|
. |
Theravàda
(Thượng-tọa bộ)
Chú Giải Luật Thiện Kiến
Samantapàsàdikà Nàma
Vinayatthakathà
Hán dịch:
Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra)
Việt dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh (Caràna-citto Bhikkhu)
Phật Lịch
2543 (1999)
---
o0o
---
Quyển
thứ nhất
Phẩm
Tựa
-ooOoo-
Thành kính đảnh
lễ chư Phật .
Ðấng trong trăm ức
kiếp, Thời gian không thể lường,
Vì tất cả chúng sinh, Ðến tận nơi cực nhọc,
Ðể độ khắp thế gian, Quy y Ðại-từ-bi.
Do không biết giáo pháp, Sinh tử mãi thế gian,
Cúi đầu xin đảnh lễ, Pháp vi diệu thậm thâm.
Phá trừ tan nát hết, Lưới vô minh phiền não.
Bậc đủ Giới-định-tuệ, Giải thoát, hạnh viên mãn,
Tu tập nhiều công đức, Tăng bảo ruộng phước tốt,
Con nhất tâm quy ngưỡng, Ðem đầu mặt kính lạy.
Quy kính Tam-Bảo rồi, Xin thuyết nghĩa Tỳ-ny,
Ðể chánh pháp trường tồn, Lợi ích khắp chúng sinh,
Nguyện đem công đức này, Tiêu trừ các nạn ác,
Ai ưa thích trì giới, Giải thoát các khổ đau.
-oOo-
Thành kính đảnh
lễ Ðức Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
Xin
thuyết minh rằng: - Giới luật được nói lần đầu tiên khi
đức Thế Tôn ở tại Tỳ-Lan-Nhã (Tena samayena buddho bhagavà
veranjàyam viharati). Ðiều này được Ưu Ba Ly (Upàli) là vị
đứng đầu nói ra trong đại hội kết tập giữa đại chúng
500 vị Tỳ kheo. Vì sao? Khi mới thành đạo, Như Lai đến vườn
Lộc-dã chuyển pháp luân Tứ-đế, cuối cùng thuyết pháp độ
Tu Bạt Ðà La (Subhadda). Khi làm xong những điều cần làm,
giữa rừng cây Sa-la thuộc quốc vương họ Mạt-la (Màla) nước
Câu-thi-na (Kusinarà) vào lúc rạng sáng ngày 15 tháng 2 (Visakhà
punnamadivasa paccùsasamaya), Ngài nhập Vô-dư Niết-bàn.
Sau đó bảy ngày, từ nước
Diệp-Ba (Pàvà) Ca Diếp cùng 500 Tỳ kheo tăng trở về nước
Câu-thi-na thăm viếng Thế Tôn. Trên đường gặp một đạo sĩ,
Ca Diếp hỏi:
- Ông gặp đại sư của tôi không?
Ðạo sĩ đáp:
- Sa môn Cù-Ðàm thầy
của ông qua đời đã bảy ngày rồi. Sau khi vị ấy Niết-bàn,
trời người đến cúng dường, tôi lấy được hoa trời
Mạn-đà-la này ở đó.
Nghe Phật đã Niết-bàn,
Ca Diếp cùng các đại Tỳ kheo quay quắt khóc lóc ngã lăn ra
đất. Khi ấy, có Tỳ kheo tên Tu-Bạt-Ðà-La Ma-Ha-La (Subhadra
mahallaka) nói rằng thôi ngừng lại đi, có gì đáng khóc, khi
Ðại sa-môn ấy còn sống thì việc này tịnh, việc này bất
tịnh, việc này nên làm, việc này không nên làm; từ nay tùy
theo ý thích của ta, muốn làm thì làm, không làm thì thôi.
Im lặng ghi nhớ lời nói
ấy, Ca-Diếp suy nghĩ: ác pháp chưa phát sinh, hãy kết tập pháp-tạng.
Nếu chánh pháp có mặt ở đời thì lợi ích cho chúng sinh.
Ca-Diếp lại suy nghĩ:
khi còn tại thế, Phật bảo A-Nan rằng sau khi Ta Niết-bàn,
những pháp và giới đã được nói ra là vị Thầy cao cả
của ông (Dhammo ca vinayo ca desito pannatto so vo mam' accayena satthà),
vì vậy Ta sẽ thuyết pháp ấy.
Ca-Diếp thầm nghĩ: khi còn
tại thế Như Lai đã đem y ca-sa (Kàsàyani vatthàni) cho ta. Và
đức Phật đã từng bảo các Tỳ kheo rằng khi Ta vào thiền
định thứ nhất, Ca-Diếp cũng vào định ấy; như vậy là Như
Lai khen ngợi ta. Ta được thánh lợi mỹ mãn không khác gì
Phật. Ðó là nhờ công đức của Như Lai ban cho ta. Cũng như
người tráng sĩ cổi áo giáp đang mặc trao cho con mình bảo nó
bảo hộ giòng dõi. Như Lai biết và nói trước rằng sau khi
Ngài diệt độ, Ca-Diếp sẽ hộ trì chánh pháp. Thế nên Như
Lai ban y ấy cho ta.
Tập họp các Tỳ kheo tăng, Ca-Diếp nói:
- Trước đây, tôi nghe
Tu-bạt-đà-la ma-ha-la nói rằng khi Ðại sa-môn còn sống,
việc này tịnh việc này bất tịnh, việc này nên làm việc
này không nên làm, từ nay theo ý thích của ta, muốn làm thì
làm, không làm thì thôi. Thưa các trưởng lão, chúng ta nên
kết tập pháp-tạng và luật-tạng.
Các Tỳ kheo thưa với đại đức Ca-Diếp:
- Ðại đức nên lựa
chọn các Tỳ kheo. Này Ðại đức Ca-Diếp , vị ái-tận Tỳ
kheo thông suốt tất cả chín bộ phận của Phật pháp
(Sakalanavangassatthusàsana pariyattidhare), tất cả học nhân Tu-đà-hoàn,
Tư-đà-hàm, không chỉ số trăm hay ngàn vị (aneka sate
anekasahassa). Bậc ái-tận Tỳ kheo thông hiểu ba tạng, đạt
đến bốn (vô ngại) biện, có năng lực thần thông lớn,
chứng ba đạt trí, được Phật khen ngợi, chỉ có 499 vị.
Ðại đức Ðại Ca-Diếp lý do chỉ chọn lựa được 499
vị, vì trưởng lão A-Nan (Ananda) đang ở địa vị hữu học
(Sekha sakaraniya) nên không được tính vào. Nhưng nếu không có
trưởng lão A-Nan thì không có người kết tập pháp.
Vì ngăn chận những sự
phỉ báng, đại đức Ca-Diếp (Mahàkassapa) không chọn lấy
A-Nan. Do đó, các Tỳ kheo thưa:
- A-Nan tuy ở địa vị
hữu học nhưng trước đây đã thân cận Phật nên thọ trì
kinh và kệ (Sutta geyya), mến chuộng pháp, là bậc kỳ lão, là
em con chú trong thân tộc Thích-Ca của Như Lai, lại không còn
thân cận với ba độc. Ðại đức Ca-Diếp, nên nhận lấy
A-Nan để đủ số 500 vị; đây là ý kiến của thánh-chúng.
Các vị đại đức Tỳ
kheo suy nghĩ: nên kết tập pháp tạng ở đâu? Thành Vương- xá
(Ràjagaha) có đầy đủ các việc cho sinh hoạt, chúng ta nên
đến đó an cư ba tháng để kết Tỳ-ny tạng, không nên để
các Tỳ kheo khác an cư ở đó. Vì sao? Sợ các Tỳ kheo khác
không tùy thuận, nên bảo họ đi nơi khác.
Bấy giờ, đại đức
Ca-Diếp bạch nhị kiết-ma (nattidutiyakamma) được nói rõ
trong phẩm Tăng-kỳ (Samgitikkhandhaka).
Sau khi Như Lai Niết-bàn,
lễ hội (sàdhukilana) được tổ chức suốt bảy ngày và cúng
dường (Dhàtupùja) xá-lỵ trong bảy ngày, kéo dài đến nửa
tháng, và chỉ còn một tháng rưỡi nữa là mùa hạ.
Biết gần đến an cư,
Ca-Diếp bảo các trưởng lão: Ðã đúng lúc chúng ta lên đường
đến thành Vương Xá.
Ðại đức Ca-Diếp đưa
250 Tỳ kheo đi bằng một đường. Ðại đức A-Nâu-Lâu-Ðà
(Anuruddhatthera) đưa 250 Tỳ kheo đi bằng đường khác. Hiền
giả A-Nan giữ ca-sa (pattacìvara) của Như Lai với chúng Tỳ
kheo vây quanh đi đến trú xứ cũ của Như Lai tại nước Xá-vệ
(Sàvattì). Gặp lại A-Nan, nhân dân thành Xá-vệ, buồn khổ
khóc lóc hỏi:
- Hiện nay Như Lai ở đâu
mà ngài đến một mình vậy?
Mọi người gào khóc như
là Như Lai mới vừa vào Niết-bàn. Hiền giả A-Nan giáo hóa
mọi người bằng pháp vô thường. Sau khi giáo hóa, A-Nan vào
vườn Kỳ-thọ (Jetavana), mở cửa phòng của Phật (Dasabalena
vasitagandhakuti), đem giường tòa của Ngài (mancapitha) ra ngoài
lau chùi và vào trong dọn rửa phòng, sau khi lau quét, vứt bỏ
hoa cúng dường đã héo, rồi xếp đặt giường tòa lại như
cũ. Hiền giả A-Nan làm các việc cúng dường như khi Phật còn
tại thế.
Sau khi Phật nhập
Niết-bàn, A-Nan ngồi quá nhiều, thân thể mệt nhọc, muốn
điều trị nên phải dùng sữa lấy trong lợi dưỡng tại chùa
trong ba ngày. Khi ấy có Bà-la-môn Tu-bà-na (Subha-màvana) đến
thỉnh A-Nan. A-Nan đáp:
- Hôm nay tôi dùng thuốc
nên không nhận lời được, ngày mai sẽ đến.
Hôm sau, A-Nan đem theo
một trưởng lão Tỳ kheo đến nhà Tu-bà-na. Vì Tu-bà-na hỏi
về ý nghĩa của kinh, thế nên trong phẩm thứ mười của A-hàm
gọi là kinh Tu-bà-na (Dìghanikàye Subha-suttam nàma dasamam
suttam).
Sau khi sửa chữa phòng xá
tại vườn Kỳ-thụ xong, muốn nhập hạ an cư nên A-Nan đi đến
thành Vương-xá.
Ðại đức Ca-Diếp, A
Nậu Lâu Ðà và chúng Tỳ kheo cùng đến thành Vương-xá. Trông
thấy cả 18 chùa lớn đều bị hao vì sau khi Như Lai diệt độ,
các Tỳ kheo vứt bỏ giá mắc y và các vật khác ngổn ngang
để ra đi, nên bừa bãi như vậy, cả 500 đại đức bí sô
theo lời Phật dạy, sửa chữa phòng nhà (vihàra parivena).
