Quyển
thứ sáu
-ooOoo-
Im
lặng nghĩa là đã nhận lời.
Phật bảo Bà-la-môn: -
Ông chẳng nên bị lệ thuộc gia nghiệp.
Nói xong quán sát khả
năng tiếp thu của ông ta, đức Phật thuyết pháp làm cho Bà-la-môn
hiểu biết về đời này và đời sau và tạo các công đức
bằng cách thọ trì, tinh cần tu tập giáo pháp. Sau khi mưa
trận mưa pháp, đức Phật rời chỗ ngồi, trở về chỗ
ở.
Bấy giờ, tập họp
con cháu lại, Bà-la-môn nói: - Than ơi! Này các người thân,
trước đây ta có thỉnh Phật an cư ba tháng nhưng chẳng cúng
dường được một ngày. Ngày mai ta sẽ dùng số vật phẩm
trong ba tháng ấy đem cúng dường hết trong một ngày.
Nói xong, ông ta chuẩn
bị thức ăn uống, sửa soạn suốt ngày và đêm ấy. Vào sáng
sớm, sau khi quét dọn trong ngoài sạch sẽ, xông đốt hương
thơm, chưng hoa, trang hoàng anh lạc, cờ lọng, bố trí chỗ
ngồi tráng lệ với các vật cúng dường sang trọng xong, ông
ta đến bạch Phật: - Thưa Thế Tôn! Thức ăn đã dọn xong,
đã đến giờ.
Ðức Phật cùng các
Tỳ kheo lên đường. Thế nên trong luật nói: Ði đến nhà
Bà-la-môn, đức Phật cùng các Tỳ kheo an tọa. Khi ấy, Bà-la-môn
cúng dường lên Phật và Tỳ kheo tăng mà đức Phật là thượng
tọa trong tăng chúng.
Cực mỹ ( panìta) là mùi
vị rất ngon.
Dùng tay (Sahattha) là
tự tay dâng lên làm cho (Phật và Tăng) no đủ.
No đủ nghĩa là ăn đã
đầy đủ cũng gọi là thỏa mãn vừa ý.
Từ chối nghĩa là ngăn
lại. Ngăn có ba cách: bằng tay, mắt và miệng.
Ăn sắp xong... nghĩa này
dễ hiểu.
Bà-la-môn đem ba y dâng
lên Phật. Ba ca-sa này trị giá ba ngàn tiền vàng. Ông ta
lại cúng 500 Tỳ kheo mỗi vị hai xấp vải bạch diệp với
tổng giá trị là 50 vạn tiền vàng. Tuy cúng dường như
vậy xong, nhưng vẫn chưa vừa ý, Bà-la-môn lại cúng thêm
một tấm nỉ dày (Kambala) và một xấp lụa
(pattunnapattapata). Ðức Phật và chúng Tỳ kheo cắt tấm nỉ
ra làm dây giới (dây buộc ngang hông, ngoài y - Hán:
Thiền-đới) và túi đựng bát, chia tấm lụa ra làm dây
lưng (kàyabandhana-parissàvana) và túi lược nước. Ông lại
đem một bình đầy dầu thuốc được nấu cất trăm lần có
giá trị 1000 tiền vàng để cúng dường tăng chúng thoa thân.
Pháp sư nói: - Cúng dường
cho sa-môn, đúng pháp có bốn loại, không giống với người
thế gian, như trên đã có đầy đủ. Tôi trình bày như
vậy vì trong luật có nói cúng dường ba y không bằng bốn
sự.
Sau khi cúng dường như
vậy, Bà-la-môn cùng thân thuộc đều đem đầu mặt làm
lễ đức Phật và Tỳ kheo tăng rồi ngồi qua một bên. Khi
ấy, Thế Tôn suy nghĩ: Bà-la-môn này và quyến thuộc ông ta
thỉnh nhập hạ nhưng suốt trong ba tháng vì bị ma quấy
nhiễu nên chưa nghe được giáo pháp. Ta đem giáo pháp mà ông
ta chưa được nghe trong ba tháng, giảng giải pháp vị cam
lộ trong một ngày để họ được hưởng thụ đầy đủ.
Sau khi thuyết pháp cho
Bà-la-môn xong, đức Phật ra khỏi nhà và định đi đến nước
khác. Bấy giờ, Bà-la-môn và quyến thuộc đều lạy sát đất
làm lễ Phật cùng khóc lóc thưa: - Cầu xin Thế Tôn thương
xót chúng con mà trở lại lần nữa, cho chúng con được
gặp lại để không còn hối tiếc.
Sau khi trú lại
Tỳ-lan-nhã ba ngày, Thế Tôn nhập vào cảnh giới của
Phật, quán sát thấy các Tỳ kheo vì trong 90 ngày ăn lúa
ngựa nên thân thể gầy ốm không thể đi bộ xa được. Do
đó, Ngài cùng họ đi thẳng đến nước Tu-ly (Soreyya) rồi
đi đến xứ Ba-dạ-già (Pàyagapatitthàna), đến nơi rồi, vượt
qua sông Hằng (Gangànadi), qua sông lại đi đến nước
Ba-la-na-tư (Bàrànasi) rồi đi sang thành Tỳ-xá-ly. Và Thế Tôn
trú ở tinh xá Ma-ha Cú-thát-la (Mahavàna Kùtàgàrasalà).
Pháp sư nói: - Luật
Tỳ-bà-sa (chú giải luật) tên là Thiện-cụ-túc, phần nói
về nhân duyên ở Tỳ-lan-nhã đến đây là hết. (samantapàsàdikàya
vinayasamvannanàya verạnjakandavannanà nitthità).
Phẩm Ca-lan-đà
(Kalandaka-vagga)
Bộ chú giải (Tỳ-bà-sa)
này phân biệt rõ giới tướng với đầy đủ nghĩa và
vị, không xen tạp giáo pháp khác. Trong luật, thuyết minh
về nhân duyên căn bản rất khó hiểu rõ. Bộ chú giải này
phân biệt giải thích thông suốt ý nghĩa trong tạng luật nên
gọi là đầy đủ.
Ðấng Trung-Tôn trong
đời,
Vì thương tưởng chúng sinh,
Giảng thuyết tạng Tỳ-ny,
Ðể điều phục chúng sinh,
Và đem các thiện hạnh,
Diệt trừ những pháp ác.
Khi ấy, tại thành
Tỳ-xá-ly. Theo thứ tự như vậy cũng dễ hiểu, nếu có đoạn
nào sâu xa khó hiểu, tôi sẽ giải thích.
Ca-lan-đà (Kalandakà) là
tên (vùng nuôi dưỡng) loài sóc (chuột núi). Một hôm, vua nước
Tỳ-xá-ly (vesàlì) đưa các cô gái đẹp vào rừng du
ngoạn. Bấy giờ, vì mệt mỏi vua nằm ngủ dưới một
gốc cây và các cô gái hầu cận bỏ đi chơi khắp nơi.
Có con rắn độc lớn
ở trong hang dưới gốc cây. Nghe mùi rượu của vua, rắn bò
ra định cắn vua. Con sóc trên cây chạy xuống gọi to để
cho vua biết. Do đó, rắn lùi lại. Vừa thức giấc, vua
liền ngủ lại và rắn lại bò ra định cắn vua. Sóc lại
kêu to chạy xuống báo thức cho vua. Thức dậy, vua thấy
rắn độc lớn trong hang dưới gốc cây nên rất kinh sợ,
nhìn khắp nơi tìm các cô gái nhưng không có một ai cả.
Vua suy nghĩ rằng ta còn sống được là nhờ ân con sóc
vậy phải làm sao báo ân ấy.
Khi ấy, bên núi có thôn
xóm. Vua ra lệnh: Từ đây trở đi trong thôn đem phần ban thưởng
của Ta dùng để nuôi dưỡng các con sóc.
Lại nhân loài sóc này
nên vua đặt tên thôn là Ca-lan-đà (nơi nuôi dưỡng các con
sóc).
Ông Ca-lan-đà nghĩa là
lúc ấy một trưởng giả trong thôn có 40 ức tiền vàng,
được vua ban địa vị trưởng giả. Nhân lấy theo tên thôn
nên gọi là trưởng giả Ca-lan-đà.
Pháp sư hỏi: - Chỉ riêng
trưởng giả đây có tên này hay là người khác cũng có.
Ðáp: - Ðều gọi là
Ca-lan-đà như được nói trong luật.
Tu-Ðề-Na (Sudinna) là
con trưởng giả có nhiều bạn thân.
Bạn thân (tri thức) là
bạn mà khổ vui cùng hưởng.
Khi ấy, vì cần tìm người
thiếu nợ, Tu-Ðề-Na đi đến Tỳ-xá-ly.
Lại có vị pháp sư nói:
Ngày 9 tháng 9, nhân dân trong nước cùng nhau tập trung đi chơi,
do đó Tu-Ðề-Na cũng đi du ngoạn.
Khi ấy, vào trước ngày
15 tháng 9, Thế Tôn đến Tỳ-xá-ly.
Hỏi: - Trông thấy nghĩa
là gì?
Ðáp: - Sáng sớm, sau
khi điểm tâm Tu-Ðề-Na thấy mọi người mặc áo bày vai
phải mang các loại hương hoa đi ra khỏi thành, đến gặp
đức Phật để cúng dường và nghe pháp.
Thấy vậy, Tu-Ðề-Na
hỏi: - Các vị thiện nhân ơi! Ði đâu vậy?
Ðáp: - Chúng tôi đang
đi đến gặp Phật để cúng dường và nghe pháp.
Tu-Ðề-Na nói: - Lành
thay! Tôi cũng đi theo.
Khi ấy, Thế Tôn đang
dùng phạm âm thuyết pháp cho bốn chúng vây quanh. Ðến nơi,
Tu-Ðề-Na thấy Phật đang thuyết pháp cho đại chúng. Do đó,
luật văn nói là thấy.
