ để, trở lên còn có bảy tầng
địa ngục (Du Dà Sư Địa luận, quyển 4, nói, từ dây trở xuống ba vạn hai
nghìn do tuần có Đẳng Hoạt Na Lạc Ca (Đại Chính, 30, trang 294) song có
thể nói là tám địa ngục, mỗi địa ngục cách nhau một nghìn do tuần).
3. SỐ VÀ
LOẠI
Thứ đến, là
số và loại địa ngục. Như đã nói ở trên, Trung Bộ liệt kê bảy địa ngục; Lập
Thế A Tỳ Đàm luận kể có mười hàn, tám nhiệt và mười sáu tăng (Đại Chính,
32, trang 173, 207, thượng, 215, thượng); Trường A Hàm, quyển 19, cũng kể
mười hàn, tám nhiệt và mười sáu địa ngục nhỏ phụ thuộc làm chủ thể của địa
ngục. Địa ngục quan của Phật giáo, cuối cùng, đã lược định ở đây. Bởi vậy,
chúng ta hãy căn cứ theo đó để liệt kê tên gọi như sau:
Trước hết
bắt đầu từ tám nhiệt. Tám nhiệt là: 1. Đẳng Hoạt (xưa là Cánh Hoạt), 2.
Hắc Thằng, 3. Chúng Hợp (xưa là Chúng Hạp), 4. Hiệu Khiếu (xưa là Khiếu
Hoàn), 5. Đại Hiệu Khiếu, 6. Viêm Nhiệt (xưa là Thiêu), 7. Cực Nhiệt (xưa
là Đại Thiêu), 8. Vô Gián. Trong số này, bất luận loại nào, đều là chỗ đến
của những kể tạo nghiệp cực ác, và đều phải chịu khổ bị thiêu đốt. Cũng vì
thế mà có tên là Nhiệt địa ngục. Tựu trung, những kẻ bị đọa vào địa ngục
Đẳng Hoạt, tuy bị ngục tốt - về thân phận ngục tốt, giữa các A Tỳ Đạt
Ma luận sư có sự tranh luận, Đại Chúng Bộ và Chính Lượng Bộ thì bảo không
phải hữu tình, mà là một biến hình lớn do ác nghiệp chiêu cảm. Đại thừa
cũng thế (Duy Thức Nhị Thập luận thuật ký, quyển thượng, Đại Chính, 43,
trang 987, thượng), nếu theo K. V. XX. 3, thì Án Đạt La phái cũng cùng một
ý kiến - chặt đứt từng đoạn đặt lên sắt nóng, nhưng nhờ gió mát mà lại
sống lại để tiếp tục chịu khổ, do đó mà có tên Đẳng Hoạt địa ngục. Hắc
Thằng có nghĩa là sợi dây đen. Như người thợ mộc dùng sợi dây đen trong
tàu mực đánh dấu trên khúc cây để cưa xẻ, ở đây tội nhân cũng vậy: ngục
tốt dùng dây sắt nóng đặt lên thân thể tội nhân để đánh dấu và cứ theo dấu
ấy mà cưa xẻ tội nhân, do đó có tên là Hắc Thằng. Còn Chúng Hợp địa ngục
là ngục tốt đuổi tội nhân vào giữa hai quả núi, phía trước sau đều có lửa
cháy, trong khi đó hai quả núi hợp lại mà ép tội nhân, do đó mới có tên là
Chúng Hợp. Ngoài ra, Viêm Nhiệt, Đại Viêm nhiệt, Khiếu Hiệu. Đại Khiếu
Hiệu v.v... đều do chịu khổ lửa đốt mà diễn tả cái trạng thái kêu gào,
than khóc của tội nhân. Sau hết là địa ngục Vô Gián, Trong bảy địa ngục
kia, có khi tội nhân còn được nghỉ ngơi đôi chút, khỏi chịu khổ, chứ tại
địa ngục này thì một phút do dự cũng không được, bởi thế mới có tên là Vô
Gián. (Những luận sau đây nói rõ về tám địa ngục lớn này: Du Dà Sư Địa
luận, quyển 4, Đại Chính, 30, trang 295, hạ - 297, thượng); Thi Thiết túc
luận. Thi Thiết luận nói: "Tạo nghiệp sát sinh, kẻ nặng nhất đọa vào Vô
Gián địa ngục; nặng vừa đọa Đại Viêm Nhiệt địa ngục; vừa nữa, đọa Viêm
Nhiệt địa ngục; vừa nữa đọa Đại Hiệu Khiếu địa ngục; vừa nữa, Hiệu Khiếu
địa ngục; vừa nữa, đọa Chúng Hợp địa ngục; vừa nữa, đọa Hắc Thằng địa
ngục; vừa nữa, đọa Đẳng Hoạt địa ngục; vừa nữa đọa Bàng Sinh ác thú, và
nhẹ nhất thì đọa Ngạ quỷ giới"; Bà Sa quyển 47(Đại Chính, 27, trang 243,
thượng); và Nghiên Cứu A Tỳ Đạt Ma Luân, trang 173).
