TIỂU THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả:
Kimura Taiken
Hán Dịch:
Thích Diễn Bồi
Việt Dịch:
Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn
Hạnh Việt Nam 1969
Chùa Khánh Anh, France
---o0o---
THIÊN THỨ SÁU
TU ĐẠO LUẬN
CHƯƠNG I
ĐỘNG CƠ TU ĐẠO VỚI TU ĐẠO PHÁPNHẤT BAN
1- ĐỘNG CƠ TU HÀNH VỚI KHỔ
QUAN.
Trở lên là tiếp theo tâm lý
luận để trình bày một cách đại yếu về luận lý quan của A-tỳ-đạt-ma. Song,
những điểm được trình bày trong chương cuối cùng thứ tư, cứ theo
A-tỳ-đạt-ma, thì luân lý chủ yếu là thuộc phạm vi luân hồi, tuy có phân
biệt thiện nghiệp sinh thiện thú, ác nghiệp sinh ác thú, nhưng tất cả chỉ
là biến dị hữu lậu. Cho dù thiện nghiệp được luôn luôn kế tục nhưng phần
kết quả thu lượm được vẫn dao động chứ không thể là cứu kính an định. Vả
lại, hữu tình thường lấy ngã dục làm trung tâm, cho nên, có khi vì không
biết, có khi vì tham dục, sân huệ mà ác nghiệp; và trường hợp đó xảy ra
rất thường, bởi vậy mà kết quả thụ hưởng ra sao cũng có thể thấy rõ rồi.
Như vậy, nhận thấy tầm mắt thấy xa thì tất cả mọi sự trong thế gian này
đều không an định, nói một cách tóm tắt, tất cả đều là khổ. Cái chứng cứ
lớn nhất của Khổ quan là: vì cũng là một hiện tượng thiên nhiên nên, con
người, mật mặt tuy phải phục tòng định luật tất nhiên của vận mệnh, nhưng,
mặt khác, vì cũng là một sự tồn tại tinh thần nên lại có yêu cầu tự do vô
hạn. Đó là sự mâu thuẩn bất tương dung và vì phải sống trong thế giằng co
ấy mà con người cảm thấy đau khổ: điều này tôi đã thường trình bày qua.
Đức Phật cho tất cả đều là khổ, cái lý do chính cũng ở đó. Song, cái cảm
thống khổ đau ấy cũng lại là động cơ thúc đẩy con người tìm đến sự giải
thoát trong tôn giáo. Đức Phật chủ trương đời là bể khổ chính là vì cái
thực tướng này của thế gian. Do đó, chủ trương này, về sau đã trở thành
một đặc trưng về nhân sinh quan Phật giáo thông cả Tiểu thừa và Đại thừa.
Nhưng làm thế nào để giải thoát khỏi khổ? Cũng như các vấn đề khác trong
Phật giáo, vấn đề này một khi được đặt ra thì cũng lại có nhiều nghị luận
bất đồng. đạo Đại thừa Bồ tát chẳng hạn, xác lập lý tưởng vĩnh viễn, lấy
tất cả hoạt động tự phát mà định giá trị của lý tưởng đó, do vậy khổ cũng
được coi như thứ hồi hướng tới đại lý tưởng ấy. Trong Tiểu thừa Phật giáo
con đường giải thoát khổ có tính cách tiêu cực, trên thực tế, làm cách nào
để có thể đạt đến thế giới hết khổ đau? Đây chính là vấn đề chủ yếu. Như
ai nấy đều biết, A-tỳ-đạt-ma y theo giải thích bình diện, ở nhiều trường
hợp, nói rõ nguyên nhân của thế giới khổ đau chính là đã phê phán giá trị
của thế giới vậy. Đời là khổ, và chính đó là động cơ tu đạo. A-tỳ-đạt-ma
đã thuyết minh khổ như thế nào? Trong các kinh có nhiều cách thuyết minh
về khổ, và để thích ứng, A-tỳ-đạt-ma đối với khổ, cũng có nhiều thuyết
minh. Nhưng nếu nói một cách tóm tắt thì cái phương pháp xử lý phổ thông
là đem định nghĩa khổ chia ra làm nhiều loại. Chiếu theo Khế kinh thì định
bình của khổ có tám, đó là sống khổ, già khổ, chết khổ, cầu thương khổ, lo
buồn khổ, oán ghét mà gặp gỡ là khổ, yêu thương mà chia lìa là khổ, tất cả
sự cầu mong không thỏa mãn là khổ (Vism, p. 498). Lại nói một cách đơn
giản là: tất cả vô thường là khổ, tất cả khổ là vô ngã, “biết các hành vô
thường, đều là pháp biến dị, bởi thế nói thụ tất cả khổ, đó là điều người
chính giác đã biết rõ” (Tạp-a-hàm quyển 17, Đại chính, 2, trang 121, cột
trên). Vì vô thường nên khổ, khổ vì vô ngã. A-tỳ-đạt-ma tuy thuyết minh
nhiều về những nỗi khổ đó, nhưng dần dần đã đem thống nhất và, cuối cùng,
còn muốn tập hợp lại nữa. Về định nghĩa của khổ, Phật Âm nói:
Khổ tướng là sự buồn bực liên
miên và là hình của sự buồn bực liên miên đó (Vism, p. 640).