Pháp sư nói: - Nhờ phước
đời trước làm nhân cho nên lúc này Tu-Ðề-Na phát sinh giác
ngộ.
Tu-Ðề-Na suy nghĩ:
Bằng cách gì để ta được vào nghe pháp.
Vì sao? Vì bốn chúng
đang chí tâm nghe pháp không thể di chuyển nên không thể
chen vào được.
Khi ấy, Tu-Ðề-Na từ
từ tiến sát vào bên cạnh đại chúng.
Hỏi: - Vì sao không vào
giữa chúng?
Ðáp: - Vì đến sau nên
phải ngồi kề bên ngoài mọi người.
Trong luật nói: Tu-Ðề-Na
đến chỗ đại chúng, ngồi xuống một chỗ, sau đó suy nghĩ
...
Hỏi: - Ngồi xuống là
suy nghĩ (ngay) hay là nghe pháp rồi suy nghĩ?
Ðáp: - Nghe được đức
Phật tán thán giới, định, tuệ nên suy nghĩ.
Hỏi: - Nghĩ gì?
Ðáp: - Vị này có suy
nghĩ: Với những lời của đức Phật phân biệt giảng
thuyết, ta đã hiểu rõ và nghĩ rằng nghĩa lý trong giới,
định, tuệ đều thuần nhất một vị. Và vị này lại nghĩ
rằng ta sống tại gia mà tu tập giới, định, tuệ qua được
một ngày cũng khó làm được, vậy không nên sống tại gia
vì cũng như mài ngọc.
Hỏi: - Mài ngọc là gì?
Ðáp: - Như người mài
ngọc thật khó làm cho trong trắng được. ... sống tại gia
mà tu tập cũng khó như mài dũa ngọc, thật khó thành công,
lúc này ta làm sao cạo bỏ râu tóc, mặc y phục ca-sa, tu
tập phạm hạnh là được thoát khỏi nhà hữu vi vào nhà vô
vi.
Hỏi: - Nhà hữu vi, nhà
vô vi là gì?
Ðáp: - Nhà hữu vi là
cày ruộng, trồng trọt, mua bán... làm các sự nghiệp thế
gian. Nhà vô vi là không làm các sự nghiệp trên, tịch nhiên
vô dục. Ðây gọi là bỏ nhà hữu vi đi vào nhà vô vi.
Cùng mọi người rời
khỏi chỗ ngồi chưa bao lâu, Tu-Ðề-Na đi trở lại gặp
Phật.
Tại sao khi chúng chưa
đứng dậy, Tu-Ðề-Na đã gặp Phật mà không cầu xuất
gia?
Vì khi ấy (Tu-Ðề-Na)
nghĩ rằng (nếu ta) cầu xin xuất gia thì anh em thân thuộc
đang ngồi nghe pháp sẽ gây trở ngại bằng cách nói rằng
cha mẹ chỉ có một mình anh là con, nếu xuất gia rồi lấy
ai nuôi dưỡng và nói như vậy xong, họ sẽ đưa ta về nhà,
gây khó khăn cho sự xuất gia của ta.
Cùng mọi người ra
về, đi một đoạn ngắn, Tu-Ðề-Na tìm cách quay trở lại,
đến gặp Phật và cầu xin xuất gia. Thế nên, trong luật có
nó: Mọi người từ giã chưa bao lâu, Tu-Ðề-Na đến gặp
Phật và cầu xin Thế Tôn ...
Sau khi La-Hầu-La (Ràhulakumàra)
xuất gia, Phật không cho xuất gia những người mà cha mẹ
chưa cho phép. Do đó, Phật hỏi Tu-Ðề-Na: - Con có được
cha mẹ cho phép xuất gia không?
Pháp sư nói: - Câu này
dễ hiểu, hãy tự biết.
Việc đáng làm đã làm.
Tâm ý Tu-Ðề-Na muốn xuất gia nên không còn ưa thích
những nơi đi chơi, không quan tâm đến việc có lấy được
nợ hay không, chỉ vội vàng trở về. Sự việc này dễ
hiểu.
A-ma, đa-đa (Amma, Tàta
- Hán dịch là mẹ, cha) hãy tự biết.
Một con nghĩa là chỉ
có một đứa con, không có anh em.
Pháp sư nói: - Cha mẹ
nói như vậy vì thương mến.
Sống trong sung sướng
nghĩa là từ bé đến lớn chưa trải qua sự khổ nhọc.
Vừa sinh ra, đã được nhủ mẫu bồng bế cho đến lớn,
luôn luôn được cung cấp đầy đủ các món ăn ngon, đi đâu
cũng bằng xe ngựa nên chân không đụng đất.
Người cha bảo Tu-Ðề-Na:
- Ðến khổ nhỏ mà con còn không biết...
Không biết khổ nghĩa
là nếu chia một cái khổ ra làm mười phần, thì cũng chưa
biết và trải qua được một phần nào cả.
Câu: đến chết, ta cũng
không rời con được nghĩa là cha mẹ nói rằng nếu ta còn
sống mà con có chết, ta cũng không bỏ con, huống chi ta đang
còn sống thì làm sao chia lìa con được.
Câu: Tu-Ðề-Na nằm trên
đất là có ý nói nằm trên đất không có tấm lót.
Hỏi: Cúng dường nghĩa
là gì?
Ðáp: - Nam nữ với
những âm thanh ca nhạc, đàn sáo, không hầu, tỳ bà... vui
chơi cùng các bạn bè. bạn bè dùng những thú vui này để
khuyên dụ Tu-Ðề-Na bỏ ý định (xuất gia) để hưởng
thụ (ăn) năm dục.
Hỏi: - Ăn nghĩa là gì?
Ðáp: - Ăn nghĩa là thân
mình cùng phụ nữ hưởng thụ khoái lạc của năm dục.
Câu làm các công đức
là nói đến việc cúng dường Phật Pháp Tăng, làm các
việc bố thí, tu tập theo thiện đạo, làm các công đức.
Giữ thái độ im lặng
là được cha mẹ khuyến dụ bằng mọi cách đến ba lần
để bỏ ý định nhưng Tu-Ðề-Na vẫn không đổi ý.
Cha mẹ nói với bạn
của Tu-Ðề-Na (Sahàyaka): - Ðây là bạn thân của các con,
đang nằm dưới đất, ta đã ba lần khuyên mời dậy nhưng
vẫn nằm yên, vì ta, các con hãy làm cho anh ấy đừng xuất
gia.
Khi ấy, các bạn thân
đến gặp Tu-Ðề-Na, nói đến ba lần với lời lẽ: - Này
bạn thân ơi, cha mẹ chỉ có một mình bạn, nếu quyết chí
xuất gia thì khi hai bác tuổi già lấy ai giúp đỡ. Nếâu
bạn xuất gia thì ba má bạn sẽ buồn rầu gầy yếu đến
chết, nào có lợi gì! Là người sang trọng mà bạn xuất
gia thì sẽ bưng bát đất xin ăn mà thức ăn lại dỡ, không
vừa ý, khi được, khi không được, ngày ăn chỉ một
bữa, lại ngủ một mình. Nếu tu tập phạm hạnh thì pháp
này thật khó.
Bằng mọi cách khuyên
can nhưng thấy Tu-Ðề-Na vẫn không đổi ý định, các bạn
bàn với nhau: - Hiện tại nên cho anh ấy xuất gia.
Sau đó, các bạn đến
gặp và khuyên cha mẹ Tu-Ðề-Na và được ba má anh cho phép
anh ta xuất gia. Thế nên trong luật có nói: - Bạn bè của
Tu-Ðề-Na con ông Ca-lan-đà đến gặp cha mẹ anh ta. Sau đó,
họ đến gặp Tu-Ðề-Na và nói: - Hai bác đã cho bạn xuất
gia rồi.
Nghe nói, Tu-Ðề-Na
rất vui mừng hoan hỷ rời khỏi mặt đất. Do trải qua
bảy ngày không ăn nên thân thể Tu-Ðề-Na gầy ốm. Cha mẹ
tắm rửa cho bằng nước thơm, thoa dầu thơm, chải gội đầu
tóc, cho ăn uống các món thơm ngon và sau ba bốn ngày sức
khỏe anh ta lại bình phục.
Khi ấy, Tu-Ðề-Na rơi
lệ làm lễ từ giã cha mẹ và đi đến gặp Phật, thưa
rằng: - Cầu xin Thế Tôn độ cho con được xuất gia.
Hỏi: - Vị này được
Như Lai độ hay được tăng độ?
Ðáp: - Ðược Tỳ kheo
độ. Khi ấy, bên cạnh Thế Tôn có một Tỳ kheo khất
thực. Phật bảo vị này: - Thầy hãy độ Tu-Ðề-Na xuất
gia và cho thọ giới cụ túc.
Tỳ kheo đáp: - Lành
thay Thế Tôn!
Vị này độ Tu-Ðề-Na
làm sa-môn, dự vào hàng tôn quí và được Tỳ kheo truyền
giới cụ túc. Do đó trong luật có nói: Khi ấy, Tu-Ðề-Na
được xuất gia trong Phật pháp, thọ giới cụ túc và thọ
trì hạnh đầu đà. [Pháp
đầu-đà (dhùtaguna): Hán dịch là quét sạch cấu bẩn
phiền não].
Thọ nghĩa là thực hành.