Về bề rộng
của tám địa ngục lớn trên đây, theo Câu Xá, mỗi địa ngục là hai vạn do
tuần, nhưng ngoài những địa ngục chính ra còn có sáu địa ngục phụ mệnh
danh là Tăng. Trong Phật giáo, vì một lý do nào đó, tuy lấy tám địa ngục
lớn làm chủ vị, nhưng do kết quả của một hình thái muốn gia tăng nào đó,
nên cũng đã lập ra những địa ngục phụ thuộc. Bởi thế con số mười sáu Tăng
chưa hẳn đã được quyết định từ lúc đầu. Trung Bộ (M.III, p. 166) nói tại
cửa của địa ngục lớn thứ bảy có nhiều địa ngục phụ: kinh Thế Khởi trong
Trường A Hàm (Trường A Hàm, quyển 19, phẩm Địa Ngục, Đại Chính 1, trang
121, hạ) nói như sau: 1. Hắc Sa, 2. Phi Niệu, 3. Ngũ Bách Đinh, 4. Cơ, 5.
Khát, 6. Nhất Đồng Phủ, 7. Đa Đồng Phủ, 8. Thạch Na, 9. Nùng Huyết, 10.
Lượng Hỏa, 11. Khôi Hà, 12. Thiết Hoàn, 13. Xích Phủ, 14. Sài Lang, 15.
Kiếm Thụ, 16. Hàn Băng. Điều này không may là vì không có nguyên điển của
kinh Thế Khởi, nên không thể nói rõ nguyên ngữ của từng địa ngục trên đây.
Nhưng điều đại khái không còn hồ nghi là sự thành lập nhiều địa ngục như
thế đã thoát thai từ Bá Lạp Na. Song, Lập Thế A Tỳ Đàm luận quyển 8 (Đại
Chính, 32, trang 211, hạ), hay luận Câu Xá quyển 11, nói rằng tại bốn cửa
của tám địa ngục lớn đều có bốn tăng, cộng tất cả là mười sáu, như vậy đều
khác với số mười sáu của Trường A Hàm. Tức là bốn phương đều có bốn loại:
1. Đường Ổi Tăng (xưa gọi là Nhiệt Khôi Viên). 2 Thì Phẩn Tăng (gọi là Tử
Thi Viên). Trong Thi Phẩn này có con trùng kêu là Nương Củ Tra (xưa gọi
Nhương Cưu Đa). 3. Phong Nhận Tăng (trong đó lại chia thành 3 loại: a) Đao
Nhận Lộ, b) Kiếm Diệp Lâm, c) Thiết Thích Lâm). 4. Liệt Hà Tăng. Nếu chia
nhỏ ra nữa thì thành bảy loại, tức là thêm ba loại ở số 3 vào. Tất cả địa
ngục này đều rộng khoảng vài tăm do tuần. Tội nhân khi từ địa ngục chính
ra rồi lại phải vào đây để chịu khổ, bởi thế mới có tên là Tăng (thêm).
Đây là sự giải thích của luận Câu Xá.