Nếu không sửa chữa thì ngoại đạo sẽ nói rằng khi còn
sống, sa-môn Cù-đàm sửa chữa phòng xá, sau khi Niết-bàn đệ
tử vứt bỏ đi. Vì ngăn ngừa sự chê bai này, cần phải
sửa chữa. Ca-Diếp nói: - Khi còn tại thế, đức Phật khen
ngợi việc trước tiên của an cư là sửa chữa phòng xá.
Sau khi tính toán dự trù,
Ca-Diếp đến gặp vua A-Xà-Thế để xin chi phí. Thấy Tỳ
kheo đến, vua lạy sát đất làm lễ và thưa: đại đức
cần việc gì?
Ca-Diếp đáp: - Cả mười
tám chùa lớn đều bị hư, muốn sửa chữa lại, nhà vua
biết cho.
Vua đáp: - Lành thay.
Vua cung cấp người đến
sửa chữa. Trong tháng trước mùa hạ, Ca-Diếp sửa chữa xong
chùa. Sau đó, tôn giả đến gặp nhà vua thưa:
- Việc sửa chữa chùa
đã xong, hiện nay chúng tôi muốn kết tập pháp-tạng và
tỳ-ny-tạng.
Vua đáp:
- Rất tốt, cầu chúc ý
nguyện thành tựu.
Nhà vua lại nói:
- Con sẽ chuyển pháp-luân
uy lực của vua chúa (Ànàcakka), các đại đức sẽ diễn
thuyết pháp luân vô thượng (Dhammacakka). Con xin tuân hành sự
sai khiến của các đại đức.
Chúng tăng đáp:- Trước
tiên, xây dựng giảng đường.
Vua hỏi: - Xây dựng
chỗ nào?
Ðáp: - Có thể xây bên
cạnh cửa thiền thất ở sườn trước của núi Ðể-bàn-na-ba-la
(Vebhàrapabbatapassa Sattapanniguhàdvàra), vì nơi ấy yên tịnh.
Vua thưa: - Rất tốt.
Nhờ vào uy lực của vua
A-xà-thế cũng như bằng kỹ xảo của Tỳ-xá-thiên ở cõi
trời Ðao-lỵ thứ hai (vissakamma), không bao lâu giảng đường
đã hoàn thành với đầy đủ kèo cột, vách ngăn, hành lang,
chạm khắc nhiều kiểu kỳ lạ. Trên giảng đường, được
trang trí với những vật báu xinh đẹp, treo các loại hoa
rực rỡ khắp nơi. Dưới đất cũng vậy, trang trí bằng các
loại xinh đẹp kỳ lạ không khác cung điện của Phạm-thiên
(Brahmavimàna). Năm trăm tòa ngồi hướng về phương Bắc được
trải bằng nệm len dày. Lại nữa, trong số những tòa cao
được trang trí bằng các loại báu, chiếc tòa cao tinh xảo
xinh đẹp nhất được chọn đặt hướng về phương Ðông để
chuẩn bị làm tòa thuyết pháp.
Chúng tăng bảo A-Nan: -
Ngày mai, tập họp chúng tăng, kết tập tạng luật nhưng
thầy còn ở địa vị Tu-đà-hoàn đạo thì làm sao gia nhập
được. Thầy chớ thối chí.
Khi ấy, A-Nan suy nghĩ: -
Ngày mai thánh chúng kết tập pháp, ta với địa vị sơ học
làm sao vào được?
Vào đầu đêm, A-Nan quán
niệm về thân (Kàyagatàya satiyà vìtinàmetvà) mãi đến nữa
đêm cũng chưa chứng đắc. A-Nan suy nghĩ: Trước đây, Thế Tôn
có dạy rằng ta đã tu tập các công đức, nếu nhập thiền
định thì mau chứng la-hán, lời Phật dạy là chắc thật,
chỉ vì tâm ta tinh cần thái quá, từ nay phải tu tập thuận
theo trung đạo.
Từ chỗ kinh hành
(camkama), sau khi đi rửa sạch chân rồi vào phòng, A-Nan ngồi
trên giường. Muốn nghỉ ngơi một chút nên nghiêng người định
nằm xuống, trong lúc chân vừa hỏng đất, đầu chưa đụng
gối thì tôn giả chứng quả La-hán. Nếu có người hỏi
rằng trong Phật pháp, vị nào đắc đạo không ở trong bốn
tư thế đi đứng nằm ngồi thì chính là A-Nan.
Bấy giờ vào ngày thứ
hai giữa tháng tức là ngày 17 tháng sáu, sau khi ngọ trai, thu
xếp y bát xong, đại đức Ca-Diếp tập tăng vào pháp-đường
(Dhammasabhà). Muốn biểu hiện sự chứng đắc cho đại chúng
biết, hiền giả A-Nan không cùng đi vào với chúng tăng. Ðã
vào bên trong, tăng thứ thứ tự an tọa xong, chừa lại chỗ
ngồi của A-Nan. Tuần tự các vị hạ tọa kính lễ thượng
tọa, đến chỗ trống, họ hỏi: - Chỗ này dành cho ai?
Ðáp: - Ðể cho A-Nan.
Hỏi: - A-Nan đang ở đâu?
Biết tâm niệm của chúng
tăng, A-Nan hiện thần túc, biến mất khỏi chỗ cũ và hiện
thân ra chỗ ngồi.
Sau khi chúng tăng đã an
tọa, Ðại Ca-Diếp thưa: -Các trưởng lão, thuyết Pháp-tạng
hay Luật-tạng trước?
Các Tỳ kheo đáp: - Ðại
đức, tạng Luật là mạng sống của Phật-pháp (Buddhasàsanassa
àyu). Tạng luật tồn tại thì Phật-pháp tồn tại. Thế nên,
chúng ta kết tập tạng luật trước.
Hỏi: - Ai làm pháp-sư?
- Xin cử trưởng lão Ưu-ba-ly
(Upali).
Trong chúng có người
hỏi: - Vì sao A-Nan không làm pháp-sư được?
Ðáp: - A-Nan không làm pháp-sư
được. Vì sao? Khi còn tại thế, Phật thường khen ngợi
rằng trong đệ tử Thanh văn của Ta, Ưu-Ba-Ly là người trì
luật đệ nhất.
Trong chúng có người nói:
- Ðã đúng lúc hỏi Ưu-Ba-Ly để kết tập Luật-tạng.
Tôn giả Ma-ha Ca-Diếp tác
bạch yết-ma hỏi Ưu-Ba-Ly: - Trưởng lão tăng già lắng nghe.
Nếu thời gian thích hợp với tăng, tăng đồng ý, tôi xin
hỏi Ưu-Ba-Ly về những điều trong pháp tỳ-ny. Ðây là lời
tác bạch.
Ưu-Ba-Ly tác bạch
yết-ma: - Ðại đức tăng già lắng nghe. Nếu thời gian thích
hợp với tăng, tăng đồng ý. Tôi xin trả lời về pháp
Tỳ-ny với đại đức Ca-Diếp . Ðây là lời tác bạch.
Sau khi bạch yết-ma xong,
Ưu-Ba-Ly chỉnh đốn y phục, hướng về đại chúng Tỳ kheo,
làm lễ sát đất, sau đó lên tòa an tọa, cầm quạt ngà che
trước mặt. Sau khi an tọa, Ca-Diếp hỏi Ưu-Ba-Ly: - Trưởng lão,
giới Ba-la-dy thứ nhất (Pathama paràjika) được nói ra ở đâu
và cho ai?
Ðáp: - Ðược chế ở
Tỳ-xá-ly (Vesàly), phát sinh do Tu-Ðề-Na con của Ca-Lan-Ðà
(Sudinna Kalandakaputta).
Hỏi: - Phạm tội gì?
Ðáp: - Phạm tội bất
tịnh hạnh (Methunadhamma).
Ca-Diếp hỏi Ưu-Ba-Ly
về tội, nhân duyên, người phạm, sự chế giới, chế thêm
(Vatthu, Nidàna, puggala, Pannatti, anupannatti), có tội (Àpatti) cũng
hỏi, không có tội (anàpatti) cũng hỏi. Như vậy, Ðại
Ca-Diếp hỏi và đư?c Ưu-Ba-Ly trả lời tường tận về nguyên
nhân gốc ngọn của pháp Ba-la-dy thứ nhất cho đến thứ hai,
thứ ba, thứ tư. Do đó, gọi là phẩm bốn Ba-la-dy.
Tuần tự hỏi về (13) Tăng-già-bà-thi-sa
(sanghàdisesa), hai pháp bất-định (Aniyata), ba mươi pháp Ny-tát-kỳ-ba-dạ-đề
(nissaggiyapàcittiya), chín mươi hai pháp Ba-dạ-đề (pàcittiya),
bốn pháp Ba-la-đề-đề-xá-ny (pàtidesaniya), bảy mươi lăm pháp
Chúng-học (sekhiya), bảy pháp Diệt-tránh (adhikaranasamatha). Như
vậy là kết tập xong phần đại Ba-la-đề-mộc-xoa (mahà-pàtimokkha
= mahà-vibhanga). Tiếp theo là hỏi về tám pháp Ba-la-dy của ny
gọi là phẩm Ba-la-dy, mười bảy pháp Tăng-già-bà-thi-sa, ba mươi
pháp Ny-tát-kỳ-ba-dạ-đề, (một trăm) sáu mươi sáu pháp
Ba-dạ-đề, tám pháp Ba-la-đề-đề-xá-ny, bảy mươi lăm pháp
Chúng học, bảy pháp Diệt-tránh. Như vậy là kết tập xong
phần Ba-la-đề-mộc-xoa của Tỳ kheo ny. Thứ đến, kết tập
về Kiền-đà (khandhaka), đến Ba-lỵ-bà-la (Hán dịch: Tam
tẫn tứ yết ma) (parivàna)... như vậy là tạng luật được
kết tập hoàn tất. Ðại đức Ca-Diếp đem hết từng vấn
đề ra hỏi và được Ưu-Ba-Ly trả lời đầy đủ, nên gọi
là Năm-trăm-la-hán kết tập tạng-luật. Sau đó, trưởng lão
Ưu-Ba-Ly hạ quạt xuống và rời khỏi tòa cao, hướng về các
đại đức Tỳ kheo làm lễ. Sau khi làm lễ, tôn giả trở
về chỗ ngồi cũ.
Ðại Ca-Diếp nói: - Ðã
kết tập luật-tạng xong, đến lượt kết tập pháp-tạng thì
vị nào làm pháp sư?
Khi ấy, các Tỳ kheo đề
cử trưởng lão A-Nan. Ðại đức Ca-Diếp tác bạch yết-ma:
Trưởng lão tăng già lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp
với tăng, tăng chấp nhận, tôi xin hỏi trưởng lão A-Nan về
pháp-tạng. Ðây là lời tác bạch.
Tôn giả A-Nan lại tác
bạch: - Ðại đức tăng lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp
với tăng, tăng chấp thuận, tôi xin trả lời với đại đức
Ca-Diếp về pháp-tạng. Ðây là lời tác bạch.
Bấy giờ, A-Nan rời
khỏi chỗ ngồi, bày vai áo bên phải, đảnh lễ đại đức
tăng rồi lên tòa, cầm lấy quạt bằng ngà.
Ðại đức Ca-Diếp hỏi
A-Nan: - Kinh Phạm-võng trong pháp-tạng được thuyết ra ở đâu?