A-lan-nhã nghĩa là tránh xa làng xóm, nhà cửa, sống ở nơi
thanh vắng (A-lan-nhã) sống bằng khất thực. Khất thực là
không nhận lợi dưỡng dư, từ bỏ 14 loại thức ăn. Nhận
y phẩn tảo (pamsukùlika) nghĩa là không nhận y của đàn
việt. Khất thực theo thứ lớp (Sapadànacàrika) nghĩa là
tuần tự đi (từng nhà). Thôn Bạt xà (Vajjigàmà) là thôn
ấp của vua Bạt-xà có vô lượng tài sản quí báu. Tài
sản là của cải xử dụng hàng ngày. Quí báu là vật cất
dấu không cho người thấy. Vô lượng là số lượng không
đếm hết. Thức ăn uống phong phú là hằng ngày đều có
thêm nhiều thức ăn uống. Sửa soạn phòng xá là bày biện
chỗ ngồi và trải các tấm lót phủ. Ðem 60 mâm bạc lớn.
Một mâm chứa 10 người ăn, cộng lại có chừng 600 vị tăng
ăn uống. Ăn là nhận lấy.
Hỏi: - Lấy nghĩa là gì?
Ðáp: - Lấy lại sức
lực cho bốn đại.
Ðem cho nghĩa là dâng
cho chúng tăng, tâm không còn luyến tiếc.
Tự đi vào khất
thực, nô tỳ trong nhà đem thức ăn thừa cách đêm, không dùng
nữa ra ngoài vứt bỏ. Thức ăn để qua một hai đêm thì
chua và hôi hám.
Hỏi: - Ðó là gạo
nếp hay gạo tẻ?
Ðáp: - Cơm gạo tẻ.
Gọi là chị (đại
tỷ) vì người xuất gia không được gọi họ là nô tỳ nên
gọi là chị.
Câu: Hãy đổ vào bát
tôi.
Hỏi: - Người xuất gia được nói như vậy không?
Ðáp: - Ðược, bởi vì
đối với vật mà người chủ xem thường muốn vứt bỏ thì
người xuất gia có thể nói hãy đem cho tôi hay bỏ vào bát
tôi.
Pháp sư nói: - Thấy có
người mang cơm thừa đi đổ, một Tỳ kheo khất thực nói:
- Nếu cần vứt bỏ thì
cho vào bát tôi. Vị này được đức Phật khen ngợi.
Hỏi: - Ðây là chỉ riêng
cơm hay vật khác cũng được?
Ðáp: - Ðược phép xin
và nhận tất cả những vật bị vứt bỏ, không nên nghi
ngại.
Tay chân là khi khất
thực đưa bát xuống nhận vật thực nên bày cánh tay ra đến
cùi chỏ. Chân là phần từ mắt cá trở lên (bày ra) chừng
bốn ngón tay. Tiếng nói nghĩa là khi nghe Tu-Ðề-Na gọi nên
(cô ta) nhận ra tiếng nói. Nhớ biết (nimittam aggahesi) là
biết ba tướng của vị này. Tu-Ðề-Na xuất gia vào năm
thứ 12 sau khi Phật thành đạo. Tu-Ðề-Na ở nước khác tám
năm. Sau khi học đạo được tám năm, vị này mới trở
về thôn Ca-lan-đà. Khi Phật thành đạo được 20 năm thì
Tu-Ðề-Na rời khỏi nhà được tám năm, nên cô tỳ nữ không
nhận ra.... Ði vào thưa với ông chủ.
Hỏi: - Sao (cô ta) không
hỏi ngay (với Tu-Ðề-Na) mà lại đi vào thưa với chủ?
Ðáp: - Cô ta cảm
thấy e sợ không dám tự tiện hỏi nên vội vào trong thưa.
... Nếu tìm cậu chủ,
hãy nhìn người đang ngồi ăn ở cạnh bức tường. Nghĩa là
bấy giờ những nhà trong thôn đều làm nhà nhỏ chứa nước
bên cạnh tường và dành cho người khất thực được dùng
để nghỉ ngơi tùy ý. Do đó, trong luật có nói rằng:...
(vị ấy) đi ra ngoài và ngồi ăn bên tường.
Tại sao người... nghĩa
là người cha hỏi Tu-Ðề-Na rằng tại sao người ngồi ăn
thức ăn thừa ở bên tường, vì người xuất gia không nên
ăn thức ăn tàn thực này.
Người cha nói với Tu-Ðề-Na:
- Khi còn ở nhà, ăn những món cao lương mỹ vị mà con còn
chê bai, hoặc nói dỡ, cứng, lạnh, nóng, không vừa miệng.
Nay con ăn thức ăn dư cũ này lại như ăn cam lộ, không
một lời oán trách.
Pháp sư nói: - Cha Tu-Ðề-Na
phải nói như vậy vì trong tâm ông ta bị bức xúc không bày
tỏ được nên phải nói vậy. Xưa nay, các vị pháp sư đều
truyền nhau giải thích như vậy.
Câu: - Nắm tay cùng
nhau về nhà.
Hỏi: - Vì sao cùng
với người áo trắng (đời) nắm tay đi về nhà?
Ðáp: - Tu-Ðề-Na là người
chí hiếu nên khi cha nắm tay thì không kháng cự.
Sau khi về nhà, được
mời thọ thực, Tu-Ðề-Na im lặng nhận lời.
Hỏi: - Ở trên Tu-Ðề-Na
đã thọ pháp khất thực, vì sao còn nhận lời mời (thọ
thực tại nhà) của cha?
Ðáp: - Tu-Ðề-Na nghĩ
rằng xa nhà đã lâu, nếu không nhận lời thỉnh của đàn-việt
tất họ sinh tâm xấu. Do thương xót họ nên được nhận
thỉnh một lần; người nhận thỉnh phải biết rõ.
Câu: - Ðống vàng
bạc.
Hỏi: - (Vàng bạc) có
từng thoi hay vụn?
Ðáp: - Ðây là tiền
(kahàpana).
(Cao bằng) người
(purisa) nghĩa là không cao không thấp quá.
Câu: - Giăng tấm màn
ở sau là giống như để chỗ khuất vắng nên giăng màn
bốn phía.
Sáng sớm mặc y mang bát
là đi thọ thỉnh.
Hỏi: - Sao không chờ
đàn việt đến rước mà lại tự đi?
Ðáp: - Họ đã mời
(trước là được), trong luật không nói đến việc trên.
Mẹ có nghĩa là người
sinh ra người khác.
Vật thuộc mẹ nghĩa là
vật thuộc bên ngoại theo mẹ về nhà cha.
Câu: - Sáng tối tắm
rửa... là chỉ cho sự nhàn hạ.
Vật hồi môn của mẹ
con khi ta cưới về đến nay vẫn chưa dùng, của ta cũng chưa
dùng, vật của tổ phụ con cũng chưa dùng đến.
Chưa dùng đến là ý nói
tài sản có nhiều vô cùng.
Con nên hoàn tục là người
cha bảo Tu-Ðề-Na:
- Con hãy bỏ y phục
của người xuất gia, hoàn tục mặc y phục thế tục xinh
đẹp và hưởng thụ năm dục lạc. Con xuất gia không phải
vì sợ lệnh vua, không phải vì mắc nợ nên hoàn tục rất
dễ.
Tu-Ðề-Na nói: - Này đàn
việt, tôi rất ưa thích đời sống phạm hạnh, không có tâm
tham luyến thế tục, xin đàn việt chớ phiền trách. Thưa
đàn việt! Tôi muốn xin một việc, chớ tức giận.
Cha đáp: - Lành thay! Lành
thay ... nghĩa là người cha nghe Tu-Ðề-Na nói như vậy nên
vui mừng khen ngợi lành thay.
Tu-Ðề-Na nói rằng
lấy vải bố may thành bao lớn và bỏ vàng bạc vào và
cột chặt miệng lại rồi đặt lên hơn 10 chiếc xe đem
vứt xuống chỗ sâu nhất dưới sông lớn.
Câu "Vì những nhân
duyên này" nghĩa là Tu-Ðề-Na nói lời từ chối vì dùng
bảo vật này làm gì. Do những vật báu này nên sinh ra các
phiền não, nước, lửa, trộm cướp đều do đây mà sinh
ra.
Dựng cả lông
(lomahamsa) nghĩa là nếu có quốc vương thấy nhiều bảo
vật thì tất đến mong cầu, hoặc trộm cướp thì đến cướp
lấy, hoặc bị lửa đốt, nước cuốn trôi. Do suy tư sâu
xa như vậy nên lông toàn thân dựng cả lên.
Gìn giữ cả ngày đêm
nghĩa là khi trời chưa tối đã chia nhau trước sau, bố trí
người có sức canh phòng, đóng chặt cửa rất cẩn mật không
cho trộm cướp vào được, không để kẻ thù theo dõi được
nên gọi là bảo vệ.
Gọi người vợ trẻ vào
nghĩa là cha Tu-Ðề-Na tạo các điều kiện để vị này hoàn
tục nhưng vẫn không toại ý nên gọi cô vợ trẻ (của Tu-Ðề-Na)
đến bảo:
- Chỉ có con trước đây
thương yêu nhau, hãy làm cho anh ấy đổi ý. Vì sao? Tất
cả tài sản cũng không mua chuộc được thì chỉ có phụ
nữ có thể làm cho người ta thay đổi.
Câu: ... "Hay là chàng
vì các cô ngọc nữ xinh đẹp trên trời (Kidisà nàma tà
ayyaputta accharàyo yasam tvam hetu brahmacariyam carasi)". Ðây
là câu nói của người vợ trẻ hỏi Tu-Ðề-Na. Vì cô ta
thấy những người dòng Sát-lỵ, những người quí tộc
từ bỏ tài sản quí giá, cung điện, vợ con, thân quyến (mà
xuất gia) nên cho rằng các vị ấy vì mong cầu ngọc nữ cõi
trời nên tu tập phạm hạnh.
Không phải vì thiên
nữ nghĩa là không phải vì mong cầu thiên nữ.
Nghe Tu-Ðề-Na dùng từ
ngữ cô em này để đáp, thì (người vợ) cho rằng trước
đây vợ chồng ngủ chung giường, nay gọi là cô em với ý
nghĩa em cùng mẹ nên cô ta rất đau khổ và ngã lăn ra đất.