Trên đây,
tất cả đều là Nhiệt địa ngục, đối lại với Nhiệt địa ngục còn có Hàn địa
ngục. Trường A Hàm, quyển 19, phẩm Địa Ngục (Đại Chính, 1, trang 125, hạ)
Lập Thế A Tỳ Đàm luận luận quyển 1 (Đại Chính, 22, trang 173, hạ) liệt kê
mười loại. Tăng Nhất Bộ, Tập Bộ, Kinh Tập Bộ thì kể có chín loại. Câu Xá
luận thì lại nói có tám loại.
Mười loại
của Trường A Hàm bản dịch là: 1. Hậu Vân, 2. Vô Vân, 3. Ha Ha, 4. Nại Hà,
5. Dương Minh, 6. Tu Càn Đề, 7. Ưu Bát La, 8. Câu Vật Đầu, 9. Phân Đà Lợi,
10. Bát Đầu Ma.
Mười loại
của Lập Thế A Tỳ Đàm là: 1. At Phù Đà, 2. Niết Phù Đà, 3. A Ba Ba, 4. A
Tra Tra, 5. Ưu Hống Hồng, 6. Uất Ba Lũ, 7. Câu Vật Đầu, 8. Tô Kiện Đà Cố,
9. Phân Đà Lợi Cố, 10. Ba Đầu Ma.
Còn tám
loại của Câu Xá là bỏ số 7, 8, trên đây, còn lại tám.
Những tên
gọi trên đây là căn cứ theo cái trạng thái cực lạnh của thân thể, hoặc
tiếng khổ thảm mà đặt (trong Phát Hợp Tư Ba Tạo Ảnh Sơ Tri luận, quyển
thượng (Đại Chính, 32, trang 229, thượng) và Du Dà Sư Địa luận, quyển 4,
có nói rõ về tám Hàn).
Về vị trí
của những địa ngục này, Lập Thế A Tỳ Đàm luận quyển 1, bảo là ở phía ngoài
núi Thiết Vi, nhưng Câu Xá luận, quyển 11, lại nói ở ngoài tám địa ngục
Nhiệt kể trên. Mà hình thể châu Nam Diêm Phù Đề, bề mặt tuy không rộng,
nhưng phía dưới trở xuống thì rất rộng, cho nên có thể bao hàm rất nhiều
địa ngục ở dưới.
4. DIÊM
MA ĐỊA NGỤC
Trở lên, có
bát nhiệt, bát hàn và mười sáu tăng, tất cả là 8+8 (8x16). Đây tuy là con
số chủ yếu trong địa ngục quan Phật giáo, nhưng Trường A Hàm, quyển 19,
Lập Thế A Tỳ Đàm luận, quyển 8, còn đặc biệt nói đến Diêm Ma địa ngục
nữa.
Vua Diêm
Ma, lúc tối sơ là người chết, mà điểm thú vị là theo Trường A Hàm, vua tuy
ở trong cung điện tráng lệ đó mà hưởng các thú vui, nhưng cứ mỗi ngày ba
lần, ngồi trên sắt nóng lấy nước đồng sôi rót vào miệng mà chịu khổ
(Trường A Hàm quyển 19, Đại Chính, 1, trang 126, trung). Theo chỗ tôi
biết, Bà La Môn giáo không nói Diêm Ma tự thân chịu khổ, nhưng Phật giáo
thì cho thân phận Diêm Ma cũng chỉ là một loài quỷ. Song, Diêm Ma có nhiệm
vụ răn dạy các tội nhân mà ông ta xét xử; điều này trong Trường A Hàm cũng
có nói, nhưng đến Lập Thế A Tỳ Đàm luận thì nói sự thụ khổ của Diêm Ma
không phải nhiệm vụ của tài phán quan tận lực, phương pháp tài phán của
Diêm Ma rất có tính cách luân lý giáo huấn: đó là đặc sắc của Diêm Ma quan
Phật giáo. Sứ giả của Diêm Ma có ba hoặc năm người. Ba là lão, bệnh, tử;
năm là sinh, lão, bệnh, tử và hình vụ sở. Diêm Ma thường sai sứ tăng gia
cảnh giới nhân loại, nhưng vì nhân loại không thèm để ý, nên không chịu
làm việc thiện mà, trái lại, chỉ lo tạo ác nghiệp, cho nên cuối cùng không
tránh khỏi những nỗi khổ ở địa ngục. Đó là lời răn dạy của Diêm Ma đối với
người mới chết. Như Lập Thế A Tỳ Đàm luận quyển 8, nói: "nghiệp tà ác của