A-Nan đáp: - Kinh ấy được
thuyết tại căn nhà ở vườn xoài của Vua (Ràjàgàraka
Ambalatthikà) trên đoạn đường giữa thành Vương-xá và
Na-lan-đà (Nàlanda).
Hỏi: - Phát sinh do ai?
Ðáp: - Phát sinh do hai người
là Tu-bi-dạ Ba-lỵ-bà-xà-ca và bà-la-môn Kiền-đa (Suppyya
paribbàjaka, Brahmadattamànavaka).
Ðại đức Ca-Diếp hỏi
A-Nan về nhân duyên đầu đuôi của Kinh Phạm-võng xong, thứ
đến hỏi về Kinh Sa-môn quả (Sàmannaphala) được thuyết ở
đâu?
A-Nan đáp: - Ðược
thuyết tại vườn Kỳ-bà (Jìvakambavana) thành Vương-xá.
Hỏi: - Thuyết cho ai?
Ðáp: - Ðược thuyết
cho vua A-xà-thế con của Phạm-khí... (Ajàtasattu Vedehiputta).
Như vậy, như các nhân
duyên đầu đuôi của kinh Sa-môn quả, theo phương pháp như
vậy, Ca-Diếp hỏi về năm Bộ-kinh (panca-nikàya). Thế nào là
năm Bộ-kinh?
Ðáp: - Kinh Trường A-hàm
(Àgama, Dìgha-Nikàya), Trung A-hàm (Majjhima-Nikàya), Tăng-thuật-đa
(Samyutta-Nikàya), Ương-quật-đa-la (Anguttara-Nikàya), Khuất-đà-ca
(Khuddaka-Nikàya).
Hỏi: - Kinh Khuất-đà-ca
là gì?
Ðáp: - Trừ bốn bộ A-hàm
ra, tất cả những pháp khác do Phật dạy đều gọi là
Khuất-đà-ca kinh.
Tất cả tạp-kinh đều
do A-Nan nói lại, trừ tạng Luật. Lời Phật dạy chỉ có
một vị những phân biệt thành hai công năng. Theo ý vị của
lời nói pháp mà chia thành ba là đầu, giữa, cuối; tam tạng
cũng như vậy bao gồm Giới, Ðịnh, Tuệ nhưng phân theo hình
thức giống nhau thì có năm Bộ kinh, nếu phân biệt riêng
từng loại thì có chín bộ kinh. Như vậy, tính theo từng nhóm
(tụ) thì có tám vạn pháp tạng (pháp-uẩn).
Hỏi: - Sao gọi là một
vị?
Ðáp: - Từ khi chứng
quả Vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác cho đến khi vào
Niết-bàn, trong bốn mươi lăm năm này, Thế Tôn thuyết
giảng giáo pháp cho trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la,
khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân... chỉ là một
vị; chỉ có một tính chất giải thoát đó là một vị.
Hỏi: - Thế nào là hai?
Ðáp: - Ðó là pháp-tạng
và luật-tạng.
Hỏi: - Nói đầu, giữa,
cuối là gì?
Ðáp: - Phật dạy có đầu,
giữa, cuối; Ðó là ba.
Nói kệ:
Lưu chuyển vô số
kiếp,
Ði mãi không ngừng nghỉ,
Chỉ tìm kẻ làm nhà,
Tái sinh nhiều kiếp khổ.
Nhà ơi! Thấy ngươi rồi,
Không còn làm nhà nữa,
Tất cả xương, gân, cốt,
Nát hết không tái sinh.
Tâm đã thoát phiền não,
Ái tận, đạt Niết-bàn. -- (Dhammapada 153,154)
Bấy giờ, có vị pháp-sư
(Buddhaghosa) (Keciyadà have pàtubhavanti dhammà ti khandhake udànagàtham
àhuesà panapàtipadadivase sabbannubhàvappattassa somanassamàyanànena
paccayàkàram paccavekkhantassa uppannà udànagàthà ti veditabhà)
giải thích kệ Ưu-đà-na này là: - Khi vừa chứng
nhất-thiết-trí vào ngày thứ ba trong tháng, Như Lai vui mừng
quán sát các nhân duyên nói nói lên là bài kệ, đây là lời
nói đầu tiên.
Ðã chứng pháp duyên
sinh, Kiền-đà-ca có nói.
Khi sắp nhập Niết-bàn,
Như Lai dạy bảo các Tỳ kheo:
- Sống trong pháp của
Ta, các thầy không nên lười biếng; đây là lời dạy tối
hậu. Những lời nói giữa hai thời gian trên, gọi là nói ở
giữa.
Hỏi: - Ba tạng là gì?
Ðáp: - Tạng Tỳ-ny
(Luật), tạng Tu-đa-la (Kinh), tạng A-tỳ-đàm (Luận).
(Vinayapitaka, suttantapitaka, abhidhammapitaka); gọi là tam tạng.
Hỏi: - Tạng Tỳ-ny
(Luật) là gì?
Ðáp: - Hai bộ Ba-la-đề-mộc-xoa,
hai mươi ba kiền-đà, ba-lỵ-bà-la; gọi là tạng Tỳ-ny. {Dve
vibhangànni (2 tỳ-băng-già), Dvàvísati Kha dhakàni (22 Kiền-đà),
sotasa parivàrà (16 phẩm ba-lỵ-bà-la)} gọi là tạng Tỳ-ny.
Hỏi: - Tạng Tu-đa-la
(kinh) là gì?
Ðáp: - Ðứng đầu là
kinh Phạm-võng, tất cả 34 kinh (catuttimsa-sutta) đều xếp vào
Trường A-hàm; đứng đầu là Căn-mâu-la-ba-lị-da (Mùlapariyàya-sutta
- Kinh Pháp môn căn bản), tất cả 152 (252?) kinh đều xếp vào
Trung A-hàm; đứng đầu là Ô-già-đa-la-a-bà-đà-na
(Oghatara-apadàna samp. Oghaturana-sutta), tất cả 7762 kinh đều
xếp vào Tăng-thuật-đa, đứng đầu là triết-đa-ba-lỵ-da-đà-na
tu-đa-la (cittapariyàdàna-sutta), tất cả có 9557 kinh đều xếp
vào Ương-khuất-đa-la; pháp cú-dụ, khu đa na, y đế Phật, đa
già ny ba đa, tỳ ma na, tỷ đa, thế lỵ già đà, bổn sinh, ny
thế bà, ba trí tham tỳ đà, Phật chủng tánh kinh, nhã dụng
tạng (Khuddakapàtha - Pháp ngắn, Dhammapada - Pháp cú, Udàna -
Tự thuyết, Itivuttaka - Bản sự, Suttanipàta - Tập kinh, Vimànavatthu
- Sự tích cung trời, Petavatthu - Sự tích ngạ quỉ, Therà - Trưởng
lão tăng kệ, Therigàthà - Trưởng lão ny kệ, Jàtaka - Bản
sinh, Niddesa - Mục lục, Patisambhidà - Con đường đưa đến trí
tuệ, Apadàna (dụ) - Chiến thắng của đức Phật, Buddhavamsa
- Pháp hệ của Phật, Cariyàpitaka - Tạng thánh-hạnh) chia thành
mười lăm phần đều xếp vào Khuất-đà-ca. Ðây gọi là
kinh tạng.
Hỏi: - A-tỳ-đàm
(luận) tạng là gì?
Ðáp: - Là pháp tăng già
tỳ băng già đà suất ca tha da ma ca bát xoa bức già la bộn
na kỳ ca tha bạt du (dhammasangani - pháp-tập-luận, vibhanga - phân-biệt-luận,
dhàtukathà - phạm-trù-pháp, puggalapannatti - nhân-thi-thiết-luận,
kathàvatthu - thuyết-sự, yamaka - song-luận, patthàna - nhân-duyên-luận).
Ðây là tạng A-tỳ-đàm.
Hỏi: - Tỳ-ny (luật) nghĩa
là gì?
Ðáp:
Ðem đến nhiều sự
tốt,
Ðiều phục nghiệp thân, miệng
Bậc biết ý nghĩa luật,
Giảng nghĩa luật như vậy.
Hỏi: - Năm thiên của
Ba-la-đề-mộc-xoa là gì?
Ðáp: - Ðứng đầu là
Ba-la-di, gồm năm thiên thành bảy nhóm tội (bảy tụ) là
mẫu số các loại giới (màtika) đưa đến thành tựu phạm
hạnh vững chắc, bằng những phương tiện rộng rãi để
kết giới, tùy theo những hành động bất thiện của thân và
miệng, đây là giữ lấy thân khẩu nghiệp nên gọi là
Tỳ-ni-da.
Hỏi: - Tu-đa-la (Kinh) nghĩa
là gì?
Ðáp:
Mở bày nhiều giáo nghĩa,
Lời thiện như hoa lúa
Kinh vĩ và dũng tuyền,
Thằng-mặc, chỉ quán xuyến
Gọi là Tu-đa-la,
Nghĩa thậm thâm vi diệu.
Hỏi: - Mở bày nghĩa là
gì?
Ðáp: - Nghĩa là tự mở
bày ra ý nghĩa và làm người khác hiểu nghĩa.
Hỏi: - Lời thiện là gì?
Ðáp: - Trước quán sát
tâm họ, sau đó mới nói ra lời toàn thiện.
Hỏi: - Trổ ra như hoa lúa
là gì?
Ðáp: - Như gié lúa trổ
tươi tốt thì kết hạt lúa chắc.
Hỏi: - Kinh vĩ là gì?
Ðáp: - Nhờ sợi chỉ
(ngang dọc) nên dệt được.
Hỏi: - Dũng tuyền là gì?
Ðáp: - Như suối, lấy
được nhiều nước và chảy ra mãi.
Hỏi: - Thằng mặc là gì?
Ðáp: - Như dây mực
thẳng có thể loại bỏ phần cong của khúc gỗ.
Hỏi: - Ðình (sợi chỉ)
là gì?
Ðáp: - Như hoa được
sợi chỉ xâu lại thì bị gió thổi cũng không phân tán, tu-đa-la
cũng như vậy, xâu kết các pháp tướng lại làm cho không phân
tán.
Hỏi: - A-tỳ-đàm
(luận) là gì?
Ðáp:
Có người ý, thức pháp,
Khen ngợi và phán đoán,
Pháp tăng trưởng được thuyết,
Gọi là A-tỳ-đàm.
Trong bài kệ nói về
A-tỳ-đàm này thì ý, thức, khen ngợi, phán đoán, tăng trưởng
là nghĩa A-tỳ-đàm.
Hỏi: - Ý (nghĩ) là gì?
Ðáp: - Trong kinh có câu:
Có người nói ý nghĩ rất mau lẹ như thế nào, đó là nghĩa
chữ ý của A-tỳ-đàm.
Hỏi: - (Tri) thức là gì?
Ðáp: - Luận thật rõ
về chỗ tối của câu kinh; gọi là ý nghĩa tri thức của
tỳ-đàm.
Hỏi: - Khen ngợi là gì?
Ðáp: - Vua trong các
luận vua (Ràjàbhìràan); đây là ý nghĩa khen ngợi của
a-tỳ.
Hỏi: - Phán đoán là gì?
Ðáp: - A-tỳ có đầy đủ
các năng lực; đây là ý nghĩa phán đoán của a-tỳ.