Chớ quấy nhiễu nghĩa
là không nên đem tài sản quí giá và gái đẹp để làm mê
hoặc tâm tôi.
Hãy để lại dòng
giống nghĩa là người mẹ bảo Tu-Ðề-Na: - Cầu mong con tu
tập phạm hạnh mãi mãi và nhập Niết-bàn trong hư không nhưng
xin con để lại một đứa con để kế tục dòng họ, đừng
để tài sản bị mất hết vì không người cai quản. Sau
khi chúng ta chết, tất chúng bị sung vào kho tàng của vua Lê-Xa-Tỳ
(licchavi) vậy xin để lại dòng giống.
Tu-Ðề-Na đáp: - Việc
này rất dễ, con có thể làm được.
Hỏi: - Vì sao Tu-Ðề-Na
nói như vậy?
Ðáp: - Vì Tu-Ðề-Na có
ý nghĩ nếu ta không cho dòng giống thì cha mẹ không để yên
cho ta và ngày đêm sẽ làm phiền ta. Nếu ta cho đứa con thì
họ an lòng, không còn làm phiền ta nữa. Nhờ đây, ta được
ở yên trong đạo để tu tập phạm hạnh.
Nguyệt hoa (Puppha - kinh
nguyệt) là hoa nước sinh trong tháng. Ðây là tên một loại
máu. Người phụ nữ trong thời gian sắp có thai trong dạ
con sinh ra một cục máu, sau bảy ngày tự phá và thành máu
chảy ra. Nếu máu ra không ngừng thì tinh người nam không đứng
yên mà theo trôi theo. Khi máu đã chảy hết thì tinh người
nam mới đọng lại được và sau đó thành thai. Như đám
ruộng đã được cày bừa kỹ, sau khi cho quá nhiều nước
vào rồi gieo giống lên. Hạt giống nổi lên trôi khắp
bốn phía vì nước lớn mà hạt giống thì không bám vào bùn
nên không mọc rễ con được. Người nữ cũng như vậy, sau
huyết không còn chảy nữa, thì tinh người nam mới bám
lại được và trở thành thai.
Nắm lấy tay vợ nghĩa
là dắt nhau đi vào rừng sâu để cùng hành dục.
Sau khi thành đạo dưới
cây Bồ đề, trong 20 năm đầu chưa chế giới cho các đệ
tử. Các đệ tử mới nhập đạo nên đức Phật chưa chế
giới cho họ. Tu-Ðề-Na không biết tội-tướng nên cho
việc này không có tội. Nếu vị này đã biết tội tướng
thì dù mất mạng cũng chẳng dám phạm.
Ba lần làm việc bất
tịnh nghĩa là ba lần cùng vợ làm việc bất tịnh nên có
thai.
Pháp sư nói: - Có hay
không?
Ðáp: - Có, bởi vì
một là hai thân thể tiếp xúc nhau; hai, lấy y phục; ba,
tinh chảy xuống; bốn, tay thoa dưới rốn; năm là thấy; sáu
có tiếng; bảy có mùi. Do bảy việc này phụ nữ có thai.
Hỏi: - Vì sao gọi là
thân thể tiếp xúc nhau?
Ðáp: - Có người nữ
khi sinh nguyệt thủy thì ham muốn đàn ông. Nếu được thân
thể đàn ông tiếp xúc khắp thân thể thì người nữ này
sinh ham muốn và mang thai. Ðây là tiếp xúc nhau nên mang
thai.
Hỏi: - Thế nào là
lấy y phục?
Ðáp: - Như Tỳ kheo Ưu-Ðà-Dy
(Udàyi) và vợ cùng xuất gia. Cách biệt đã lâu, một hôm
Ưu-Ðà-Dy đến gặp Tỳ kheo ny kia, tình cảm luyến ái hai bên
cùng nhau lai láng đến cực độ nên xuất tinh làm dơ bẩn
y của Ưu-Ðà-Dy. Vị này đưa y ấy cho Tỳ kheo ny (để
giặt). Nhận y, Tỳ kheo ny này đưa lưỡi liếm rồi lại
đưa tinh ấy vào nữ căn nên có thai. Có người nữ khi có
hoa thủy, lại tiếp xúc với y phục (có tinh) của đàn ông
thì có thai nên gọi là lấy y phục.
Hỏi: - Thế nào là
tinh chảy xuống?
Ðáp: - Như mẹ đạo sĩ
Lộc-Tử. Ngày xưa có một con nai cái đi đến chỗ ở của
đạo sĩ. Ðạo sĩ tiểu tiện nên tinh bị chảy xuống chỗ
ấy. Nai cái trong thời gian sinh hoa thủy, ngửi nước tiểu
ấy, sinh tâm dâm dục nên uống vào và có thai sinh ra đạo
sĩ Lộc-Tử (Migasingatàpasa). Ðây gọi là tinh chảy xuống.
Xoa dưới rốn như cha
mẹ của Bồ Tát Thiểm (Sàmabodhisatta) sắp bị mù. Thiên Ðế-thích
biết được nên giáng hạ xuống gặp họ và nói rằng hãy
mau hợp âm dương (giao hợp) sẽ sinh con. Hai vợ chồng đã
xuất gia tu đạo nên nói: - Chúng tôi đã xuất gia, theo pháp
thì không được làm vậy.
Ðế-thích nói: - Nếu
không hòa hợp âm dương thì lấy tay thoa dưới rốn.
Họ làm theo lời dạy
và mang thai sinh ra Thiểm, nên gọi là xoa tay dưới rốn.
Mẫn-Ðà-Bà-Da và Chiên-Ðà-Bát-Thù-Ða (Mandavya, Candapajjta)
cũng được sinh bằng cách ấy.
Hỏi: - Thế nào là
sinh bằng thấy?
Ðáp: - Có một cô gái
trong thời kỳ hoa nguyệt nhưng không được giao hợp với
đàn ông. Do tình dục quá mạnh, chỉ nhìn đàn ông là ghi
nhớ, các thể nữ trong cung cũng như vậy, vì vậy có thai.
Ðây gọi là thấy.
Hỏi: - Thế nào là
bằng tiếng?
Ðáp: - Như loại chim cò
trắng chỉ có con cái không con trống. Ðến mùa xuân, khí
hậu ấm áp bắt đầu có tiếng sấm. Cò chỉ lắng nghe
tiếng sấm là có thai. Ðây gọi là bằng tiếng.
Hỏi: - Thế nào là do
mùi?
Ðáp: - Như con trâu cái
chỉ ngửi mùi trâu đực là có thai.
-ooOoo-
Tu-Ðề-Na
không phải như trên mà làm việc bất tịnh. Dục và sắc
của hai bên nam nữ giao hợp nhau thì có sự thác sinh. Ba
việc hợp nhau thì sau đó sinh con. Tu-Ðề-Na cũng vậy.
Khi địa thần thấy
Tu-Ðề-Na làm việc bất tịnh liền kêu lớn lên rằng...
tất cả các việc làm này là ác pháp, ai cũng biết cả.
Khi mới làm việc ấy thì thần hộ thân thấy, tuần tự các
vị thiên có tha tâm đều biết, các thiên thần đều thấy
người hành động như vậy nên kêu lớn lên. Tuần tự,
truyền cho đến cõi phạm thiên, đến cõi Vô sắc, những cõi
khác đều biết.
Khi ấy, đứa bé dần
dần khôn lớn và cùng mẹ xuất gia . Khi bé Tục-chủng lên
tám tuổi, cùng mẹ Tục-chủng xuất gia. Mẹ sống với các
Tỳ kheo ny, Tục-chủng sống với các Tỳ kheo, đều được
thân cận các bậc thiên tri thức (Kalyànamitta). Do đó, trong
luật nói: - Cả hai cùng xuất gia và tuần tự chứng quả
A-la-hán.
Liền sinh tâm hối
hận nghĩa là vì trước đây đã làm việc bất tịnh nên
suốt ngày đêm vị ấy sinh tâm hối hận: Ta đã làm việc
bất lợi trong pháp lợi ích, tu tập phạm hạnh trong Phật
pháp để đạt ba đạt trí nhưng ta không được lợi ích này.
Nên gọi là đối với lợi ích, ta không được lợi ích này.
Ta bị ác lợi nghĩa là
người khác xuất gia được thiện lợi còn ta không được
thiện lợi mà bị nhận ác lợi.
Người phạm hạnh là
giữ trọn cả giới, định và tuệ mà ta không giữ trọn
được.
Gầy ốm nghĩa là từ
khi hối hận thì ăn uống không ngon nên máu thịt khô héo,
thân thể hình sắc thay đổi như lá cây héo úa sắp rụng.
Gân mạch đều nổi lên
nghĩa là vì máu huyết khô héo nên gân mạch hiện ra.
Tâm cũng bế tắc nghĩa
là tim cũng khó thở vì bế tắc.
Xấu hổ gục đầu nghĩa
là tự xét thấy mình bất thiện trong pháp thanh tịnh nên
sinh xấu hổ.
Khi các Tỳ kheo đi chơi
đến trước phòng, thấy Tu-Ðề-Na bị gầy ốm nên hỏi: -
Trước đây diện mạo hiền gải rất tươi vui, thân thể
xinh đẹp, tay chân mập tròn đều đặn, nay vì sao mà gầy
gò như vậy?
Các Tỳ kheo lại nói
với Tu-Ðề-Na: - Hiền giả có buồn hận gì trong việc tu
tập phạm hạnh, hay là không thích đời sống xuất gia
nữa?
Tu-Ðề-Na đáp: - Thưa
các trưởng lão! Chẳng phải tôi không thích đời sống
phạm hạnh, lười biếng tu tập trong pháp thanh tịnh này,
chỉ vì tôi đã làm việc ác.
