Theravàda
(Thượng-tọa bộ)
Chú Giải Luật Thiện Kiến
Samantapàsàdikà Nàma
Vinayatthakathà
Hán dịch:
Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra)
Việt dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh (Caràna-citto Bhikkhu)
Phật Lịch
2543 (1999)
---
o0o
---
Quyển
thứ ba
-ooOoo-
Vì dân
chúng, quý đại đức thuyết giảng kinh Vô-thỉ-giới. Vào
một ngày khác, quí đại đức thuyết giảng kinh Hỏa-tụ.
Tuần tự như vậy cho đến bảy ngày, có tám ngàn năm trăm
người đắc đạo quả. Từ khu vườn này, Phật pháp được
lưu truyền quang minh rực rỡ nên có tên là vườn Quang-Minh
(Jotivana).
Sau bảy ngày ấy, đến
vương cung, thuyết kinh Không-lười-biếng (Mahàappamàdasutta)
xong, các đại đức đến núi Chi-đế-da (Cetiyagiri).
Bấy giờ, vua bàn
luận cùng các đại thần: - Các vị Tỳ-kheo này giáo hóa
chúng ta làm cho được an trú vững chắc trong Phật pháp.
Những vị đại đức ấy đã đi chưa?
Các quan tâu, chư tăng
tự đến và ra đi, nên không thưa với đại vương?
Vua và hai phu nhân đi
xe quí cùng ngàn vạn xe ngựa rầm rộ theo sau chúng tăng đến
núi Chi-đế-da. Ðến nơi, để đoàn xe ngựa lại, vua đích
thân đến nơi các đại đức. Thấy vua mệt nhọc, hơi
thở hào hển, Ma-Hê-Ðà hỏi: - Ðại vương, vì sao hơi
thở mệt nhọc như vậy?
Vua thưa: - Các vị đại
đức đã giáo hóa chúng con làm cho được an trú vững
chắc vào giáo pháp, con vội muốn biết thời gian quí vị lên
đường.
Ðáp: - Chúng tôi không
đi, vì muốn tiền an cư ba tháng.
Vua hỏi: - An cư ba tháng
là thế nào?
Ðáp: - Theo pháp của
sa-môn là an cư ba tháng. Ðại vương biết cho, chúng tôi không
có trú xứ, mà ngày an cư đã sắp đến.
Khi ấy, cùng 55 người
anh em đang đứng cạnh vua, một đại thần tên A-Lật-Trừu
(Arittha) tâu: - Ðại vương, chúng tôi muốn gia theo các đại
đức.
Vua đáp: - Lành thay!
Cho phép các vị xuất gia.
Sau khi được phép,
những người này đến gặp đại đức Ma-Hê-Ðà và được
độ làm sa-môn, tóc chưa rơi hết xuống đất đã chứng
quả La-hán.
Sau khi ra lệnh xây
dựng 68 cái cốc đá (lena) ngay trước hang động chính
(kantakacetiyangana), nhà vua trở về kinh đô.
Ngài Ma-Hê-Ðà lại giáo
hóa mười người anh em của vua làm cho họ tin tưởng vững
chắc với Phật pháp. Các Tỳ-khưu an cư ba tháng hạ trong các
cốc đá ở núi Chi-đế-da. Khi ấy, lại có 60 vị đắc
quả La-hán (Sampadvàsatthi-62).
Sau ba tháng an cư, đến
ngày mười lăm tháng chín (7, 8?) , tự tứ xong, các Tỳ-kheo
thưa vua: - Mùa hạ đã qua, chúng tôi ở đây xa cách thầy mình
đã lâu (Ciradittho no mahàràja sama-sambuddho), đang muốn trở
lại đất Diêm-phù-lỵ để thăm viếng sư trưởng.
Vua đáp: - Con xin dâng
bốn loại cúng dường đến pháp sư. Lại còn có những người
khác nhờ pháp sư mà được thọ trì ba qui y, năm học
giới, hiện nay vì sao quí ngài buồn ý?
Ðáp: - Trước đây, chúng
tôi sống dưới sự chăm nom của sư trưởng, ngày đêm cúng
dường lễ bái, hiện nay ở đây không có thầy nên buồn
rầu.
Nhà vua thưa: - Trước
đây các đại đức nói đức Phật đã nhập Niết-bàn, bây
giờ lại nói có thầy.
Các đại đức đáp: -
Ðức Phật tuy đã vào Niết-bàn nhưng xá-lị (sarìradhàtuyo)
vẫn còn.
Vua thưa: - Con đã
hiểu ý quí đại đức muốn con xây dựng tháp. Nếu như
vậy, xin quí đại đức ch?n cho nơi hoàn hảo.
Nhà vua lại suy nghĩ:
Ðịa điểm có thể chọn được nhưng làm sao có xá-lị?
Ma-Hê-Ðà nói: - Nhà
vua hãy tính toán cùng với sa di Tu-Ma-Na.