Hỏi: - Tăng trưởng là
gì?
Ðáp: - A-tỳ có rất
nhiều (abhikkanta) (Hán gọi là trưởng); đây là ý nghĩa tăng
trưởng (adhika) của a-tỳ.
Lại nói rằng sinh lên
Sắc-giới, tâm từ quán khắp một phương, đó là ý nghĩa
của thức, biết rõ sắc, thanh cho đến xúc là ý nghĩa của
thức. Tán thán nghĩa là pháp vô thượng trong pháp hữu học,
pháp vô học ở thế gian; đây là ý nghĩa tán thán. Phán đoán
nghĩa là tiếp xúc với pháp thì (nhờ nó mà) được hiểu
biết, đó là ý nghĩa phán đoán. Trưởng nghĩa là pháp vĩ đại
không thể lường được là pháp vô thượng; đó là ý nghĩa
trưởng. Nên hiểu nghĩa a-tỳ với nghĩa như vậy. Ðàm nghĩa
là pháp.
Hỏi: - Tạng (pitaka) nghĩa
là gì?
Kệ đáp:
Kho trí, chứa nghĩa vị,
Theo nghĩa khí cụ học
Ta gom lại nói chung,
Ngươi hiểu nghĩa kho chứa,
Là ý nghĩa của tạng.
(pitakam pitakatthavidù pariyattibhàjanatthato àhu tena samodhànetvà
tayo pivinàyadayo neyya)
Hỏi: - Tạng là gì?
Ðáp: - Tàng nghĩa là
học; đây là kho chứa pháp. Như trong kinh có câu: Như người
cầm dao, búa bén đi đến (atha puriso àgaccheyya kuddàlapitakam
àdàya'ti); đây là nghĩa khí cụ (bhàjana). Ðã nói chung về
ý nghĩa của ba tạng, phải biết có hai nghĩa. Ðã nói lược
về Tỳ-ny-tạng, chứa trí cũng gọi là chứa nghĩa, Tu-đa-la
cũng như vậy. Lại nói rằng A-tỳ-đàm cũng là chứa đựng,
vậy là đã biết rõ. Lại nữa, các sự việc chỉ dạy
Phật pháp trong tạng là dùng các ngôn ngữ phân biệt tùy
theo sự trói buộc mà học để loại trừ tướng sâu xa, phá
tan tướng hợp ly, tuần tự theo ý nghĩa mà phô diễn ra
bằng văn tự. Nay, tuần tự trình bày ý nghĩa ba tạng này.
Ngay trong A-tỳ nói a-tỳ
có những nghĩa là ý, thức, tán thán, đoạn tiệt, vượt
qua, rộng, lớn, vô thượng. Ý nghĩa là ghi nhớ. Thức là phân
biệt. Tán thán là thường được bậc thánh khen ngợi. Ðoạn
tiệt là phân biệt từng kệ. Vượt qua là vượt qua các pháp
khác. Rộng là pháp rộng rãi nhất trong các pháp. Lớn là pháp
vĩ đại nhất trong các pháp. Vô thượng là không pháp nào sánh
bằng. Chữ đàm có nghĩa là cử, thừa, hộ. Cử nghĩa là đặt
để chúng sinh vào đường thiện. Thừa nghĩa là nhận lấy
chúng sinh không cho đi vào ba đường ác. Chữ hộ nghĩa là
ủng hộ chúng sinh làm cho được các sự khoái lạc. Tạng là
vật chứa. Vật chứa là gì? Vật chứa nghĩa là có khả năng
tụ tập số nhiều.
Hỏi: - Tạng (a-tỳ-đàm)
và a-tỳ-đàm là đồng hay khác nghĩa?
Ðáp: - Ðồng nghĩa.
Hỏi: - Nếu đồng nghĩa
thì chỉ nói a-tỳ-đàm là đủ, cần gì phải nói tạng?
Ðáp: - Thánh nhân
thuyết pháp muốn cho câu văn phải đầy đủ nên đặt thêm
chữ tạng. Ý nghĩa ba tạng cũng như vậy. Lại nữa, vì chỉ
bảo, vì giáo dục, vì phân biệt, vì giữ gìn, vì xả bỏ, vì
tướng sâu xa, vì ly hợp. Tỳ kheo đến nơi nào cũng nên phô
diễn rõ tất cả ý nghĩa như vậy. Ba tạng như vậy theo uy
đức tuần tự như vậy hiển rõ nghĩa đúng, tùy tội lỗi,
tùy so sánh, tùy giáo pháp, tùy theo kiến chấp trói vào sự
sai khác của danh sắc. Người nào y theo tỳ-ny mà thực hành
thì được nhập định; đắc định thì đầy đủ ba đạt-trí.
Thế nên giới là gốc của việc tu tập. Nhờ chánh định nên
đạt được cả sáu thần thông. Người nào tu học A-tỳ-đàm
thì phát sinh trí tuệ chân thật. Trí tuệ chân thật đã phát
sinh thì đủ bốn biện tài. Người nào tùy thuận theo giới
luật thì đạt được thế gian lạc.
Thế gian lạc là gì? Người
có tịnh giới thì được trời người khen ngợi, thường
nhận bốn sự cúng dường của thế gian. Trong thế gian lạc
này loại trừ dục lạc. Như trong kinh nói rằng: Ðã hiểu
biết lời Phật dạy nên con không sống tại gia mà xuất gia
học đạo và chứng đắc đạo quả. Người đắc đạo nhờ
vào năng lực giới, định, tuệ.
Người theo điều ác là
do không có trí tuệ. Do không có trí tuệ nên hiểu sai lời
Phật dạy. Do hiểu sai nên phỉ báng Như Lai, tạo các nghiệp
ác, tự hại thân mình. Theo nhân duyên này, tà kiến phát sinh
tràn lan. Do kém học về a-tỳ-đàm mà bắt ép tâm làm gấp
thì tâm sinh phóng dật suy nghĩ lung tung. Như trong kinh có bảo
các Tỳ kheo: - Có bốn pháp không nên suy nghĩ mà suy nghĩ, thì
làm cho tâm phát cuồng. Pháp-sư (Buddhaghosa) nói: Như vậy,
tuần tự đã nói qua việc phá giới, tà kiến, loạn tâm,
thiện, bất thiện.
Kệ nói:
Ðầy đủ không đầy
đủ,
Ðạt được do hành động,
Tỳ kheo ưa thích học,
Phải mến trọng pháp này.
Biết ý nghĩa tạng như
vậy, cần phải biết tất cả lời Phật dạy. A-hàm nghĩa là
gì?
Pháp-sư nói: - Có năm
A-hàm. Một: Trường A-hàm. Hai: Trung A-hàm. Ba: Tăng-dục-đa
a-hàm. Bốn: Ương-khuất-đa-la a-hàm. Năm: Quật-đà-ca a-hàm.
Hỏi: - Trường A-hàm là
những gì?
Ðáp:- Gồm ba phẩm, đứng
đầu là kinh Phạm-Võng, tổng cộng có 34 kinh đều xếp vào
ba phẩm nên gọi là Trường A-hàm.
Pháp-sư hỏi: - Vì sao
gọi là trường (dài)?
Ðáp: - Tập hợp các bài
pháp thật dài nên gọi là trường.
Hỏi: - Sao gọi là A-hàm?
Ðáp: - A-hàm nghĩa là
tụ tập dung chứa. Như trong kinh nói: Phật dạy các Tỳ kheo
rằng trong ba cõi này, Ta không thấy một A-hàm nào như súc-sinh
a-hàm, chỉ là nơi tụ tập của chúng sinh ; là nghĩa này
vậy. Trung A-hàm cũng nên biết là không dài, không ngắn nên
gọi là trung. Có mười lăm phẩm, đứng đầu là kinh Căn-Học,
tất cả là 152 kinh gọi là Trung A-hàm.
Vào tháng bảy, Ðại
Ca-Diếp đã kết tập thành tựu pháp của Ðấng Thập-lực
xong. Thuận theo mọi người, mặt đất hoan hỷ khen ngợi: Lành
thay, lành thay.
Cho đến tận biên giới
nước, khắp nơi đều chấn động sáu cách và xuất hiện
nhiều tướng tốt đẹp kỳ diệu. Ðây gọi là kết tập
lần đầu của đại chúng 500 vị La-hán. Như có kệ nói:
Năm trăm vị trong đời,
La-hán kết pháp này,
Gọi kết-tập Năm-trăm,
Xin Chư-hiền cùng biết.
(yà loke, satehi pancahi katà
tena pancasatà ti ca, tereh'eva katattà ca therikà ti pavuccatìti)
Hỏi: - Khi ấy, đại chúng
nói: Ðại Ca-Diếp hỏi Ưu-Ba-Ly nơi kết giới, phạm xứ, nhân
duyên, người phạm về giới Ba-la-dy, như thế nào xin đại
đức cho biết.
Ðáp: - Thời gian, nhân
duyên, vì người nào mà kết giới, đây là thứ lớp kết
giới, tôi sẽ nói ra: Khi ấy, đức Phật ở Tỳ-lan-nhã...
(tena samayana Buddho Bhagavà Veranjàyam viharati).
Hỏi: - Việc này được
nói lại lúc nào?
Ðáp: - Nói trong lần
kết tập đầu tiên với 500 vị.
Như vậy, lần lượt các
ý nghĩa được trình bày ra.
Hỏi: - Vì sao Ưu-Ba-Ly nói
ra?
Ðáp: - Vì Ðại Ca-Diếp
.
Hỏi: - Như vậy giới
bổn đã ban hành, vậy ai đang giữ gìn, người giữ đang ở
đâu?
Ðáp: - Tôi sẽ nói
nguồn gốc, nay xin nói ý nghĩa từng câu. Khi ấy, đức Phật
ở Tỳ-lan-nhã. Ðây là nguồn gốc của luật-tạng được nói
ra như vậy. Trưởng lão Ưu-Ba-Ly thọ trì với đức Phật khi
Ngài chưa nhập Niết-bàn. Ngàn vạn vị La-hán chứng sáu
thần thông thọ trì với Ưu-Ba-Ly. Sau khi Thế Tôn Niết-bàn,
đứng đầu là Ðại Ca-Diếp với đại chúng từ bi tập
họp ở khắp đất Diêm-phù-lỵ (Jambusirivhaya).
Ai đã thọ trì? - Ðầu
tiên là Ưu-Ba-Ly, rồi tuần tự các vị luật sư truyền trì,
cho đến các đại đức trong đại chúng thứ ba thọ trì.
Tuần tự nêu ra danh hiệu các vị thầy ấy là Ưu-Ba-Ly, Ðại-tượng-câu,
Tô-na-câu, Tất-già-phù, Mục-kiền-liên-tử-tế-tu (Dàsaka,
Sonaka, Siggava, Tissa Maggaliputta) năm vị này chiến thắng
phiền não, tuần tự truyền trì luật không gián đoạn ở cõi
Diêm-phù-lỵ, cho đến tất cả các vị luật sư thứ ba đều
xuất phát từ Ưu-Ba-Ly, đó là kế thừa theo Ưu-Ba-Ly.