Ðã làm việc ác nghĩa
là đã có tạo pháp ác nên luôn thấy nó hiển hiện trước
mắt.
Các Tỳ kheo nói với
Tu-Ðề-Na: - Hành động của hiền giả chỉ là nghi hối.
Hỏi: - Vì sao gọi là
nghi?
Ðáp: - Trong pháp luật
thanh tịnh, hành động bất tịnh hạnh mà sinh nghi hối thì
không thể tu tập phạm hạnh nữa.
Các Tỳ kheo tạo phương
tiện để giải tỏa ý nghĩ của Tu-Ðề-Na nên nói: - Này
trưởng lão! Không phải vậy đâu...
... Ðức Phật dùng các
phương tiện nói pháp ly dục. Do đó, vì tất cả chúng sinh
trong ba cõi mà Phật nói về năm dục để chúng viễn ly không
còn thân cận các dục. Lời khác nhưng ý nghĩa như nhau.
Thuyết pháp để diệt
hết ái, để đạt đến Niết-bàn, không còn luân hồi ba cõi,
nên không cho ái dục. Ðức Phật đã nói về dục như vậy
là để phân biệt không thân cận.
Nay thầy giao hợp nghĩa
là Phật dạy tránh xa việc bất tịnh hạnh mà thầy lại cùng
vợ cũ làm việc bất tịnh... nghĩa này dễ hiểu.
Ðức Phật thuyết
giảng nhiều phương pháp để thoát ly mê hoặc. Nghĩa là đức
Phật thuyết pháp cho chúng sinh chỉ vì dạy họ đoạn trừ
mê hoặc khát ái. Bởi vì tất cả chúng sinh khao khát năm
dục nên Phật thuyết pháp để khiến họ đoạn trừ.
Diệt hết hạt giống
nghĩa là đức Phật thuyết pháp làm cho trừ diệt hạt
giống ba cõi, ái tận là Niết-bàn.
Ái nghĩa là ái dục
trong ba cõi. Chúng sinh do ái dục trói buộc nên không thoát
ra khỏi ba cõi.
Tận nghĩa là diệt
hết ái.
Ðắc Niết-bàn nghĩa là
chúng sinh ở chín cảnh giới với bảy thức, năm đạo,
bốn cách sinh trong ba cõi này, từ chỗ này qua chỗ kia rồi
quay lại... như những sợi chỉ đan dệt với nhau không hở
để thành tấm vải, không giải thoát khỏi ái là bị đan
chặt, tận là diệt hết. Ái tận là Niết-bàn, niết là không
còn, bàn là sinh, nghĩa là không còn sinh nữa.
Phật thuyết pháp trừ
dục nghĩa là làm cho trừ sạch dục năm trần và dục
phiền não.
Biết rõ dục nghĩa là
đã biết rõ tất cả các dục và điều phục được dục
nên gọi là biết.
Khát ái nghĩa là rất
thèm khát mong cầu các dục.
Tư dục nghĩa là luôn
tư duy về dục.
Phiền muộn dục nghĩa
là đối với năm dục, luôn tư duy về những điều chưa
thỏa mãn nên sinh phiền muộn.
Trên đây là sự trình
bày theo đạo-đế. Câu trước nói về pháp thế gian. Câu
sau nói về pháp xuất thế gian.
... trưởng lão làm cho
người bất tín thì không tin, còn người đã tin thì làm
theo pháp ác nghĩa là làm cho người chưa có tín tâm không
tin trưởng lão, người đã có tín tâm thì thay đổi lòng
tin.
Thay đổi lòng tin nghĩa
là đối với giáo pháp sinh tâm hối hận nghi ngờ.
Người nào có tín tâm
với đạo thì cũng như núi Tu di bị gió thổi bốn mặt cũng
không lay động. Người có tín tâm này cũng như vậy. Thế
nên trong luật có nói: Có người như vậy, không có người
như vậy. Khi ấy, các Tỳ kheo đem sự việc bạch với đức
Thế Tôn.
Các Tỳ kheo bạch cho
Thế Tôn biết về ác pháp mà Tu-Ðề-Na đã làm nhưng không
phải vì có tâm mong Phật khen riêng mình cũng không phải để
Phật khinh bạc đuổi Tu-Ðề-Na ra khỏi pháp thanh tịnh, cũng
không phải dựa vào pháp ác này để tranh cãi nhau, chỉ vì
nói ra đúng sự thật mà thôi. Các Tỳ kheo đều nghĩ rằng
cấu-pháp đã phát sinh nên họ bạch Thế Tôn: - Hiện nay
cấu-pháp đã phát sinh, xin ngài chế giới cho các đệ tử
Thanh-văn.
Do sự việc này, đức
Phật tập hợp các Tỳ kheo tăng. Do hành động xấu của
Tu-Ðề-Na vi phạm vào pháp thánh-nhân nên Phật tập họp các
Tỳ kheo tăng.
Phật quở trách Tu-Ðề-Na...
Người nào hành động theo ác pháp thì bị quở trách nên
đức Như Lai quở trách.
Có người trì giới
tinh tấn nghĩa là ai đáng được khen ngợi thì Như Lai khen
ngợi. Như vậy đối với ai có hành động thiện hay ác,
Phật đều không che dấu. Như trường hợp Tu-Ðề-Na đáng
bị chê trách, nên trong luật có nói với trường hợp đáng
chê trách thì đức Như Lai chê trách bằng tâm từ bi.
Phật nói: - Ngươi là
kẻ ngu si, không được gì cả.
Si nghĩa là không làm
việc đáng làm, làm việc không đáng làm, làm việc không
phù hợp tức là làm việc bất tịnh, bất tịnh là chẳng
phải pháp sa-môn.
Phật hỏi: - Vì sao ngươi
làm việc như vậy, Ta đã giảng dạy việc ly dục... như trước
đã nói.
Thấy Tu Ðề Na đã làm
pháp ác, Phật vói tâm từ bi bảo rằng: Này, người si mê.
Cũng như cha mẹ từ bi nhưng thấy con làm việc xấu thì cũng
la mắng con mình: Vì sao ngươi ngu si làm việc như vậy!
Thế nên, trong luật có nói: Này kẻ ngu si, thà rằng ngươi
đem nam căn đặt vào miệng rắn độc, chớ nên đặt vào
nữ căn.
Miệng rắn độc, ai đụng
vào miệng rắn độc thì thịt họ bị hư thối. Bị chết
như vậy tốt hơn, vì nếu đặt nam căn vào nữ căn thì sau
khi chết bị đọa địa ngục không có ngày ra. Do đó, thà
rằng đặt nam căn vào miệng rắn độc là như vậy.
Ðặt vào là bị hư
thối ngay nghĩa là làm như vậy thì chết ngay nhưng không
bị đọa địa ngục, còn đặt vào nữ căn thì bị luân
hồi trong địa ngục.
Thà đem nam căn đặt vào
lửa cháy rực chứ không đặt vào nữ căn. Vì sao? Người
ngu si bị lửa đốt cháy thì có khi chết, khi không chết. Dù
bị chết thì chỉ thân này chịu một chút khổ chứ không
như vậy mà bị đọa địa ngục bị khổ não dữ dội.
Các pháp bất thiện là
pháp của kẻ xấu. Pháp hoang dã là pháp của người sống
nơi hoang dã.
Tội lớn là phiền não
lớn.
Mạt thủy pháp
(Odakantika - mé nước, nước rửa sau cùng) là khi làm việc
phi pháp xong, dùng nước (để rửa) nên gọi là mạt thủy.
Tại chỗ vẳng vẻ là
chỉ có hai người, có thể làm việc bất tịnh. Ðây là
bắt đầu các pháp ác.
Hỏi: - Vì sao đức
Phật nói như vậy?
Ðáp: - Trong pháp thanh
tịnh này, do Tu-Ðề-Na gây cấu bẩn nên gọi là Tu-Ðề-Na
là kẻ phạm cấu bẩn đầu tiên trong tịnh pháp này.
Như Lai dùng các phương
tiện nghĩa là chê trách bằng nhiều cách.
Người này khó nuôi dưỡng
nghĩa là được che chở trong pháp mà không thể tự bảo
vệ được thân mình nên gọi là khó nuôi dưỡng.
Người không biết đủ
nghĩa là sống tích lũy của cải thì gọi là không biết đủ
vì nếu được của quí báu nhiều như núi Tu di cũng không
vừa ý nên gọi là không biết đủ.
Thân tụ tập lại
một nơi nghĩa là cùng tập họp lại một chỗ mà khen nhau
hoặc vì phiền não nên khen nhau.
Lười biếng có tám hành
động nói lên hết các trường hợp lười biếng này
Ðức Như Lai phương
tiện khen ngợi sự ít muốn, biết đủ, dễ nuôi, dễ
sống.
Ít muốn là không có
tham lam, nhận sự cúng dường tùy theo ý người khác.
Người nào giữ sự
dễ nuôi thì có thể chế ngự sáu tình (dục căn) và không
chạy theo sáu trần nên gọi là dễ nuôi.
Dễ sống nghĩa là đối
với bốn sự cúng dường biết điều độ, biết vừa
phải (trong việc nuôi sống) nên gọi là dễ sống.
Khi được vật dù ngon
hay dỡ đều nhận lấy vì ít muốn là biết đủ.
Tịnh vì ít muốn
biết đủ nên gọi là tịnh. Ðã thanh tịnh thì không bị
nhiễm trần cấu, chính là giũ sạch. Nhân giũ sạch trần
cấu nên gọi là đoan chính. Lại nói ba nghiệp đều tịnh,
trừ diệt ba nghiệp bất thiện thì không bị người chê
bai nên gọi là đoan chính.