Lại có bốn trạng thái: 1-
Trạng thái buồn bực, 2- Trạng thái vô thường (hành), 3- Trạng thái thiêu
đốt, 4- Trạng thái biến hoại (ibid p. 494). Trạng thái một và trạng thái
ba là bản thân của khổ đau, còn trạng thái hai và trạng thái bốn, đại khái
trong nhất thời không là khổ đau nhưng cuối cùng lại quy về khổ. Về pía
Bắc truyền thông lệ chia khổ thành ba loại (1), tức là khổ lhổ, hành khổ
và hoại khổ (Câu xá, quyển 22). Khổ khổ là tự thân của khổ; hành khổ là sự
vô thường, bất an nên khổ; hoại khổ là vì những khoái lạc hiện tại cuối
cùng cũng có lúc tiêu tan nên khổ (có thể so sánh với ba khổ của Số luận
là y nội khổ, y ngoại khổ, y hành khổ - Sáu Phái Triết Học Ấn Độ trang 7).
Tựu trung, hai loại sau này là đặc trưng của nhân sinh Phật giáo, tức cuộc
sống của con người, dù là hữu lậu, về mặt cảm giác, cho dù không thấy khổ,
nhưng vì vô thường biến hoại, thiếu mất tính bất biến thường hằng, cho
nên, về điểm này, có thể nói tất cả ở thế gian đều là khổ.
Từ nhân sinh quan đó, vấn đề
tất nhiên phải được đặt ra là: làm thế nào để có thể đạt đến cảnh giới
triệt để giải thoát và rốt ráo yên ổn? Đây là đề mục tối cao của Phật
giáo. Tập hợp và hiển bày một cách đơn giản khóa để này là Bốn Đế: khổ,
tập, diệt, đạo. Cội nguồn thống khổ của kiếp người lấy bất tuyệt dục làm
cơ sở, vì y vào phiền não, bởi thế, muốn hết khổ phải diệt phiền não thì
phải tu đạo: đó là căn cứ của Tu đạo luận.
2- NHỮNG ĐỨC MỤC TU ĐẠO.
Nhưng cái đạo diệt phiền não
ấy là gì? Nói theo Tứ đế luận thì phổ thông là Bát chính đạo, tuy đưa ra
tám đức mục, nhưng dần tiến đến A-tỳ-đạt-ma thì một mặt nói Bát chính đạo,
mặt khác, trên Bát chính đạo, như Tứ niệm xứ, Bát chính đoạn, Tứ thần túc,
Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, lại đưa ra cái gọi là bảy khoa ba mươi
bảy đạo phẩm làm thông lệ. Ngoài Bát chính, sáu khoa kia, về ý nghĩa, đứng
ngang hang với Bát chính, nếu nói một cách thực tế, thì bảy khoa là những
đức mục chỉ khác nhau về lập trường chứ không phải bất đồng về tính chất.