Vì sao? Chính Ưu-Ba-Ly
được nghe giới luật từ kim-khẩu của Phật, ghi nhớ trong
tâm rồi ban phát cho người khác. Trong những người được
biết, có vô số không thể tính hết là bậc học-nhân, Tu-đà-hoàn,
Tư-đà-hàm, A-na-hàm; có đến một ngàn ái-tận Tỳ kheo (Khìnàsava
- lậu tận). Ðại-tượng-câu là đệ tử của Ưu-Ba-Ly,
trực tiếp nghe thầy dạy, tự hiểu rõ hết lý sâu xa. Có vô
số bậc học nhân mới được lĩnh thọ, có một ngàn ái
tận Tỳ kheo. Tô-câu-na là đệ tử của Ðại-tượng-câu;
sau khi học luật trực tiếp với thầy, đọc tụng tự hiểu
thấu rõ luật. Có vô số bậc học-nhân mới được lĩnh
thọ, có một ngàn ái tận Tỳ kheo. Tất-già-phù là đệ tử
của Tô-na-câu. Sau khi trực tiếp học luật với thầy, trong
số 1000 vị A-la-hán, với căn tính tối thắng Tất-Già-Phù
đã hiểu biết về luật. Với vô số bậc học nhân mới
được lĩnh thọ, có trăm ngàn vô số ái tận Tỳ-kheo.
Khi ấy, tại Diêm-phù-lỵ
có vô số chúng Tỳ-kheo. Theo thần lực của Mục-Kiền-Liên-Tử
Ðế-Tu, đại chúng thứ ba muốn tạng Tỳ-ny như vậy hiện
diện trong Diêm-phù-lỵ (Evam idam vinayapitakam jampudipe tàva imàya
àcariyaparamparàya yàva tatiyasamgiti tàva àbhatan ti veditabbam). Các
pháp sư đã tuần tự thọ trì cho đến đại chúng thứ ba; nên
biết như vậy.
Hỏi: - Ðại chúng thứ
ba là gì?
Ðáp:- Ðây là (các đại
đức) kết tập xong diệu pháp rực rỡ bằng trí tuệ vào
lần thứ (ba).
Có bài kệ khen ngợi:
Năm trăm vị trú thế,
Với trí tuệ sáng suốt,
Ðại đức Ca-Diếp-Ba
Ðứng đầu năm trăm vị.
Cũng như đèn hết dầu,
Vào Vô-dư Niết-bàn.
Phẩm
Bạt-Xà-Tử: Kết tập Pháp tạng.
-ooOoo-
Bấy giờ, theo thời
gian ngày đêm, thánh chúng tuần tự ra đi. Sau khi Thế Tôn
Niết-bàn 100 năm (Vassasataparinibbute Bhagavati), trong nhóm
Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử ở thành Tỳ-Xá-Ly (Vesàlikà Vajjiputtakàbhikkhù)
phát sinh mười điều phi pháp ở Tỳ-Xá-Ly. Mười điều
ấy là:
-
Một, diêm tịnh - muối tịnh.
(kappati singilonakappo)
-
Hai, nhị chỉ tịnh - hai ngón
tay (kappati dvangulakappo)
-
Ba, tụ lạc gian tịnh - giữa
hai làng xóm tịnh (kappati gàmantarakappo)
-
Bốn, trú xứ tịnh (kappati àvàsakappo)
-
Năm, tùy ý tịnh (kappati
anumatikappo)
-
Sáu, cửu trú tịnh (kappati àcinnakappo)
-
Bảy, sinh hòa hợp tịnh
(kappati amathitakappo)
-
Tám, thủy tịnh (kappati jalogi pàtum)
-
Chín, bất ích lũ ni-sư đàn
tịnh - tọa cụ không biên tịnh (kappati adasakam nisidànam)
-
Mười, kim ngân tịnh (kappati jàtarùparajatam).
Mười điều phi pháp này
xuất hiện tại Tỳ-Xá-Ly. Có người con của Tu-Na-Ca thuộc
giòng Bạt-Xà-Tử tên là A-Tu ( Tesam Susunàgaputto Kàlàsoko nàma
ràjà pakkho ahosi) làm vua và ủng hộ phe Bạt-Xà-Tử. Khi
ấy, trưởng lão Da-Tu-Câu-Ca (Yasa Kàkandakaputta) là con của
Ca-Càn-Ðà, đang đi dần vào vùng Bạt-Xà, nghe xuất hiện mười
điều phi pháp tại thành Tỳ-Xá-Ly do nhóm Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử.
Vì nghĩ rằng ta không nên ở mãi đây mà để cho pháp đức
Thập-lực bị phá hoại, hãy tìm phương tiện diệt ác pháp
ấy nên trưởng lão đi đến Tỳ-Xá-Ly. Khi ấy, trưởng lão
Da-Tu-Câu Ca-Kiền-Ðà-Tử trú ở giảng đường Cưu-tá-già-la
thuộc rừng Ðại-Lâm.
Trong lúc thuyết giới,
các Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử đem bát đựng đầy nước đặt
giữa Tỳ-kheo tăng. Khi các Ưu-bà-tắc (upàsaka) ở Tỳ-Xá-Ly
đến, những Tỳ-kheo ấy bảo họ tùy ý cúng dường tiền
cho chúng tăng, nửa tiền (màsaka), hay một tiền để tăng
sắm y phục... tất cả nhu cầu được nói ra. Sự việc
kết tập Tỳ-ny tạng này với đúng số 700 Tỳ-kheo nên
gọi là Bảy trăm Tỳ-kheo kết tập Tỳ-ny tạng. Có hai
vạn Tỳ-kheo tập họp trong hội này. Trưởng lão Tỳ-kheo
Da-Tư-Na đứng ra vận động tổ chức việc này. Giữa chúng
Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử, trưởng lão Ly-Bà-Ða (Revata) hỏi và Tát-Bà-Ca
(Sabbakàmin) đáp, cùng nhau đem luật tạng ra để quyết đoán
mười việc phi pháp và dập tắt sự tranh chấp.
Sau đó, Tát-Bà-Ca thưa:
- Ðại đức, giờ đây chúng ta nên kết tập pháp và
luật.
Họ chọn lựa những
vị Tỳ-kheo thông suốt ba tạng cho đến những vị chứng
ba đạt trí. Sau khi chọn xong, tại vườn Bà-Lỵ-Ca (Vàtukàràma)
ở Tỳ-Xá-Ly, khi đại chúng đã tập họp, tiến hành theo
đúng như lúc Ca-Diếp kết tập pháp tạng lần đầu. Tất
cả sự cấu bẩn trong Phật pháp đều bị loại trừ, y
cứ vào tạng để hỏi, y cứ A-hàm để hỏi, y cứ chi
tiết để hỏi, y cứ các pháp-tụ để hỏi (Pitakavasena,
Nikàyavasena, Angavasena Dhammakkhandhavasena); tất cả pháp-tạng
và Tỳ-ny tạng đều được kết tập hết. Như vậy, vào
tháng tám, đại chúng này đã kết tập xong.
Có kệ khen ngợi:
Bảy trăm vị trong đời,
Gọi Bảy-trăm kết tập,
Như đã nói ở trước,
Các vị nên biết vậy.
Khi ấy, Tát-Bà-Ca-My
(Sabbakàmin), Tô-Mị (Sàlha), Ly-Bà-Ða, Quật-Xà-Tu-Tỳ-Ða,
Da-Tu (Revata, Khujjasobhita, Yasa), Bà-Na-Tham-Phục-Ða (Sànasambhùta)
đều là đệ tử của đại đức A-Nan-Ðà. Hai vị
Tu-Ma-Nậu-Bà (Sumana), Ta-Già-Mi (Vàsabhagàmin) đều là đệ
tử của A-Nậu-Lưu-Ðà (Anurudha), đã từng gặp đức
Phật; nói kệ:
Ðại chúng họp lần
hai,
Nói lại hết đại pháp,
Pháp được kết tập lại,
Làm xong việc cần làm,
Các Tỳ-kheo lậu tận,
Gọi kết tập lần hai.
Phẩm
A-Dục Vương: Kết tập Pháp-tạng.
Các vị đại đức suy
nghĩ rằng: Vào đời đương lai, trong pháp của Ðại-sư chúng
ta có nhơ bẩn như vậy xảy ra nữa hay không và các vị
ấy thấy trong đời tương lai sẽ có phi pháp nhơ bẩn nổi
lên.
Sau thời điểm này
chừng 100 năm, vào năm thứ 18, có vua A-Dục (Àsoka) nước
Ba-Tá-Lỵ-Phất (Pàtaliputta) ra đời. Vua chinh phục tất cả
đất đai cõi Diêm-phù-lỵ (sakala-jambudìpa), rất tin tưởng
Phật-pháp (Buddhasàsana) nên cúng dường vô số. Bấy giờ,
thấy vua A-Dục tin tưởng Phật-pháp như vậy, các ngoại đạo,
Phạm chí (titthiya) tham lam sự cúng dường nên chen vào
Phật pháp làm sa-môn nhưng vẫn phụng sự ngoại đạo như
cũ, dùng pháp ngoại đạo giáo hóa mọi người. Nhơ bẩn
lớn này trong Phật pháp, do tham dục nhơn bẩn tạo thành.
Khi ấy, các đại đức suy nghĩ rằng trong đời tương lai
chúng ta gặp nhơ bẩn ấy không. Sau khi quán sát, biết không
sống đến lúc ấy nên họ suy nghĩ: -Ai sẽ truyền bá được
Phật-pháp trong tương lai?
Quán sát khắp trong
Dục-giới, không tìm được người nào, lại quán sát thế
giới Phạm-thiên (Brahmaloka), các đại đức thấy có một
vị trời ngắn tuổi thọ đã từng thiền quán pháp-tướng.
Các đại đức nghĩ rằng chúng ta nên đến thỉnh vị
trời này giáng hạ vào thế gian, thọ thai vào nhà Bà-la-môn
Mục-Kiền-Liên, sau đó chúng ta sẽ giáo hóa làm cho người
ấy xuất gia; sau khi xuất gia, vị ấy sẽ thông đạt tất
cả Phật-pháp, chứng ba đạt trí, phá tan ngoại đạo, phán
quyết các pháp tranh cãi, chỉnh đốn và hộ trì Phật-pháp.
Sau khi suy nghĩ như
vậy, các vị đại đức này đến gặp vị Phạm-thiên.
Phạm-thiên này tên là Ðế-Tu (Tissa). Ðến gặp Ðế-Tu, các
vị đại đức nói rằng đến 100 năm sau vào năm thứ 18 có
cấu bẩn lớn phát sinh trong giáo pháp của Như Lai. Chúng tôi
xem xét khắp thế gian trong Dục-giới không thấy có một người
nào hộ trì Phật-pháp được; xem đến Phạm-thiên thấy
chỉ có ông. Lành thay, người thiện, nếu ông xuống thế
gian thì pháp của đức Thập-lực (Dasabalassa sàsana) sẽ
được ông hộ trì.
Phạm-thiên Ðế-Tu nghe
các đại đức nói rằng mình sẽ trừ diệt được cấu
bẩn phát sinh trong Phật-pháp nên rất vui mừng nói: - Lành
thay! Xin vâng.
Ðã được Phạm thiên
ấy cam kết đồng ý xong, các đại đức rời khỏi cõi
Phạm thiên.