Không tụ lại nghĩa là
mở bày làm cho phân tán hết những phiền não che phủ thân
nên gọi là không tụ lại. Vì không cho tụ lại tức là dũng
mãnh tinh tấn. Giới được đức Phật chế do các Tỳ kheo,
người thiện có thể tin nhận vì thích ứng với các Tỳ
kheo. Vì sao? Nếu người ít muốn biết đủ thì có thể
thọ trì. Do đó, họ được đức Phật thuyết giới-bổn
như hoa năm màu được tuần tự kết lại, như tuần tự xâu
từng hạt ngọc bảy báu.
Giảng thuyết về đời
này đời sau khiến cho sợ hãi. Nếu người nào ưa thích
học và sống với giới thì chứng quả A-la-hán hoặc Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, Tu-đà-hoàn. Người nào không có nhân duyên đạt
được như vậy thì cũng được sinh thiên. Nếu đức Phật
thuyết giảng A-hàm dài hay A-hàm ngắn thì người thiện cũng
có thể tín thọ.
Giới là học địa.
Học địa là gì?
Ðáp: - Là pháp thiền
định, tam muội.
Thế nào là học địa?
Nghĩa là nhân vào 10 pháp mà chế giới khiến cho chúng tăng
được an ổn. An ổn nghĩa là không nguy ách. Người nào
thọ trì cấm giới do Như Lai chế định thì trong đời tương
lai được sống rất an lạc nên gọi là an ổn. Phật dạy:
Người nào chấp nhận lời Ta dạy thì Ta sẽ chế giới cho
họ. Người nào không chấp nhận lời Ta dạy thì Ta sẽ không
chế giới mà chỉ nói về nhân duyên căn bản, cũng không
cố điều phục họ. Do đó, trong luật có nói nhờ vào mười
pháp làm cho chúng tăng được an lạc, như bảo rằng hành
động này không có tội, hành động này có tội, lúc này nên
làm, lúc này không nên làm, làm cho người ưa thích học
giới, không còn nghi ngờ. Thế nên trong luật có nói: Chế
cho Tỳ kheo biết tàm quý chứ không chế cho Tỳ kheo không
biết tàm quý. Vì pháp này làm cho Tỳ kheo biết tàm quý
được an lạc. Vì sao? Bởi vì Tỳ kheo không tàm quý thì không
được nhập chúng, tập tăng, bố tát, tự tứ.
Tỳ kheo tàm quý được
an lạc bởi vì đượïc nghe về thiền định, tam muội, và
không bị Tỳ kheo không tàm quý gây phiền não. Do đó, trong
luật nói: - Tỳ kheo tàm quý được an lạc.
Ðoạn trừ phiền não
hữu lậu trong hiện tại. Bị phiền não hữu-lậu trong
hiện tại (Ditthadhammika àsava), không hộ trì năm tình nên
ngay thân này có hành động bất tịnh, hoặc bị người
bắt, đánh, giết hoặc tự hối hận. Ðoạn trừ hết
những khổ não như vậy làm cho được giải thoát.
Chế ngự Tỳ kheo không
tàm quý. Không tàm quý là kẻ phá giới. Có thuyết nói đức
Phật chế giới cho hạng người đã làm pháp bất thiện mà
không biết xấu hổ. Khi Như Lai đã chế giới rồi, nếu
họ làm ác mà còn hỏi ngược lại người khác rằng thấy
tôi làm điều gì, nghe tôi làm điều gì, tôi bị tội gì...
bằng mọi cách gây phiền loạn cho chúng tăng như vậy thì
do đã chế giới rồi nên chúng tăng đem pháp Tỳ-ny ra trị
phạt Tỳ kheo phá giới và họ không chạy tội được.
Thế nên trong luật nói chế ngự các Tỳ kheo không tàm quý
và người tàm quý được sống an lạc. nếu Tỳ kheo có tàm
quý thì ưa thích học giới luật điều này nên làm, điều
này không nên làm.
Ðoạn trừ hữu lậu
trong tương lai. Vì không đoạn trừ năm tình nên làm theo pháp
ác, sau đó phải bị đọa địa ngục, chịu các khổ não,
không phải chỉ chịu một lần là hết mà còn phải bị luân
chuyển trong ấy với vô số kiếp. Vì vậy, Như Lai chế
giới để đoạn trừ nhân duyên này.
Người chưa tin được
tin. Như Lai chế giới chỉ vì nếu có Tỳ kheo thiện nào tùy
thuận giới luật, đầy đủ uy nghi thì người chưa có tín
tâm trông thấy (vị ấy) sẽ sinh tín tâm và nói rằng sa-môn
Thích-tử này chí tâm tinh tấn, làm được việc khó làm,
rất đáng tôn trọng. Nhờ thấy như vậy, họ sinh tín tâm,
nếu ngoại đạo thấy tạng Tỳ-ny thì nói rằng các Tỳ
kheo của Phật cũng có (sách) Vi-đà nhưng chúng ta không khác
nên họ sinh kính trọng. Do đó, trong luật có nói làm cho người
chưa tin được tin.
Người đã tin càng thêm
tin. Nếu thấy người có tín tâm xuất gia, mà tùy thuận
theo giới cấm được giảng dạy, mọi người rất cung kính
và nói rằng tại sao vị ấy (làm được việc) trọn đời
ăn chỉ một bữa trong ngày, tu tập phạm hạnh, hộ trì
giới cấm. Thấy như vậy rồi, tín tâm mọi người tăng trưởng.
Thế nên trong luật nói rằng làm cho người đã tin càng tin
thêm.
Khiến cho chánh pháp trường
tồn. Chánh pháp có ba hạng là: Một, học chánh pháp làm
cho trường tồn; hai, tín thọ chánh pháp làm cho trường
tồn; ba, đắc đạo làm cho chánh pháp trường tồn.
Hỏi: - Thế nào là
học tập làm cho chánh pháp trường tồn?
Ðáp: - Học tập ba
tạng làm cho trường tồn tất cả những lời Phật dạy,
gọi là học tập chánh pháp. Thực hành 12 pháp đầu đà,
14 uy nghi, 82 đại uy nghi, giới, thiền định, tam muội được
dạy trong ba tạng (Terasa-dhutagunà - 13 hạnh đầu đà -
cuddasa-khandhaka-vattàni, dveasìti mahàvattàni, silàsamàdhivipassanà)
gọi là tin thọ làm cho chánh pháp trường tồn. Chứng bốn
quả sa-môn và Niết-bàn gọi là đắc đạo làm cho chánh pháp
trường tồn. Như Lai chế giới khiến cho các Tỳ kheo tùy
thuận. Người nào tùy thuận đầy đủ thì được thánh
lợi. Thế nên học tập giới luật là đứng đầu trong
việc làm cho chánh pháp trường tồn.
Vì yêu mến tôn trọng
giới luật nên có kết giới. Ðối với bốn Tỳ-ny là Phú-tàng
Tỳ-ny, Khí-xả Tỳ-ny, Ðiều-trực Tỳ-ny và Kết-giới
Tỳ-ny, phải rất yêu mến tôn trọng. Thế nên trong luật nói
vì yêu mến tôn trọng tạng Tỳ-ny.
Pháp sư nói: - Với
tất cả những câu trên, đầu, giữa và cuối, các vị hãy
tự hiểu lấy. Ðối với tội phước trong luật, các Tỳ
kheo phải học kỹ. Thế nên trong luật, Phật dạy: - Các
Tỳ kheo hãy tự thuyết giới.
Hỏi: - Lời này có nghĩa
gì?
Nghĩa là Phật bảo các
Tỳ kheo rằng: Ta đã chế giới, các ông nên thuyết, nên
thọ trì, nên học tập và dạy bảo cho người khác.
Nói thế này: - Tỳ
kheo nào hành dâm, bị tội Ba-la-dy, không được sống chung.
Làm như vậy là đoạn trừ pháp căn bản.
Khi xác định như vậy
rồi là kết giới Ba-la-dy lần đầu.
Sau do hành dục với vượn
nên chế thêm. Nay sẽ trình bày sự việc ấy.
Như vậy, vì các
Thanh-văn, Phật đã chế giới. Thế nên trong luật nói vì các
Tỳ kheo mà chế giới.
- Hết phần chế
giới thứ nhất-
Pháp sư nói: - Nếu câu
nào khó hiểu, sẽ giải nghĩa. Tôi xin trìnhbày:
Khi ấy, có một Tỳ
kheo. Câu này dễ hiểu.
... đem thức ăn uống
dụ dỗ con vượn. Bấy giờ, trong rừng này có nhiều Tỳ
kheo hành tâm từ bi nên nhiều loài súc sinh không còn e sợ
nữa. Các loại chương, nai, vượn khỉ, công, phỉ thúy,
nhạn trĩ... các loại cầm thú khác đi lại chơi đùa ở các
thiền phòng.
Khi ấy, có một Tỳ
kheo thấy trong bầy vượn có một con vượn cái mập mạp
dễ coi nên đem thức ăn dụ nó và cùng làm việc bất
tịnh.
Trong lúc Tỳ kheo làm
việc bất tịnh này đi vắng.
... Xem xét các phòng
ở nghĩa là có các Tỳ kheo ở nước khác đến thăm viếng
Thế Tôn, nhân đó nên đến nơi này. Sáng sớm ấy, sau khi
các Tỳ kheo dùng thức ăn của khách (agantukabhatta) xong, họ
suy nghĩ: - Chúng ta nên đi xem phòng ở của các Tỳ kheo.
Thế nên trong luật nói là đi xem các phòng ở và họ đến
chỗ ở của Tỳ kheo kia.
Thấy các Tỳ kheo kia
đến, con vượn mà trước đây đã cùng Tỳ kheo làm việc
bất tịnh cho rằng các Tỳ kheo này cũng như Tỳ kheo trước
nên chạy đến chỗ các Tỳ kheo và ra điệu bộ khiêu dục
như trước đây đã từng hành dâm với các Tỳ kheo kia
bằng cách vểnh đuôi lên hướng dục căn về các Tỳ kheo
và biểu hiện thái độ dâm dục. Mong đợi các Tỳ kheo đáp
ứng nhưng chờ mãi không thấy nên con vượn tự làm những
động tác dâm dục khêu gợi các Tỳ kheo.