Kỳ thực, những đức mục tu đạo trong Khế kinh không hạn định trong bảy
khoa, mà ngoài ra còn có mười niệm, mười tưởng, bốn thiền, bốn vô lượng,
bốn vô sắc v.v… do đó không thể đưa ra con số nhất định được. Do những đức
mục đó không phải bất đồng trên tính chất, nên yêu cầu giải thoát không
nhất định phải tu theo tất cả pháp môn. Cứ theo Phật giáo nguyên thủy thì
tuy chuyên tu một pháp môn nào đó, nhưng vì thời cơ và tình thế có khác,
nên, theo ý nghĩa “tùy bệnh cho thuốc”, đức Phật đã chỉ bày nhiều phương
thức. Như đã trình bày ở trên, đặt chất của bộ phái Phật giáo là, thay vì
lấy thế gian pháp làm chủ, lại đặt ra trong tâm cái gọi là xuất thế gian
pháp (giải thoát pháp) và, để thích ứng đức mục tu đạo là đối tượng là các
A-tỳ-đạt-ma luận sư đã tận lực luận cứu, chỉnh lý và phân loại. Nhất là
A-tỳ-đạt-ma ở thời kỳ, như tôi đã trình bày trước, chuyên lấy việc giải
thích các đức mục tu hành làm đề mục chủ yếu. Thế rồi, đến A-tỳ-đạt-ma
tiến bộ, ngoài Tu đạo luận ra, đối với việc thuyết minh thế giới sự thực,
tuy có tăng gia nhiều, nhưng cái phương pháp của Tu đạo luận dần dần đã
trở nên tinh tế, và nhiếp thủ toàn bộ các đức mục phối hợp chúng với quá
trình tiến triển trong việc tu đạo, để muốn chỉnh lý chúng theo thuận tự:
đó là một đặc trưng lớn của thời kỳ tiến bộ này. Bởi thế, trong các kinh,
luận cổ, những đức mục được coi là trọng yếu cũng chỉ được thuyết minh một
cách giản dị, đơn thuần; trái lại, trong các kinh, luận mới,tuy được chỉnh
lý nhiều, nhưng thuyết minh về tu đạo, so với thời đại Phật giáo nguyên
thủy, phức tạp hơn nhiều, và, nói theo một ý nghĩa nào đó, đã xa rời thực
tế: đây là một sự thật hiển nhiên. Để thích ứng với tín ngưỡng, ở thời
đại Phật giáo nguyên thủy, quả A-la-hán không phải khó khăn để đạt được,
nhưng một khi đã được A-tỳ-đạt-ma chỉnh lý thì nó biến thành quả vị tối
cao, người thường khó mà đạt được. Do sự tiến bộ về học vấn mà Tiểu thừa
Phật giáo thật đã mất hẳn cái hương vị tôn giáo. Nếu nhận xét điều này về
phương diện thần học, thì các phiền não, đạo diệt phiền não, và những cảnh
giới nhờ đó mà đạt được, tất cả Tiểu thừa đều muốn chỉnh lý cho có trật tự
hẳn hoi: đây là điểm rất lý thú mà ta không thể bỏ qua.
3- TƯ CÁCH TU ĐẠO.
Về Tu đạo luận vẫn còn đề mục
nữa không thể không bàn đến, đó là người ta phải có tư cách như thế nào để
thích ứng với việc tu đạo? Về luân lý đạo đức được trình bày trong thiên
trước thì người ta, bất luận ai cũng đều nên theo, nhưng về tu đạo, nếu
nói theo nghĩa hẹp, thì so với luân lý, phạm vi của nó còn hẹp hơn, và
tính chất của nó không thích dụng. Điều này, chiếu theo các giáo phái
Bà-la-môn thì người tua đạo thích hợp đại khái chỉ hạn cục trong ba giai
cấp trên mà thôi (tham chiếu kinh Phệ Đàn Đa, mục nói về tư cách; trong
phái Số luận, tuy lấy ba giai cấp trên làm chủ, nhưng cũng có khi chấp
nhận cả giai cấp thứ tư). Nhưng Phật giáo chủ trương bốn giai cấp đều
thanh tịnh, vì đặc chất ấy cho nên đến Phật giáo Bộ phái, đối với bốn giai
cấp, tự nhiên đã không đặt ra mật hạn chế nào cả. Về nam nữ tính thì Phật
giáo nguyên thủy đã thừa nhận có sự tu đạo thích hợp cho cả nam nữ, và
cũng có khả năng tính đạt được giải thoát, mà trên thực tế, nữ tính đắc
quả cũng không phải ít. Bởi thế, đến Phật giáo Bộ phái đối với vấn đề này
cũng không có dấu hiệu đã đặt ra hạn chế hay sự khu biệt đặt biệt nào. Duy