Khi ấy, có đại đức
Hòa-Ca-Bà (Siggava), Chiên-Ðà-Bạt-Xà (Candavajji). Hai vị này
bậc trì ba tạng, thông ba đạt-trí (Tipitakadhara
pattapatisambhida khìnàsava), chứng ái-tận A-la-hán trong chúng
thiếu niên. Nhưng hai vị này không tham dự ngăn tránh-sự
(kết-tập lần hai). Các vị đại đức nói với hai trưởng
lão: Hai vị không tham dự việc ngăn được tránh-sự đúng
lúc nên chúng tăng y vào việc này trị phạt hai vị. Tương
lai, có vị Phạm-thiên tên Ðế-Tu sẽ sinh vào nhà Bà-la-môn
Mục-Kiền-Liên. Hai vị hãy chia nhau, một người đến đó
tiếp nhận và độ cho xuất gia; một người dạy học
Phật-pháp.
Sau đó, các vị đại
đức A-la-hán tùy theo tuổi thọ dài ngắn mà tuần tự vào
Niết-bàn.
Có bài kệ:
Chúng thứ hai Bảy-trăm,
Hòa hợp diệt phi pháp,
Vì tương lai giáo pháp,
Ðã làm cho trường tồn,
Bậc ái-tận tự tại,
Chứng đắc ba đạt trí,
Có năng lực thần thông,
Vẫn không thoát vô thường,
Tôi xin kể danh hiệu,
Ðể truyền đến sau này,
Vậy đời sống vô thường,
Biết rõ khó sống còn,
Nếu muốn được bất tử,
Nên chuyên cần tinh tấn.
Nói về chúng tăng
thứ hai này, Ma-ha Phạm-thiên Ðế-Tu (Tissa Mahàbrahman) từ
Phạm thiên giới giáng hạ sinh vào nhà Bà-la-môn
Mục-Kiền-Liên (Moggalibrahmana). Khi ấy, thấy Ðế-Tu đã thác
thai vào nhà Bà-la-môn Mục-Kiền-Liên, hằng ngày Hòa-Ca-Bà
đến nhà ấy khất thực cho đến bảy năm. Vì sao? Vì tạo
điều kiện để hóa độ. Suốt cả bảy năm, tại nhà này,
tôn giả không khất thực được thức ăn, xin nước cũng
không được. Qua bảy năm, tôn giả vẫn đến khất thực,
được người trong nhà nói: Ðã ăn xong rồi, xin đại đức
hãy đi sang nhà khác.
Hòa-Gia-Bà suy nghĩ:
Ðã được họ nói đến, vậy nên trở về.
Trên đường từ chỗ
khác trở về nhà, gặp Hòa-Bà-Ca, Bà-la-môn kia nói: - Ối
cha! Này người xuất gia, có phải vừa ra khỏi nhà tôi, có
được gì không?
Ðáp: - Ðược.
Về đến nhà, Bà-la-môn
này hỏi gia nhân: - Có cho Tỳ-kheo khất thực món gì không?
Ðáp: - Không cho gì
cả.
Nói: - Tỳ-kheo nói
dối, nếu ngày mai ông ấy đến đây, ta sẽ hỏi cho rõ.
Sáng hôm sau, Bà-la-môn
ngồi chờ trước cửa. Khi đại đức Hòa-Ca-Bà đến, Bà-la-môn
hỏi: - Này đại đức! Hôm qua ông nói có nhận được nhưng
chắc chắn không có gì; vì sao nói dối, pháp Tỳ-kheo có
được nói dối không?
Ðại đức Hòa-Ca-Bà
đáp: - Tôi đến nhà ông đã bảy năm nhưng không được gì
cả, hôm qua được nghe gia nhân nói bảo tôi đi sang nhà khác;
thế nên nói có được.
Bà-la-môn thầm nghĩ: -
Tỳ-kheo này chỉ được lời nói mà nói có được. Lành
thay! Chính là người biết đủ. Nếu được ăn uống, tất
người ấy rất hoan hỷ.
Bà-la-môn liền vào
trong, lấy phần thức ăn của mình dâng cúng cho Hòa-Ca-Bà và
thưa rằng từ nay về sau, xin ngài đến đây nhận thức ăn.
Do đó, hằng ngày Hòa-Ca-Bà
đến nhận thức ăn. Thấy Hòa-Ca-Bà đầy đủ uy nghi nên Bà-la-môn
sinh tâm ý hoan hỷ. Khi đã có tâm hoan hỷ, ông ta lại
thỉnh: - Ðại đức! Từ nay về sau đừng đến khất thực
nhà khác nữa, mà đến thọ thực ở đây luôn.
Hòa-Ca-Bà im lặng
nhận lời.
Hằng ngày, sau khi thọ
thực, tôn giả giảng dạy Phật pháp rồi ra về. Bấy
giờ, con trai người Bà-la-môn vừa được 16 tuổi, đã
học xong ba sách Vi-đà theo pháp Bà-la-môn (Tinnam vedànam pàragu
ahosi). Thiếu niên Bà-la-môn này vừa từ Phạm-thiên giáng
hạ nên còn ưa thích sự tịnh khiết, chọn trước ghế dài
riêng cho mình không cho người khác dùng chung. Khi sắp đến
gặp thầy học, chọn ghế dài riêng cho mình, lau chùi sạch
sẽ, treo lên giữa nhà rồi mới ra đi. Sau đó, đại đức
Hòa-Ca-Bà đến nhà, suy nghĩ: Ðã đến lúc rồi, ta tới lui
ở đây nhiều năm nhưng chưa nói chuyện với thiếu niên Bà-la-môn
này, nên dùng cách gì để hóa độ nó đây.
Tôn giả dùng thần
lực che mất không thấy được ghế dài trong nhà, chỉ
thấy ghế dài (pallanka) của thiếu niên Bà-la-môn. Thấy tôn
giả Hòa-Ca-Bà đến, Bà-la-môn tìm ghế ngồi khắp nơi nhưng
không có, chỉ thấy ghế của con mình nên lấy đưa cho tôn
giả ngồi.
Trở về nhà, thấy Hòa-Ca-Bà
ngồi trên ghế dài của mình đã chọn nên thiếu niên Bà-la-môn
rất tức giận. Anh ta hỏi gia nhân: Ai đem ghế dài ta đã
chọn cho sa-môn ngồi vậy.
Khi Hòa-Ca-Bà thọ
thực xong, thiếu niên Bà-la-môn đã bớt tức giận. Ðại
đức nói với thiếu niên này: - Này con! Con biết được gì?
Ðáp: - Thưa Sa-môn, con
chẳng biết được gì?
Hỏi: - Vậy ai biết?
Thiếu niên Bà-la-môn
hỏi Hòa-Ca-Bà:
- Sa-môn biết pháp Vi-đà
không?
Hỏi như vậy vì cho là
Sa-môn này đều biết hết.
Ðại đức Hòa-Ca-Bà
thông suốt cả ba sách Vi-đà, Càn-thư (Nighandu) (Hán dịch là
sách vạn vật), Khai-thư (ketubha), Y- để-ha-tả (Itihàsa,
Akkharappabheda), phân biệt được tất cả văn tự. Thiếu niên
Bà-la-môn này có những pháp còn nghi ngờ chưa thông hiểu
được. Vì sao? Do thầy cậu ta không hiểu rõ. Thiếu niên Bà-la-môn
này hỏi Hòa-Ca-Bà từng vấn đề nan giải và được giải
đáp tận cùng.
Hòa-Ca-Bà nói với
thiếu niên Bà-la-môn: - Con đã hỏi nhiều rồi, đến lượt
ta hỏi một việc; con hãy trả lời.
Thiếu niên Bà-la-môn nói:
- Lành thay! Thưa Sa-môn, con sẽ phân biệt mà trả lời.
Hòa-Ca-Bà đem trong hai
tâm (cittayamaka) ra hỏi: - Tâm của người nào đã phát sinh
thì không diệt, tâm của người nào bị diệt thì không
sinh, tâm của người nào khi diệt thì diệt, tâm người nào
khi sinh thì sinh (Yassa cittam uppajjati na nirujjati, tassa cittam
nirujjhissati n'uppajjissati, yassa và pana cittam nirujjhissati
n'uppajjissati, tassa cittam uppajjati na nirujjhati).
Khi ấy, hết ngó lên
trời rồi lại cúi nhìn xuống đất, không biết tại sao
cả nên thiếu niên Bà-la-môn hỏi lại Sa-môn: - Thưa Sa-môn,
đây là nghĩa gì?
Ðáp: - Ðây là Vi-đà
của Phật. (Buddhamanta)
Thiếu niên Bà-la-môn
thưa: - Ðại đức dạy cho con được không?
Ðáp: - Ðược.
Hỏi: - Làm sao được
học?
Ðáp: - Nếu con xuất
gia thì sau đó được học.
Bấy giờ, rất vui
mừng, đến gặp cha, thiếu niên Bà-la-môn ấy thưa rằng: -
Sa-môn này biết Vi-đà của Phật, con muốn đến học; nhưng
với hình thức áo trắng thế tục thì Sa-môn không dạy,
bảo con xuất gia sau đó mới được học.
Sau khi suy nghĩ, cha nói:
- Lành thay! Nếu con xuất gia, học Vi-đà xong hãy mau về nhà.
Thanh niên Bà-la-môn suy
nghĩ: - Ta đến học Vi-đà với Sa-môn này, sau khi học xong
sẽ trở về.
Khi sắp lên đường,
cha mẹ răn dạy: - Con phải cố gắng học tập, cho phép con
lên đường.
Ðáp: - Con không dám
phiền cha mẹ răn dạy.
Khi ấy, con người Bà-la-môn
đến gặp Hòa-Ca-Bà và được tôn giả độ cho làm sa di,
rồi đem 32 pháp thiền định (về thân thể) dạy cho vị này
tư duy. Trong thời gian ngắn, vị này đắc Tu-đà-hoàn đạo.
Hòa-Ca-Bà suy nghĩ:
Thanh niên này đã đắc đạo tích, không còn thích về nhà.
Như hạt giống đã rang cháy không còn mọc nữa, sa di này cũng
như vậy.
Tôn giả lại nói: -
Nếu ta cho học pháp thiền định sâu xa thì người này sẽ
chứng quả A-la-hán và thích sống an tịnh, không còn chịu
học Phật-pháp nữa. Từ nay, ta nên đưa vị này đến gặp
Chiên-Ðà-Bạt-Xà (Candavajjitthe rassasantika) để học
Phật-pháp và thực hiện được ý định của ta.
Hòa-Ca-Bà nói: - Lành
thay! Sa di đến đây (ehi tvam sàmanera), con có thể đến
gặp đại đức Chiên-Ðà-Bạt-Xà để học Phật-pháp không?
Ðến nơi, con thưa với vị ấy rằng: Ðại đức, thầy con
sai đến đây để học tập Phật pháp.
Ðược Sa di này thưa,
Chiên-Ðà-Bạt-Xà đáp:
- Lành thay sa di, ngày
mai sẽ học.