Các Tỳ kheo muốn con vượn
muốn làm việc dâm dục nên bảo nhau: - Chũng ta hãy núp vào
chỗ khuất, chờ vị kia đi khất thực về, sẽ thấy hành
động của họ. Chắc là trưởng lão (saccam àvuso). Chắc là
thật không hư dối, như bắt được kẻ trộm với đủ
tang vật thì không dám che dấu.
Thật là trưởng lão
không làm như vậy phải không? Dục căn của người nữ không
khác của súc sinh cái. Sự chế giới của đức Phật là
nhắm vào sự việc này.
Gặp gỡ người nữ
nghĩa là tiếp xúc, nắm, ma sát. Hành động bất tịnh nghĩa
là cùng với thú cái cũng vậy, tất cả các động tác ấy
đều là pháp ác.
Này trưởng lão! Thầy
hành động với phương tiện như vậy cho đến cùng loài súc
sinh, bị tội Ba-la-dy không được sống chung nghĩa là nếu
hành động bất tịnh cùng súc sinh nữ cũng thành tội
Ba-la-dy.
Pháp sư nói: - Tùy
(phạm mà) chế thêm cho (giới này) vững chắc. Giới có hai
pháp. Một, tội đương nhiên trong thế gian (lokavajja
pannattivajja); hai, tội vì vi phạm lời dạy bậc thánh. Tâm
ai tôn sùng pháp ác là bị tội theo pháp luật đương nhiên
ở thế gian. Ngoài ra, những giới tội cho Như Lai đã chế
đều tùy theo pháp thế gian (mà chế ra) để đoạn trừ
kết sử, khiến cho giới được bền vững.
Trừ trong mộng, nghĩa
là trong mộng thì không phạm. Tùy hoàn cảnh mà chế thì không
thuộc tánh tội. Như trường hợp giới ăn nhiều lần, ăn
chúng riêng, là chế tùy hoàn cảnh không phải tánh tội không
phạm theo pháp thế gian. Như vậy là Như Lai đã tùy từng
trường hợp mà chế giới cho các Tỳ kheo.
- Hết Phẩm Con Vượn
-
Pháp sắp trình bày sau
đây là được phát sinh do Bạt-Xà-Tử (Vajjiputta). Bạt-Xà-Tử
được Ðiều-Ðạt (Devadatta) kết làm bè đảng để phá hòa
hợp tăng. Việc này phát sinh do Bạt-Xà-Tử. Sau Phật
Niết-bàn 100 năm, xảy ra sự việc phi pháp, phi Tỳ-ny, phi
Phật-giáo đều do nhóm Bạt-Xà-Tử mà có. Như luật có nói:
Sau khi Phật chế giới, Bạt-Xà-Tử ăn nhiều, ngủ nhiều nên
phát sinh ý dục, lại không xả giới mà làm việc dâm dục
nên sau đó thân quyến ông ta bị bại hoại. Bại hoại là
bị hình phạt của vua nên họ phải trốn chạy, bị chết,
bị chia lìa.
Thân thể bị bệnh
hoạn hành hạ đau đớn nghĩa là thân thể suy yếu bệnh
hoạn nên rất đau khổ.
Ðại đức A-Nan, chúng
tôi không có hủy báng Như Lai, không kể tội lỗi Như Lai,
không phỉ báng pháp, không hủy nhục chúng tăng. Chúng tôi
tự hủy báng mình nên không còn có phước đức, uy nghi.
Từ nay, chúng tôi sẽ tu tập theo chánh pháp. Ðối với 38
pháp quán (Atthatimsàrammana) chúng tôi sẽ tuần tự tu tập
pháp Bồ đề. Nhờ tu tập theo A-la-hán đạo này mà trí
tuệ được tăng trưởng, làm cho chúng tôi từ bỏ pháp
của bạch y thế tục, an trú chỗ thanh tịnh, đạt đến
chỗ không còn việc gì để làm nữa.
A-Nan đáp: - Lành thay!
Ðây là A-Nan không
biết tâm của họ, chỉ nghe lời phát nguyện to lớn của
họ, nếu được như vậy thì rất tốt cho nên khen hay thay.
Không thể có việc
ấy là lời nói phủ định. Nếu có kết quả thì nói
rằng có như vậy. Vì không có kết quả nên nói không có
như vậy. Như Lai đã quán sát nhóm Bạt-Xà-Tử không có nhân
duyên, nếu Ngài cho họ thọ giới cụ túc thì bọn họ sẽ
bị phạm tội Ba-la-dy không được sống chung. Do đó, trong
luật nói không thể được, cho đến không cho thọ giới
cụ túc. Nếu chúng tăng cho họ giới cụ túc thì trái với
pháp thanh tịnh và họ không thành sa-môn mà chỉ ở địa
vị sa di. Nếu họ ở địa vị sa di mà tôn trọng chánh pháp
thì có thể chứng đắc nhờ tu tập. Ðức Phật không cho
giới cụ túc hay cho giới cụ túc đều vì lòng thương tưởng.
Vì sao? Vì với kẻ không phá giới, trong pháp thanh tịnh này
nhờ nhân duyên biết cung kính tôn trọng thì không bao lâu
họ sẽ đắc đạo. Thế nên, trong luật nói nếu có người
xuất gia, thì (có trường hợp) cho họ giới cụ túc và (có
trường hợp) không cho giới cụ túc.
Ba pháp này đã đầy
đủ, Như Lai vì muốn chế giới nên bảo các Tỳ kheo rằng
các ông nên thuyết giới như vậy.
Nếu Tỳ kheo không được cộng trú. Pháp sư nói:
- Trong luật này đã đầy
đủ, tôi xin giải thích, chữ nếu là chỉ chung không riêng
cho người nào.
Pháp sư nói:
- Trong câu văn giới, trong giới bổn, trong câu
vấn nạn, ai muốn biết xem trong bốn Tỳ-ny. Các đại đức
có thần thông giải thích ra cho mọi người biết khi tập
họp chúng.
Hỏi: - Thế nào là
bốn? Một, bản (sutta - kinh phần); hai, tùy bản (suttànuloma);
ba, lời pháp sư (àcariyavàda); bốn, tự ý (attanomati).
Bản là tất cả luật
tạng.
Tùy bản là bốn sự
việc lớn, như Phật dạy các Tỳ kheo: Ta nói việc này là
bất tịnh nhưng không chế giới nhưng việc này tùy thuộc
bất tịnh chứ không thuộc tịnh, nên gọi là thuộc bất
tịnh. Này các Tỳ kheo! Ta nói việc này bất tịnh mà không
chế giới nhưng việc này tùy thuộc tịnh thì gọi là
thuộc tịnh. Này các Tỳ kheo! Ta nói việc này tịnh nhưng
việc này tùy thuộc bất tịnh, không tùy thuộc tịnh thì
đối với các ông nó thuộc bất tịnh. Này các Tỳ kheo! Ta
nói là tịnh nhưng nó tùy thuộc tinh thì đối với các ông,
nó thuộc tịnh. Ðây là bốn sự việc lớn.
Thế nào là lời pháp
sư? Khi đại chúng 500 vị La-hán tập họp, kết tập và
truyền bá luật bản mà Phật đã thuyết, gọi là lời pháp
sư.
Thế nào là tự ý? Ðể
bản luật, bản tùy luật, lời pháp sư lại, ý muốn làm
thì tùy phương tiện mà làm, như dẫn kinh, luận, luật để
nói rộng ra, dẫn lời pháp sư nói ra, gọi là tự ý.
Hỏi: - Ðây nghĩa là làm
mà không tự chuyên, trước hết phải quan sát phần căn
bản rồi quán sát đến ý nghĩa của câu, phân biệt rõ
rồi cân nhắc từng vấn đề, sau đó xem xét lời dạy
của pháp sư, nếu đúng theo văn nghĩa thì chấp nhận, nếu
xét không đúng thì bỏ, mới gọi là tự ý.
Theo tự ý nghĩa là
lời pháp sư xác quyết thì nên quán sát rõ lời ấy nếu tương
ứng với văn nghĩa của tùy bản thì chấp nhận, ngược
lại thì không chấp nhận.
Theo lời pháp sư nhưng
theo tùy bản thì xác quyết như vậy, nếu xét thấy tương
ứng với văn nghĩa của tùy bản thì chấp nhận, ngược
lại thì bỏ.
Theo tùy bản và bản
đều xác quyết như vậy thì không thay đổi được như chúng
tăng yết-ma thì không khác gì như Phật còn tại thế.
Pháp sư nói: - Nếu quán
sát tùy bản mà không hiểu rõ thì xem xét các bản chú
giải về kinh, nếu tương ứng thì chấp nhận.
Pháp sư nói: - Nếu hai
Tỳ kheo cật vấn nhau. Một bên nói tịnh, bên kia nói bất
tịnh thì xem xét ở bản và tùy bản. Nếu bản và tùy
bản đều nói tịnh thì tốt (chấp nhận), nếu nói bất
tịnh thì không chấp nhận (bên kia). Nếu một Tỳ kheo xét
bản và tùy bản đã tịnh, lại còn đưa ra nhiều văn nghĩa
để dẫn chứng mà Tỳ kheo kia thì có ít văn nghĩa thì theo
lời vị Tỳ kheo thứ nhất.
Pháp sư nói: - Nếu
cả hai Tỳ kheo đều có văn nghĩa như nhau thì nên suy đi
nghĩ lại cân nhắc ý nghĩa của bản là nên chấp nhận hay
không nên chấp nhận.
Ðây là người học
bốn loại tỳ-ny. Nếu là luật sư thì phải có ba pháp
(Ti-lakkhanàni) mới thành tựu.