Vâng lời các đại đức,
đến gặp sa di Tu-Ma-Na, nhà vua hỏi: - Thưa đại đức! Lúc
này, làm sao con thỉnh được xá-lị của đức Như Lai?
Tu-Ma-Na đáp:- Lành thay
đại vương! Chỉ cần sửa sang đường sá, quét dọn sạch
sẽ, treo cờ và tràng phan, rãi hoa, đốt hương, trang hoàng
thật đẹp, vua cùng thân quyến đều thọ trì tám giới, đem
tất cả âm nhạc, voi của vua được trang sức với chuỗi
ngọc, trên che lọng trắng, đi đến viên lâm Ma-ha-na-già (Màhànàgavanùyyàna)
thì được xá-lị của Như Lai.
Vua khen ngợi: - Lành
thay! Và làm theo lời dạy.
Các đại đức cùng đi
đến núi Chi-đế-da. Ðến nơi, Ma-Hê-Ðà bảo sa di: - Lành
thay! Này Tu-Ma-Na, con hãy đi vào đất Diêm-phù-lỵ, gặp vua
A-Dục, tổ phụ của con-đem ý của ta, trình bày rằng bạn
thân của đại vương là vua Thiên-Ái Ðế-Tu nước Sư-tử
đã tin Phật pháp, đang muốn xây tháp. Ðại vương có xá
lị, xin ban tặng vào lúc này. Khi được xá-lị rồi, con hãy
lên cõi trời Ðao-lỵ, nói với Ðế thích (Sakka devarajànam)
rằng ngài có hai xá-lị (Dve dhàtuyo) một là răng bên phải
(dakkhinadàtha) để lại cho Ðế-thích cúng dường, hai là xương
vai phải (dakkhinakkhaka) thì đưa con đem về. Con lại hỏi Ðế-thích
là trước đây Ngài có nói cùng hộ vệ đi đến nước Sư-tử,
sao nay lại an nhiên không đi?
Tu-Ma-Na thưa: Lành thay!
Sau khi vâng lệnh,
Tu-Ma-Na mặc y mang bát, bay lên hư không, trong chốc lát hạ
xuống trước cửa thành nước Ba-thát-lỵ-phất ở Diêm-phù-lỵ,
vào gặp nhà vua tâu: - Ðại vương Ma-Hê-Ðà sai con đến...
Nghe nói lại sự việc
xong, vua rất vui mừng và nhận lấy bát của sa di, dùng
dầu thơm lau sạch bát rồi mở rương bằng bảy báu, lấy
xá-lị màu trắng sáng như ngọc quí đặt vào đầy bát,
trao cho sa di.
Nhận bát xá-lị, sa di
đến cung trời Ðế-thích.
Thấy sa di, Ðế-thích
thưa: - Ðại đức Tu-Ma-Na! Có việc gì mà ngài đến đây?
Ðáp: - Trước đây,
thiên vương đã khuyến khích các đại đức đến nước Sư-tử
mà đến nay thiên vương vẫn chưa đến.
Ðế-thích đáp: - Con
đến đó để làm việc gì?
Sa di hỏi: - Này Ðế-thích!
Ngài có hai xá-lị, một là răng bên phải thì để lại đây,
hai là xương vai phải thì đưa cho tôi để cúng dường.
Sau khi khen ngợi: Lành
thay! Lành thay! Ðế-thích lấy chìa khóa mở tháp bảy báu
(manithùpa) cao rộng một do-tuần, lấy xá-lị trao cho
Tu-Ma-Na...
Nhận xá lị xong,
Tu-Ma-Na hạ xuống núi Chi-đế-da. Các đại đức tên Ma-Hê-Ðà,
Uất-Ðịa-Du, Uất-Ðế-Du, Bạt-Ðà-Sa, Tham-Bà-Lầu... đem xá
lị của vua A-Dục ban cho tôn trí vào núi Chi-đế-da, xương
vai thì được đưa đến viên lâm Ma-ha-na vào buổi chiều.
Trước đây lệnh sửa
sang đường sá... của sa di, lúc này các việc đã hoàn
tất. Nhà vua cỡi voi, tay cầm lọng trắng che trên xá-lị
đi đến núi Chi-đế-da. Vua suy nghĩ: - Nếu đây là xá lị
của đức Như Lai thì voi tự quì xuống, lọng trắng tự
hạ, khiến cho xá-lị ngự trên đầu ta.
Vua nghĩ chưa xong voi quì
sát đất lọng trắng tự hạ, hộp đựng xá-lị (dhàtucangotaka)
ngự ngay trên đầu vua. Ngay khi ấy, thân thể khoan khoái như
được uống cam lộ nên vua hỏi: - Thưa đại đức! Xá-lị
ngự ngay trên đầu của con, phải làm sao đây?
Ðáp: - Ðặt trên đầu
voi.
Bấy giờ, vua bưng
hộp xá-lị đặt trên đầu voi. Ðược đội xá-lị, voi
rất sung sướng, cất tiếng rống lên để cúng dường xá-lị.