có vấn đề là sự khu biệt giữa tại gia và xuất gia; tức muốn tu đạo phải
xuất gia hay ở tại gia cũng có thể? Vấn đề này, chiếu theo Phật giáo
nguyên thủy, đức Phật bảo là tuy ở tại gia nhưng nếu tâm nay thẳng, dốc
lòng tu đạo thì tại gia cũng có thể tới giải thoát, nhất là Ưu bà tắc, Ưu
bà di, trong bốn quả, đức Phật nhận là có thể đạt được quả thứ ba, điều
này tôi đã trình bày qua rồi (Nguyên Thủy Phật Giáo Tư tưởng Luận). Song,
sự tu dưỡng triệt để, muốn được giải thoát thật sự ngay trong hiện tại,
thì công năng xuất gia lớn hơn công năng tại gia, đây cũng là một sự thật
rõ rệt (như trong Trung a hàm quyển 31, Lại-tra-hòa-la-kinh, và Trung a
hàm quyển 8, sa-kê-đế-tam-tộc-tính kinh v.v…). Nhưng thuyết này, đến Phật
giáo Bộ phái thừa kế như thế nào? Nói một cách đại thể thì đến Phật giáo
Bộ phái, thuyết này tuy cũng giống nhau, nhưng về phương diện tinh thần
thì có điểm rất bất đồng. Phật giáo nguyên thủy tuy tưởng lệ xuất gia,
nhưng cũng rất chú trọng đến sinh hoạt luân lý tại gia, đến Phật giáo Bộ
phái thì, cứ theo A-tỳ-đạt-ma lại coi thường phương diện luân lý tại gia
mà chuyên đề cao pháp tu dưỡng xuất gia và kết quả, đó là sự thật không
thể chối cãi (Thành-thật-luận 17, Ác giác phẩm 182, bảo hành giả ngoài
việc không được khởi dục niệm, tâm sân khuể và tâm não hại, còn đưa ra
thân lý giác (tâm lo cho nước), quốc độ giác (tâm muốn đi du lịch các
nơi), bất tử giác, lợi tha tâm và khinh tha tâm v.v… Tựu trung, bất tử
giác, là trước hết đọc tụng năm tạng là tam tạng, tạp tạng và Bồ tát tạng
rồi mớinghiên cứu ngoại điển, nuôi dưỡng đệ tử và giáo hóa chúng nhân, tu
đạo dần dần như thế. Đây là sự ngộ nhận về trước, sau). Nền thần học của
A-tỳ-đạt-ma thật vô cùng phiền tỏa, nhận xuất gia là do nhà chuyên môn mà
phát đạt. Tóm lại, theo ý nghĩa ấy, người chính đầy đủ tư cách tu dưỡng là
người xuất gia, tại gia nhờ tôn kính cúng dàng xuất gia mà được tham dự
phần phúc đức, đó là tư cách phổ thông, còn người tại gia nào dốc lòng tu
dưỡng theo đạo xuất gia thì điều đó không ai cấm. Do đó, song song với sự
hưng thịnh của Phật giáo Tiểu thừa, sự xuất gia cũng phát đạt rất nhiều,
đến đây người ta không lấy làm lạ tại sao có nhiều người xuất gia. Ở thời
đại đức Phật, vì Phật giáo hưng thịnh nên có đủ loại động cơ xuất gia, bởi
thế đức Phật đã phải phân biệt thành nhiều thứ. Như trong Trường-a-hàm
quyển 3, Du hành kinh, trong phần Phật dạy Chân Na, có nói đến bốn loại
xuất gia: 1- Hành đạo thù thắng, 2- Thiện quyết đạo nghĩa, 3- Y đạo sinh
hoạt, 4- Vị đạo tác uế (Đại chính, 1, trang 18, trung) (1). Tựu trung,
hành đạo thù thắng nghĩa là đạo hạnh hơn người; thiện quyết đạo nghĩa, là
đối với giáo nghĩa của Phật giáo có tài tuyên thuyết khéo léo, y đạo sinh
hoạt là đạo hạnh tuy không thù thắng, thuyết pháp tuy không khéo léo,
nhưng dù sao vẫn giữ được nếp sống người xuất gia; còn vị đạo tác uế là
những Tỷ khưu phá giới. (2) Lại Thập tụng luật quyển 1 (Đại chính, 23,
trang 2, thượng), cũng đưa ra bốn loại Tỷ khưu: 1- Danh tự Tỷ khưu, 2- Tự
ngôn Tỷ khưu, 3- Vị khất Tỷ khưu, 4- Phá phiền não Tỷ khưu (Câu xá, quyển
15 trích dụng). Tựu trung, Danh tự Tỷ khưu nghĩa là tuy xưng danh là Tỷ
khưu nhưng thật ra là thế tục; Tự ngộn Tỷ khưu nghĩa là người tự xưng là
Tỷ khưu; Vị khất Tỷ khưu, chiếu theo nghĩa đen là người ăn xin, tức những
người hành khất; Phá phiền não Tỷ khưu là những người Tỷ khưu chân chính.