ngươi, do nơi ngươi tự làm tự chịu, chẳng phải mẹ cha làm cho, chẳng phải
quốc vương làm, chẳng phải trời làm, cũng chẳng phải Sa Môn, Bà La Môn
làm, mà là do ngươi tự làm tự chịu, tuy không mong muốn, nhưng quả báo
quyết định sẽ đến". Lại trong Trung A Hàm, quyển 12, Thiên Sứ kinh, (Đại
Chính, 1, trang 504, trung) nói: "Ác nghiệp này của ngươi, chẳng phải cha
mẹ làm, chẳng phải vua, cũng chẳng phải Sa Môn, Phạm Chí làm, mà chính do
tự ngươi tạo nghiệp bất thiện, nên nay ngươi tất sẽ phải chịu báo". Đó là
những lời Diêm Ma thường tuyên bố. Theo ý nghĩa ấy, Diêm Ma tuy đã mất cái
ý nghĩa tài phán quan, nhưng trong truyền thuyết Phật giáo, đại khái vẫn
thừa nhận thuyết này. Còn về chỗ ở của Diêm Ma, theo Trường A Hàm thì tại
núi Đại Kim Cương ở phía Nam châu Diêm Phù, nhưng Câu Xá luận lại bảo ở
dưới đất năm trăm do tuần, là chỗ thuộc loài qủy (Câu Xá luận, quyển 11).
5. CÔ
ĐỊA NGỤC
Ngoài ra,
theo Phật giáo, còn cái gọi là Cô địa ngục, ở rải rác trên đất, hoặc trên
sông, ở sườn núi hay giữa cánh đồng, như Sương Căng Đại địa ngục, Khủng
Sơn của Nam Bộ, Biệt Phủ địa ngục v.v... cũng tương đương với Cô địa ngục,
vì chúng ở tản mạn khắp nơi nên gọi là Cô.
(Về địa
ngục, ngạ qủy, súc sinh, Thiên v.v... xem Chính Pháp Niệm Xứ Kinh Toàn 70
quyển (Đại Chính, 17, trang 1-417).
Tiết thứ ba: Hữu tình thế gian
(Sinh vật hiện tượng luận)
1. NGŨ
ĐẠO, HOẶC LỤC ĐẠO
Như trên đã
nói, những sinh vật lấy vật khí thế giới làm vũ đài trung tâm để hoạt động
là Hữu tình thế giới. Phật giáo chia hữu tình thế giới này thành nhiều
loại: Tựu trung, phổ thông nhất là thuyết Ngũ đạo, hoặc là Lục đạo và Tam
giới. Ngũ đạo, địa ngục, ngạ qủy, bàng sinh, nhân gian và Thiên nhân là
cách phân loại được Thượng tọa và Hữu Bộ thâu dụng. Lục đạo (lục thú), sau
bàng sinh thêm A Tu La nữa, là thuyết pháp được Độc Tử Bộ hay Án Đạt La
Phái thâu dụng (tham chiếu Trí Dộ luận, quyển 10, Đại Chính, 5, trang 135,
hạ) Trong Ngũ đạo, thì về địa ngục đã trình bày ở trên rồi nên ở đây không
cần nhắc lại nữa. Còn về quỷ tuy vốn là sự tưởng tượng về người chết,
nhưng theo Phật giáo, cái phạm vi của quỷ rất rộng, không phải chỉ thuộc
phạm vi ngạ quỷ, mà bắt đầu từ Diêm Ma, tất cả các quỷ thần và dạ xoa đều
bao hàm trong đó, cho nên, cái cảnh giới ấy thường khi cũng có ở trên nhân
gian phổ thông. (Tam pháp độ luận, do Tăng già Đề Bà dịch, nói: "Ngạ quỷ
có Vô tài, Thiểu tài và Đa tài ... trong đó quỷ Vô tài có miệng lửa, miệng
kim và miệng hôi, ba loại: Thiểu tài quỷ có ba loại lông kim, lông hôi và
lông bệnh; Đa tài quỷ cũng có ba loại là Khí, Thất và Đại Thế. Khí là nhận
của người, Thất là lấy những vật thất lạc của người làm của chính mình,
Đại Thế là Dạ xoa, La sát, Tỳ xá v.v..." (Đại Chính, 25, trang 28, thượng,
trung). Ngạ quỷ sự của Tiểu Bộ chính là nói về loại quỷ này.