Hỏi: - Ba pháp là gì?
Ðáp: - Một, đọc
tụng thông suốt, thuộc lòng đầy đủ văn tự ý nghĩa
của luật bản.
Hai, giữ vững luật
bản không lẫn lộn (Asamhìra).
Ba, theo thầy, tuần
tự học tập thọ trì không cho quên mất.
Hỏi: - Bản là gì?
Ðáp: - Tất cả tạng
luật gọi là bản.
Ðọc tụng thông suốt
nghĩa là nếu có người hỏi không theo thứ tự của câu thì
không cần suy nghĩ mà vẫn đáp được theo câu hỏi.
Thuộc lòng hiểu rõ đầy
đủ nghĩa là phân biệt rõ ràng, giải thích được câu văn
và ý nghĩa của luật bản và bản chú giải.
Giữ vững không bị
lẫn lộn nghĩa là có tâm tàm quý gọi là giữ vững. Người
không có tàm quý tuy học rộng hiểu nhiều nên được kính
trọng cúng dường nhưng không sống theo pháp luật, là gai góc
trong Phật pháp. Vì sao? Vì họ hay phá hòa hợp tăng, cũng
hay quấy nhiễu chúng tăng. Người có tàm quý thì đối
với giới thường có tàm quý, cho đến mất mạng cũng không
vì sự cúng dường mà phá chánh pháp. Nhờ có tàm quý nên
có giới luật.
Không tạp nhạp là không
bị lẫn lộn các câu văn. Nếu được người hỏi đến thì
tuần tự trả lời. Nếu trả lời câu luật văn và chú
giải bằng ý nghĩa điên đảo thì cũng như người đi qua
đám gai, thật khó vượt được. Nếu có người đem lý (điên
đảo) này ra hỏi thì nên trả lời bằng câu nói của họ.
Nếu bị người hiểu biết vấn nạn thì đáp theo câu hỏi
không để bị lạc đề. Như đem chén vàng đựng mỡ sư
tử (?) không để bị chảy nên gọi là không xen tạp.
Tuần tự theo thầy
học tập thọ trì không quên nghĩa là (nhớ rõ) Ưu-Ba-Ly
thọ trì ( luật tạng) từ Như Lai, Ðà-Tả-Câu (Dàsaka)
thọ trì từ Ưu-Ba-Ly, Tu-Ðề-Na-Câu (Sonaka) thọ trì từ
Ðà-Tả-Câu, Tất-Già-Bà (Siggava), thọ trì từ Tu-Ðề-Na-Câu,
Mục-Kiền-Liên-Tử Ðế-Tu thọ trì từ Tất-Già-Bà... cho
đến Chiên-Ðà-Bạt (candavajji) thọ trì từ Ðế-Tu... như
vậy, các vị thầy truyền thừa cho đến ngày nay. Nếu
biết rõ như vậy gọi thọ trì kiên cố. Nếu không thể
nhớ hết tất cả danh hiệu các vị thầy ấy thì cần
phải nhớ danh hiệu một, hai vị.
Vị này có đầy đủ
ba pháp trên thì gọi là luật sư.
Là luật sư, khi chúng
tăng tập họp để giải quyết các tránh sự, đối với
sự việc này vị luật sư trước tiên phải xem xét sáu pháp
cho thật chính xác rồi mới đáp.
Hỏi: - Sáu pháp là gì?
Ðáp: - Một, quán xứ
(vatthu); hai, quán bổn (Màtika); ba, quán câu văn
(padadhajaniya); bốn, quán ba đoạn (tikapariccheda), năm, quán
tội trung gian (antaràpatti), sáu quán vô tội (anàpatti).
Hỏi: - Thế nào là quán
xứ?
Ðáp: - Khi đến chùa
phải che thân bằng cỏ, cây, lá, nếu lõa hình không che thân
mà vào chùa thì bị tội đột-kiết-la. Sau khi quán xét
tội tướng rồi, lại căn cứ vào luật bản làm chứng để
dập tắt tranh cãi; gọi là quán xứ.
Hỏi: - Quán bản nghĩa
là gì?
Ðáp: - Nếu cố ý nói
dối thì phạm tội Ba-dật đề. Ðây là tội thuộc năm thiên.
Quán xét tánh chất của tội trong từng thiên, lấy bản làm
chứng để dập tắt sự tranh cãi, gọi là quán sát bản.
Hỏi: - Quán sát câu văn
là gì?
Ðáp: - (Hành dâm với)
thân xác chưa bị hoại thì phạm tội thu-lan-giá. Như vậy
quán sát từng tính chất của tội trong bảy tụ tội tướng
rồi lấy bản làm chứng để dập tắt sự tranh cãi, gọi
là quán sát câu văn.
Hỏi: - Thế nào là ba?
Ðáp: - Tăng-già-bà-thi-sa
có ba phần, ba-dạ-đề có ba phần, quán sát trong ba phần này
(để phán quyết?) rồi lấy bản làm chứng để dập tắt
sự tranh cãi.
Hỏi: - Thế nào là quán
sát tội trung gian?
Ðáp: - Trường hợp
nổi lửa mà bị tội đột-cát-la. Như vậy, quán sát về
tội trung gian trong giới bổn và lấy bản làm chứng để
diệt tội tranh cãi.
Hỏi: - Thế nào là vô
tội?
Ðáp: - Không thọ
lạc, không có tâm trộm, không có tâm giết hại, không cố
ý nói dối, không có tâm nêu ra, không cố làm, không biết.
Như vậy, quán sát từng việc không có tướng tội, lấy
bản làm chứng để dập tắt tranh cãi.
Tỳ kheo nào biết rõ
bốn pháp tỳ-ny, thông thạo ba pháp, biết quán sát sáu pháp
thì thành tựu trong việc diệt trừ chánh pháp. Tỳ kheo nào
diệt tránh pháp rồi mà không bị phát sinh trở lại thì không
khác gì Phật còn tại thế. Tỳ kheo nào phạm giới đã
chế, phải đến gặp luật sư, đem những nghi ngờ của mình
về việc này ra hỏi. Trước hết, vị luật sư phải xem xét
kỹ, nếu có tội thì đáp có, không có tội thì đáp không,
cần phải sám hối thì bảo họ sám hối, nên chọ họ pháp
A-phù-ha-na (Abbhàna - xuất tội) thì bảo nên cho, nếu không
nên cho thì bảo không cần cho. Thấy có tội tướng của
ba-la-dy, không nên bảo rằng ông bị ba-la-dy. Vì sao? Ba-la-dy
đầu là dâm dục và dối trá thì tướng trạng dễ biểu
hiện, còn hai giới giết và trộm thì tướng trạng khó
biết rõ. Nếu do sự vi tế mà phạm thì tùy theo sự vi tế
mà giải thích. Thế nên không nên trực tiếp nói ngay với
người còn hồ nghi rằng ông phạm tội ba-la-dy. Nếu họ có
thầy, nên đáp rằng ông hãy trở về hỏi lại thầy mình,
và bảo họ về đi. Nhưng khi đến gặp luật sư (thầy
họ), họ hỏi rằng tội này như thế nào. Luật sư này xem
xét tội tướng ấy có thể chữa trị được. Nghe lời
luật sư này dạy xong, Tỳ kheo này phải trở về báo lại
với luật sư là chữa trị được. Luật sư này nói: - Lành
thay! Và làm theo lời nói ấy. Nếu họ không có thầy, thì
bảo họ hỏi các vị đồng học. Nếu đồng học bảo có
thể chữa trị và họ trở lại báo với luật sư. Luật sư
đáp: lành thay!
Nếu họ không có đồng
học thì bảo họ hỏi đệ tử. Nếu đệ tử đáp là có
thể trị và họ trở báo với luật sư. Luật sư bảo: Lành
thay! làm theo lời nói ấy.
Nếu đệ tử thấy có
tội tướng thì không được nói rằng thầy đã phạm tội
ba-la-dy. Vì sao?
Pháp sư nói: - Nên nói
(với họ) rằng khó có Phật ra đời, khó được đi xuất
gia, thọ cụ túc khó hơn. Sau khi nói như vậy xong, luật sư
quét dọn sạch sẽ phòng ốc và bảo Tỳ kheo đang nghi ngờ
kia ngồi yên suốt ngày. Sau đó, cho họ 30 pháp thiền bảo
hãy quán sát. Nếu giới không bị bệnh thì pháp thiền đến
với người quán, có uy nghi thông suốt và tâm nhập định.
Khi họ ngồi trong định qua một ngày mà vẫn không biết rõ
thì đến giờ đi ngủ luật sư đến hỏi họ: - Trưởng lão!
Tâm ý thầy thế nào? Ðáp: - Ðại đức! Tâm ý tôi vẫn
trong định.
Luật sư lại nói: - Người
xuất gia khó lắm, đối với pháp sa-môn cẩn thận chớ buông
lung, cần phải tu học.
Nếu người phá giới
mà thiền thì tâm không đắc định như ngồi trên gai. Vì
sao? Bị lửa của tâm trạo hối thiêu đốt, cũng như ngồi
trên đá nóng, không được an định nên họ đứng dậy đi.
Nếu luật sư đến nói
với họ: - Trưởng lão! Tâm ý thầy thế nào, có định không?
Ðáp: - Không định.
Luật sư nói: - Người
ở thế gian gây tội thì không thể che dấu. Khi vừa làm
xong, thiện thần hộ thân đã biết rõ trước. Lại nữa,
sa-môn, Bà-la-môn biết được tâm người. Trưởng lão!
Thầy hãy tùy nghi tìm nơi an ổn (sotthi) để sống.
Hết phẩm bốn loại
Tỳ-ny và ba pháp của luật sư.
Chú Giải Luật
Thiện Kiến
-Quyển Thứ Sáu-