Tỷ khưu của Phật giáo phải là hạng thứ tư này: chính sự phân loại trên đã
bao hàm ý nghĩa ấy. Ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, về mặt đạo hạnh, đã
cần phải có sự khu biệt như thế rồi, bởi thế, đến thời đại Phật giáo Bộ
phái vốn chủ nghĩa hóa và hình thức hóa đạo xuất gia, thì dĩ nhiên,trên
thự tế đã chia ra nhiều loại Tỷ khưu. Do đó, A-tỳ-đạt-ma luận thư lấy đó
làm một trong nhiều vấn đề cũng là lẽ tự nhiên vậy. Như các nhân phẩm được
nói đến trong các A-tỳ-đạt-ma luận thư (chẳng hạn, Nhân phẩm trong
Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 7), tuy chưa hẳn chỉ là những người xuất
gia, nhưng dù sao cũng lấy trình độ tu hành của những người xuất gia làm
trung tâm mà phân loại căn cơ hay tính chất của họ để hiển bày tiến trình
đưa đến địa vị cao tột.
(1) Ngoài ra, trong kinh Phật
Ban Nê Hoàn còn nói có bốn loại Tỷ khưu: 1- Nghèo cùng không tự nuôi thân
được, 2- Mắc nợ mà không trả nổi, 3- Vô dụng đối với xã hội, 4- Cao sĩ
sống thanh khiết, khi nghe Phật pháp thì bổng nhiên tâm ngộ xuất gia (Đại
chính, 1, trang 172, trung).
(2) Bà sa, quyển 66, giải
thích rằng: Thắng đạo là Phật và Độc giác; Thị đạo là Xá Lợi Phất; Mệnh
đạo là A Nan; Ô đạo tuy chỉ cho Mạt Hát Lạt Ca có vết như ăn trộm, nhưng
cũng còn chỉ cho những Tỷ khưu đặc thù hóa khác (Câu xá, quyển 15).
Như vậy, đến thời đại Phật
giáo Bộ phái, ít ra là trên hình thức, đã trở thành chủ nghĩa xuất gia, mà
những người xuất gia đó, bất luận trên sự thực hay trên lý luận đều phân
loại thành nhiều căn cơ, và đối với cái phương thức tu dưỡng, một mặt thừa
nhận, không nhiều thì ít, có sự bất đồng, mặt khác lại muốn nhất ban hóa,
thống chế hóa những đức mục tu dưỡng, cho nên Tu đạo luận đã nghiễm nhiên
trở thành cực phức tạp và chi ly. Tuy nhiên, nếu phân loại một cách đơn
giản thì những đức mục đó rốt cục không ngoài tam học giới, định, tuệ, bởi
thế, nói một cách giản dị thì sự tu dưỡng của Tỷ khưu không ngoài ý nghĩa
tu tam học: đây là phương châm căn bản và nhất quán từ Phật giáo nguyên
thủy và Phật giáo bộ phái. Do đó, trong thiên thứ sáu này, tuy đã lấy
những đức mục đã được biểu thị ở trên làm bối cảnh, nhưng ở đây chỉ lấy đề
mục tam học để nói rõ phương pháp tu dưỡng một cách đại thể, rồi từ đây,
tiến lên bước nữa tôi tưởng lại phải bàn qua về quá trình đắc quả.
---o0o---
Mục Lục
Thiên thứ nhất | Ch
1 | Ch
2
| Ch
3
| Ch
4
| Ch
5
| Ch
6
Thiên thứ hai | Ch
1
| Ch
2
| Ch
3
| Ch
4
| Ch
5
| Ch
6
| Ch
7
Thiên thứ ba | Ch
1
|
Ch 2|
Ch 3
|| Thiên thứ tư |
Ch 1
|
Ch 2
|
Ch 3
Thiên thứ năm | Ch
1
|
Ch 2|
Ch 3
|
Ch 4
|
Ch 5
|
Ch 6
|
Ch 7
|
Ch 8
Thiên thứ sáu |
Ch 1
|
Ch 2
|
Ch 3
---o0o---
Source:
http://www.thuvienhoasen.org
Vi tính: Cao Thân
Trình bày:
Linh Thoại
Cập nhật: 12-2003