Sau đó, Ðế-Tu được
học tất cả Phật-pháp chỉ trừ luật tạng. Sau khi học
tập, Ðế-Tu được thọ giới cụ túc và chưa đầy một năm
đã thông suốt Luật tạng. Khi đã hiểu biết hết ba
tạng, Ðế-Tu được hòa thượng và A-xà-lê (Àcariyupajjhàya)
đem hết Phật pháp giao phó cho rồi tùy theo tuổi thọ mà
họ vào Niết-bàn.
Khi ấy, Ðế-tu chuyên
tu thiền định, chứng quả La-hán, đem Phật pháp giáo hóa
mọi người.
Bấy giờ, vua Tân-Ðầu-Sa-La
(Bindusara) có cả trăm (101) người con. Sau khi vua Tân-Ðầu-Sa-La
qua đời, trong bốn năm vua A-Dục giết hết các anh em khác,
chỉ còn để lại một người em cùng mẹ (ekamàtikam
tissakumaram thapsantika). Qua bốn năm, vua A-Dục mới tự xưng
vương. Từ khi Phật vào Niết-bàn đến nay là 218 năm (Tathàgatassa
parinibbànato dvinnam vassasatànam upari atthàrasame 218 vasse
sakala-jambudipe-ekarajjabhisekam pàpuni). Sau đó, vua A-Dục
thống lĩnh hết cả cõi Diêm-phù-lỵ. Tất cả vua khác đều
phục tùng. Uy thần của vua bao trùm cả hư không đến mặt
đất trong một do-tuần.
Hằng ngày, các quỉ
thần ở ao A-nậu-đạt (anotattadaha) đem đến tám gánh có
16 chum nước để dâng cho vua. Khi ấy đã tin tưởng Phật
pháp nên vua A-Dục đem tám chum nước dâng Tỳ-kheo tăng; hai
chum dâng đến vị thông ba tạng; hai chum tặng cho phu nhân
của vua, và xử dụng bốn chum. Hằng ngày, quỉ thần ở núi
Tuyết dâng cây đánh răng mềm mại thơm đẹp (dantakattha) tên
la-đa (nàgalatà) dâng cho vua. Vua đem cây chà răng này ban phu
nhân và thể nữ trong cung một vạn sáu ngàn người, sáu
vạn Tỳ-kheo trong chùa, dùng hằng ngày đầy đủ. Lại có
quỷ thần ở núi Tuyết dâng trái thuốc tên A-ma-lặc,
Ha-la-lặc (agadàmalaka, agadaharitaka). Loại trái này màu vàng
kim, hương vị hiếm có. Lại có quỷ thần dâng trái Am-la
chín (ambapakka). Hằng ngày, lại có quỷ thần dâng năm
loại y phục màu hoàng kim và khăn tay (hatthapunchanapattaka), dâng
nước mật hiền thánh, dâng hương thoa, hoa xà-đề. Vua
rồng dưới biển dâng thuốc trị mắt danh tiếng (anjana).
Tại bờ ao A-nậu-đạt có lúa thơm tự nhiên được chuột
bóc sạch vỏ, lấy ra hạt gạo sạch. Hằng ngày, chim anh vũ
mang 90 gánh gạo này đến dâng vua. Ong mật làm tổ trong
cung của vua, dâng mật cung cấp cho vua. Bay đến chỗ vua
ở, chim Ca-lăng-tần-già (karavikasakuna) ca hót những âm thanh
hòa nhã làm vui lòng vua. Nhà vua có những uy thần như vậy.
Một hôm, vua làm xích
khóa bằng vàng, sai người đưa vua rồng biển về. Vua
rồng biển này sống lâu một kiếp nên đã từng thấy
bốn đức Phật thời quá khứ. Khi vua rồng đến nơi, vua
mời ngồi vào tòa sư tử và che lọng trắng ở trên, đem các
loại hương hoa cúng dường. Vua A-Dục cổi chuỗi ngọc đang
mang, đeo cho vua rồng biển, đem một vạn sáu ngàn kỹ nữ
vây quanh cúng dường và nói với vua rồng: - Nghe đức Như
Lai có tướng tốt đặc biệt, ta muốn nhìn thấy, long vương
hãy hiện ra cho.
Nghe lệnh vua, bằng
thần lực của mình, vua rồng biển biến thân mình ra hình
tướng Như Lai (Sammàsambuddhassa rùpa) trang nghiêm bằng các công
đức vi diệu với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp
như hoa sen, hoa Uất-ba-la nở xinh đẹp trên mặt nước,
trang hoàng với những ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng
chiếu xa một tầm như các ngôi sao trên không trung, như
cầu vồng, như điện quang xoay tròn tỏa ra, như núi vàng
rực rỡ bằng ánh sáng các loại châu báu chung quanh; tất
cả mọi người nhìn không chán; các phạm, thiên, rồng,
dạ-xoa, càn-thát-bà... chăm chú chiêm ngưỡng trong suốt
bảy ngày đêm. Nhìn thấy thân tướng Như Lai, vua A-Dục
rất hoan hỷ.
Trong suốt ba năm từ
khi lên ngôi, chỉ biết phụng sự ngoại đạo (bàhirakapàsanda),
đến năm thứ tư nhà vua mới có tín tâm với Phật pháp.
Nhà vua phụng sự ngoại đạo vì khi tại vị phụ vương
của vua là Tân-Ðầu-Sa-La tin tưởng ngoại đạo, cúng dường
cho sáu vạn Bà-la-môn hằng ngày. Vua và phu nhân, trong cung
đều phụng thờ ngoại đạo vì thừa hành theo tín ngưỡng
của cha. Một hôm, vua A-Dục tổ chức cúng dường các Bà-la-môn.
Ngồi trên điện, vua nhìn thấy các Bà-la-môn nhìn ngó hai bên
không có phép tắc gì cả. Thấy như vậy, vua suy nghĩ: Ta
sẽ tuyển chọn, chắc chắn có những vị đủ phép tắc và
sẽ cúng dường các vị ấy.
Sau khi suy nghĩ, vua
bảo các đại thần: - Này các khanh, ai có phụng sự các
Sa-môn, Bà-la-môn thì mời họ vào cung ta sẽ cúng dường.
Các quan đáp: - Lành
thay.
Sau khi trở về, các
quan mời những vì Ny-kiền-đà (nighantha), ngoại đạo... mà
họ phụng sự vào cung vua. Ðến nơi, các quan tâu: - Ðây là
các vị la-hán của chúng tôi.
Khi ấy, vua A-Dục bố
trí những chỗ ngồi cao thấp đẹp xấu không giống nhau và
bảo các ngoại đạo tùy theo khả năng của mình mà ngồi vào
chỗ. Nghe vua nói như vậy, các ngoại đạo ngồi theo sở thích
mình. Có người ngồi trên ghế dài, hoặc ngồi trên tấm ván.
Thấy như vậy, vua suy nghĩ: Những ngoại đạo này nhất định
không có pháp tắc.
Nghĩ như vậy, vua nói: - Ngoại đạo như vầy
thật không đáng cúng dường.
Do đó, sau bữa ăn, vua ra lệnh họ ra về ngay.
Một hôm, ở bên cửa
sổ (sìhapanjara) trên cung điện, thấy một sa-di tên là Nê-Cù-
Ðà (Nigrodha) đang đi ngang trước điện với dáng đi uy nghi
vững vàng (Iriyàpathàsampanna). Vua hỏi: - Ðấy là Sa-di nào
vậy?
Cận thần đáp: - Sa-di
Nê-Cù-Ðà, là con của Tu-Ma-Na con trưởng của tiên vương
(Bindusàraranno jetthaputtassa Sumanaràjakumàrassa putto).
Pháp-sư (Buddhaghosa) nói:
Sau đây, tuần tự ta sẽ kể lại nhân duyên ấy. Sau khi vua
Tần-Ðâu-Sa-La bị bệnh qua đời, từ nước Uất-chi
(ujjenirajja) là nơi được phong, vua A-Dục trở về nước
của cha và giết ngay thái tử Tu-Ma-Na và tự giữ lấy
việc nước. Sau khi giết thái tử Tu-Ma-Na, vua A-Dục kiểm
soát hết trong cung. Vợ của Tu-Ma-Na đã có thai được mười
tháng, thay đổi y phục đi trốn, đến thôn Chiên-đà-la
(candàlagàma) gần thành. Gần thôn, có cây đại thụ tên Nê-Cù-Ðà.
Có một vị trời làm thọ thần ở đây. Thấy vợ của
Tu-Ma-Na, thọ thần nói: - Hãy đến đây.
Nghe thần cây gọi, bà
này liền đến nơi. Dùng thần lực của mình, thọ thần hóa
ra một cái nhà và bảo bà ấy:
- Bà hãy ở trong nhà này.
Nghe bảo như vậy, bà
ấy vào nhà và ngay đêm ấy sinh được một bé trai nên người
mẹ đặt tên là Nê-Cù-Ðà. Vì vậy, chủ thôn Chiên-đà-la
cung kính cung cấp không khác gì nô tỳ thấy người chủ.
Khi ấy, vương phi này đã sống trong ngôi nhà của thọ
thần đến bảy năm và Nê-Cù-Ðà lên bảy tuổi.
Khi ấy, có vị Tỳ-khưu
A-la-hán tên là Bà-Lưu-Na (Mahàvaruna) dùng thần thông quán sát
Nê-Cù-Ðà, thấy có nhân duyên được hóa độ, nên suy nghĩ:
Ðã đến lúc rồi, sẽ độ cho cậu bé ấy làm sa-di.
Tôn giả đến gặp Vương
phi xin độ Nê-Cù-Ðà làm sa-di. Sau khi được vương phi
chấp nhận, tôn giả thế độ cho Nê-Cù-Ðà làm sa-di. Khi tóc
chưa rơi hết xuống đất, sa-di này đã chứng A-la-hán
(khuragge yeva arahattam pàpuni). Một hôm, sau khi dọn dẹp,
sa-di này mặc y phục đàng hoàng đến gặp thầy mình để
cúng dường rồi cầm y bát (Pattacìvaram àdàya) đi đến
chỗ người mẹ, vào thành bằng cửa Nam, đi ngang trước
cung điện và định ra cửa phía Ðông. Khi ấy, đang kinh hành
qua lại về hướng Ðông trên điện, thấy sa-di Nê-Cù-Ðà
với uy nghi đỉnh đạc đang đi nhìn dưới đất cách bảy
tấc nên tâm nhà vua trở nên thanh tịnh...sự việc này như
nói ở trước; sẽ nói tiếp theo.
Bấy giờ, vua A-Dục
suy nghĩ: Vị sa-di này uy nghi cử chỉ đàng hoàng từ tốn,
tất có pháp lợi của bậc thánh (lokuttaradhamma).
Sau khi gặp sa-di này,
nhà vua rất hoan hỷ tin tưởng, phát sinh tâm từ bi. Vì sao?
Trong đời quá khứ, sa-di này là anh vua A-Dục, đã cùng nhau
làm các công đức. Có bài kệ:
Do nhân duyên đời trước,
Nên đời này hoan hỷ,
Như hoa Uất-la-bát
(uppala) Nở tươi tốt trong nước.
Khi tâm từ bi đã phát
sinh, vua A-Dục không kềm lòng được, vội vàng sai ba đại
thần đi gọi sa-di ấy. Các đại thần đi đã lâu nhưng không
thấy trở về. Vua lại sai ba đại thần khác đến bảo
sa-di: - Sa-di ơi! Hãy đến mau.