Bàng sinh,
xưa dịch là súc sinh, bao hàm tất cả chim, muông, cá, sâu, rồng, rắn
v.v... A Tu La, từ thời đại Vệ Đà, đã được thừa nhận là đối kháng với
Thiên Bộ, nhưng, trong Phật giáo, đại thể vẫn thừa kế tư tưởng Bà La Môn
giáo thì cho là ở dưới đáy biển, chủ yếu là đối kháng với Thiên Đế Thích.
Trong Trường A Hàm, quyển 20, có phẩm đặc biệt nói về A Tu La (Asura). Do
đó, trong sự phân loại về hữu tình, nhiếp cả A Tu La làm một loại riêng,
điều này tưởng không có gì lạ cả. A Tu La cũng có nhiều loại khác nhau.
Sau hết là
nhân gian và chư Thiên. Trong đó, nhân gian tuy có bốn châu khác nhau,
nhưng ở đây hãy tạm gác lại một bên. Còn chư Thiên, theo Phật giáo, là
cảnh giới từ Tứ Đại Thiên Vương và Đao Lợi Thiên trở lên, gồm có Lục Dục
Thiên, Sắc Giới Thiên, và Vô Sắc Giới Thiên khác nhau. Các cõi này, so với
nhân gian, đều thù thắng hơn nên gọi là chư Thiên.
2. HỮU
TÌNH TRONG TAM GIỚI
Phật giáo
tuy chia hữu tình thành ngũ thú hay lục thú, nhưng, đứng trên lập trường
thế giới quan mà nhận xét, thì cách phân loại hoàn chỉnh nhất là Tam giới,
tức Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Dục giới là cõi mà dục tâm, đặc
biệt là tâm ái dục, thịnh nhất; Sắc giới là nơi tuy lòng dục không mạnh,
nhưng vẫn chưa hoàn toàn thoát ly sự ràng buộc của vật chất; còn Vô Sắc
giới là cõi đã toàn nhiên thoát ly vật chất, chỉ còn tinh thần tồn tại mà
thôi. Như trên kia đã nói, sự phân loại này nguyên là lấy cái triến trình
tu dưỡng của người ta làm tiêu chuẩn, nhưng tùy theo sự phát đạt của thế
giới quan, tựa hồ sự phân loại đó cũng có thể được ứng dụng cho thế giới
sự thực. Song, nếu lại đem chia tam giới hữu tình này nhỏ ra nữa, thì có
bao nhiêu loại? Về điểm này, đến A Tỳ Đạt Ma chỉnh lý thì đại khái lấy 41
loại làm thông lệ. Đồ biểu như sau:
| Địa ngục
..... 8 (Bát địa ngục)
| Quỷ
..... 1
| Bàng sinh
... 1
| Nhân gian
... 4 (bốn châu khác nhau)
|
| 1. Tứ Đại Thiên Vương (Tứ Đại Vương Chúng
Thiên)
Dục giới →
| 2. Đao Lợi Thiên (Tam Thập Tam Thiên)
| Dục Thiên
...6: 3. Dạ Ma Thiên
| 4. Đô Sử Đa Thiên
| 5. Lạc Biến Hóa Thiên
| 6. Tha Hóa Tự Tại Thiên
| 1. Phạm Chúng Thiên
|