Khi ấy, với uy nghi
nghiêm trang, sa-di này từ tốn đi đến. Thấy sa di đến,
vua bảo hãy tự xem xét mà chọn chỗ ngồi tùy ý. Quan sát
khắp mọi người, biết rõ không có Tỳ-kheo, sa di định
ngồi vào tòa cao có che lọng trắng nên ra dấu để vua
nhận bát. Thấy sa di ra dấu, vua thầm nghĩ: sa di này chắc
là gia chủ.
Sau khi đưa bát cho vua,
sa di ngồi vào tòa của vua. Nhà vua lấy thức ăn của mình
dâng cho sa di. Sa di chỉ nhận thức ăn vừa đủ no. Sau khi
sa di thọ trai xong, vua hỏi: - Này sa di! Thầy có biết hết
lời dạy của thầy không?
Ðáp: - Tôi biết một
phần nhỏ.
Vua nói: - Lành thay, xin
nói cho tôi nghe.
Ðáp: - Lành thay, đại
vương, tôi sẽ nói.
Sau khi suy nghĩ: theo
khả năng tiếp thu của vua mà ta nói pháp cú để chú
nguyện (Dhammapada); sa di nói nữa bài kệ:
Sống không biếng
nhác là Niết-bàn
Ai sống biếng nhác là sinh tử.
(Appamàdo amatapadam, pamàdo maccuno padam - Dh.21 -
Giới vi cam lộ đạo,
phóng dật vi tử kính - Pháp cú kinh, Phóng dật phẩm).
Nghe xong, vua nói với
sa di: - Tôi đã nghe rồi, xin nói tiếp cho hết.
Sau khi sa di chú
nguyện, vua thưa: - Hằng ngày xin cúng dường tám phần ăn.
Sa di đáp: - Lành thay,
tôi xin dâng lại cho thầy (upajjàya)
Vua hỏi: - Thầy của
sa di là ai?
Ðáp: - Vị không gây
tội, thấy tội thì quở trách đó là thầy tôi.
Vua nói: - Xin dâng thêm
tám phần nữa.
Sa di đáp: - Lành thay!
Xin dâng lại cho A-xà-lê (Acariya).
Vua hỏi: - A-xà-lê là
ai?
Ðáp: - Vị giáo dục
cho biết chánh pháp là A-xà-lê của tôi.
Vua nói: - Lành thay! Tôi
dâng thêm tám phần nữa.
Sa di nói: - Tám phần này
xin dâng đến Tỳ-kheo tăng.
Vua hỏi: - Tỳ-kheo tăng
là ai?
Sa di đáp: - Là nơi mà
thầy tôi, A-xà-lê của tôi, và tôi y chỉ vào đó để đắc
giới cụ túc.
Nghe nói, vua càng hoan
hỷ, nói với sa di: - Nếu như vậy, tôi xin dâng thêm tám
phần nữa.
Sa di đáp: - Lành thay!
Xin nhận.
Sau khi nhận lời, hôm
sau sa di đưa 32 vị đến cung vua. Thọ thực xong, vua hỏi sa
di: Còn có Tỳ-kheo khác không?
Ðáp: - Còn có.
Vua nói: - Nếu có, xin
đưa thêm 32 vị đến nữa.
Cứ như vậy, lần
tuần tự tăng dần đến sáu vạn vị. Bấy giờ, sáu vạn
đồ chúng ngoại đạo bị mất phần cúng dường. Ðại đức
Nê-Hòa-Ðà dạy bảo vua và phu nhân trong cung cùng các quan
đều thọ ba qui y và năm giới cấm. Tín tâm của vua và
mọi người tăng gấp bội không có thối lui. Vì chúng tăng,
vua xây dựng chùa lớn để làm trú xứ cho tăng, hằng ngày
cúng dường sáu vạn vị. Vua ra lệnh tám vạn bốn ngàn
quốc vương do vua thống lĩnh xây dựng tám vạn bốn ngàn
chùa lớn, tám vạn bốn ngàn tháp tại các nước. Ðược
vua ra lệnh như vậy, các nước đều hoan hỷ thực hiện.
Một hôm, vua tổ chức
hội đại bố thí (mahàdàna) ở Tăng-già-lam A-Dục (Asokàràma).
Sau khi bố thí, ngồi giữa sáu vạn Tỳ-kheo tăng, vua thưa:
Bốn vật cúng dường (catùhi paccayehi pavàretvà) là thuốc
men, thức ăn, y phục, ngọa cụ, trẫm xin dâng cho tăng theo
yêu cầu.
Sau khi thưa như vậy,
vua hỏi:
- Các đại đức! Pháp
của Phật gồm bao nhiêu loại?
Tỳ-kheo đáp: - Có chín
phần pháp, chia thành tám vạn bốn ngàn pháp-tụ.
Nghe như vậy, với tâm
chí thành về pháp, vua thầm nghĩ: Ta nên xây tám vạn bốn
ngàn ngôi chùa để cúng dường tám vạn bốn ngàn pháp-tụ.
Ngay hôm ấy, vua bỏ ra
chín mươi sáu ức ngân tiền, và gọi đại thần đến,
bảo rằng:
- Hãy sai sứ giả đến
bảo tám vạn bốn ngàn nước của ta thống lĩnh, cứ một
nước xây dựng một ngôi chùa.
Chính nhà vua tự xây
dựng chùa A-Dục. Biết vua muốn xây dựng thành chùa lớn,
chúng tăng liền sai một Tỳ-kheo tên Nhân-Ðà-Quật-Ða
(Indagutta) là bậc lậu tận A-la-hán có đại thần lực làm
tổng tri sự việc trong chùa. Thấy trong chùa có chỗ nào
khiếm khuyết, Nhân-Ðà-Quật-Ða dùng thần lực của mình
để sửa chữa cho hoàn hảo. Bằng tiền của vua dâng và
thần lực của La-hán, sau ba năm ngôi chùa hoàn thành. Sau
khi chùa ở các nước hoàn thành, họ đến tâu vua. Cùng đến
trong một ngày, họ gặp tể tướng, thưa:
- Chùa đã xây xong.
Tể tướng vào tâu
vua:
- Tám vạn bốn ngàn ngôi
chùa của tám vạn bốn ngàn nước đã xây xong.
Sau khi khen ngợi lành
thay, vua sai một đại thần đánh trống tuyên bố chùa tháp
đã hoàn tất, bảy ngày sau sẽ có hội bố thí cúng dường
to lớn, tất cả nhân dân trong ngoài trong nước đều thọ
tám giới (attha sìlangàni) để thân tâm thanh tịnh, sau bảy
ngày mọi người trang sức đàng hoàng đến nhận lệnh vua.
Như chư thiên vây quanh Thiên-đế-thích, quốc độ của vua
A-Dục cũng được trang nghiêm như vậy. Nhân dân đi dự
hội không chán, cùng nhau vào chùa chiêm ngưỡng.
Khi ấy, chúng tăng tậïp
họp có tám ức Tỳ-kheo tăng, chín mươi sáu vạn Tỳ-kheo
ny. Trong chúng này, có một vạn La-hán. Các vị Tỳ-kheo tăng
suy nghĩ: Ta nên dùng thần lực làm cho vua thấy được công
đức mà mình đã tạo, được thấy như vậy rồi thì sau
đó làm cho Phật pháp cực kỳ thịnh hành. Dùng năng lực
thần thông, các Tỳ-kheo làm cho trong một lúc vua thấy được
tất cả các chùa tháp, tất cả những công đức do sự
bố thí sự cúng dường của vua trong tất cả vùng đất
ngang dọc bốn phương đến tận bờ biển của vua thống lĩnh
ở cõi Diêm-phù-lỵ. Ðược thấy như vậy rồi, vua rất
hoan hỷ, bạch với chúng tăng:
- Hiện nay, con làm
việc đại bố thí cúng dường Như Lai, trong lòng hoan hỷ
như vậy, có ai làm bằng con không?
Khi ấy, trong tăng cử
Mục-Kiền-Liên-Tử Ðế-Tu đáp lời cho vua. Ðế-Tu trả
lời:
- Khi Phật còn tại
thế, mọi người cúng dường không bằng vua, không ai có
thể hơn vua được.
Nghe Ðế-Tu nói, vua
hoan hỷ vô cùng, suy nghĩ: Làm việc bố thí lớn trong Phật
pháp không ai bằng ta, ta nên thọ trì Phật pháp như con yêu
mến cha, thì không còn gì nghi ngờ nữa.
Khi ấy, vua hỏi Tỳ-kheo tăng:
- Ðối với Phật pháp,
trẫm đã vào được chưa?
Nghe vua hỏi, thấy bên
cạnh vua có vương tử tên Ma-Hê-Ðà (Mahinda) đã đầy đủ
nhân duyên, nên Ðế-Tu suy nghĩ: Nếu vương tử này được
xuất gia thì Phật pháp hưng thịnh vô cùng.
Sau khi suy nghĩ, Ðế-Tu
thưa với vua: - Ðại vương, công đức như thế này vẫn chưa
vào Phật pháp được. Như có người đem bảy loại quý báu
chồng chất từ mặt đất lên tận cõi Phạm-thiên ra bố
thí, nhưng vẫn chưa được vào trong Phật pháp, huống chi
sự bố thí như vua mà mong được vào.
Vua hỏi: - Làm sao được
vào pháp phần?
Ðáp: - Người nghèo
hay giàu cho con ruột của mình xuất gia thì được vào
Phật pháp.
Nghe nói như vậy, vua
suy nghĩ: Ta bố thí như vậy mà cũng chưa được vào Phật
pháp vậy ta nên tìm cách để được vào.
Nhìn sang hai bên, thấy
Ma-Hê-Ðà, vua suy nghĩ: Em ta là Ðế-Tu đã tự xuất gia nên
phải lập Ma-Hê-Ðà làm thái tử, nhưng đưa lên làm thái
tử là tốt hay cho xuất gia là tốt.
Vua bảo Ma-Hê-Ðà: -
Con có thích xuất gia không?
Thấy chú mình là Ðế-Tu
đã xuất gia, Ma-Hê-Ðà đã có ý muốn xuất gia, nghe vua
hỏi như vậy, rất vui mừng thưa:
- Thật con muốn xuất
gia. Nếu con xuất gia, đại vương được pháp phần trong
Phật pháp.
Khi ấy, có vương nữ
tên Tăng-Già-Mật-Ða (Sanghamittà) mà trước đây chồng đã
xuất gia theo Ðế-Tu, đang đứng cạnh anh mình. Vua hỏi Tăng-Già-Mật-Ða:
- Con thích xuất gia không?
Ðáp: - Thật muốn.
Vua nói: - Nếu con
xuất gia thì tốt lắm.
Biết tâm ý của họ,
vua rất hoan hỷ hướng về Tỳ-kheo thưa:
- Ðại đức, xin chúng
tăng độ hai con của tôi để tôi được vào Phật pháp.
Luật Thiện kiến
Tỳ-bà-sa
- Quyển thứ nhất
-
--- o0o ---
Mục
Lục |
I | II
| III
|
IV
|
V
|
VI |VII
|
VIII
|
IX
| X
|
XI |
XII |
XIII |
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ Bình Anson
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ luật
này (Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
|
|