Trên không trung, nổi mây tuôn mưa, thích ứng tùy loại chúng
sinh, mặt đất chấn động cho đến tận thủy biên. Thấy
xá-lị của Phật đã đến vùng biên địa, trời, rồng,
quỉ thần rất hoan hỷ, nói kệ:
Xá-lị của Như Lai,
Từ Ðao-lỵ giáng hạ,
Như mặt trăng tròn sáng,
Ðến giáo hóa biên địa.
Ngự yên trên đầu voi,
Voi rống lên cúng dường.
Khi ấy, vây quanh voi,
âm nhạc tuyệt diệu được tấu lên để cúng dường xá-lị.
Quay lưng về hướng Ðông, voi quay mặt đi về phía Tây, đến
cửa thành thì vào ngay trong thành. Trong thành, nhân dân cung
kính cúng dường, ra khỏi thành phía Nam, đi vòng theo hướng
Tây về vườn tháp (Thùpàràma), đến chỗ đất được
chọn (Pahecivatthu) ở vườn tháp, nó đứng xoay lại (về hướng
Ðông). Ngay trong vườn tháp này, thời quá khứ có tôn trí
xá-lị của ba đức Phật. Thời xưa, nước Sư-tử tên là
đảo Âu-xà (ojadìpa), nước tên Vô-úy (Abhayapura), vua hiệu
Vô-Úy (Abhaya), núi Chi-đế-da tên là Ðề-bà-cưu-thát (Devakùtapabbata).
Khi ấy, vườn tháp này tên là vườn Ba-lỵ-da (patiyàràma).
Bấy giờ, đức Phật Cưu-Lưu-Tôn (Kakusandha) xuất hiện ở
thế gian. Vị Thanh-văn của đức Phật này tên là Ma-Ha-Ðề-Bà
(Mahàdeva) cùng với 1000 Tỳ-kheo đến cư trú ở Ðề-bà-cưu-thát,
cũng như Ma-Hê-Ðà trú ở núi Chi-đế-da. Bấy giờ,
chúng sinh ở đảo Âu-xà bị khổ não vì nhiễm bệnh. Dùng
thiên nhãn quán sát, thấy chúng sinh có khổ não như vậy,
Phật Cưu-Lưu-Tôn cùng với bảy vạn Tỳ-kheo đi đến đảo
Âu-xà, diệt trừ các tật bệnh. Sau khi diệt các bệnh, Như
Lai thuyết pháp cho nhân dân trong nước, có tám vạn bốn ngàn
người được đạo quả. Sau đó, Như Lai để lại bình
lọc nước (dhamamakaraka) trong nước này rồi trở về nước
cũ. Nhân dân xây tháp và tôn trí bình lọc nước ấy trong
tháp, gọi là Ba-lỵ-da. Ma-Ha-Ðề-Bà rải hoa cúng dường và
cùng nhân dân ở lại nước này.
Vào thời Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ny
(konàgamana), đảo Sư-tử này tên là đảo Bà-La (varadìpa),
nước tên Bạt-xà-ma (Vaddhamàna), vua hiệu Sa-diệt-địa
(Samiddha); núi Chi-đế-da tên Kim-đỉnh (Suvannakùta). Khi ấy,
nước Ba-la bị hạn hán mất mùa nặng nề, tất cả chúng
sinh bị đói kém rất khổ não. Quán sát thế gian với thiên
nhãn, thấy sự đói khổ ở đảo Bà-la, đức Phật Như Lai
Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni cùng 1000 Tỳ-kheo đi đến đảo này. Nhờ
thần lực của Phật nên trời đổ mưa, ngũ cốc sung túc.
Sau đó, vì nhân dân trong nước, Phật thuyết pháp làm cho tám
vạn bốn ngàn người đắc đạo quả. Phật để lại
Tỳ-kheo Tu-Ma-Na (Mahasumana) cùng tăng chúng 1000 vị và dây
thắt lưng (kàyabandhana) của Ngài. Sau khi Như Lai cùng đại
chúng trở về nước cũ, mọi người xây tháp, tôn trí dây
thắt lưng của Ngài vào tháp để thờ phụng cúng dường.
Vào thời Phật
Ca-Diếp (Kassapa), đảo Sư-tử tên là Mạn-đà (Mandapipà); nước
tên Tỳ-Sa-La (Visàla); vua tên Chi-Diễn-Na (Jayanta); núi Chi-đế-da
tên Tu-bà-cưu-thát (Subhakùta). Bấy giờ, tại đảo Mạn-đà
có chiến tranh lớn làm cho nhiều chúng sinh bị khổ não. Quán
sát thế gian bằng thiên nhãn, thấy đảo Mạn-đà đang bị
khổ não lớn, Như Lai cùng hai vạn Tỳ-kheo đến đảo này.
Nhờ năng lực của Phật, chiến tranh được chấm dứt. Vì
nhân dân, đức Phật thuyết pháp vi diệu, có tám vạn bốn
ngàn người đắc đạo-tích... Phật để lại một Tỳ-kheo
tên Tát-Bà-Nan-Ðà ( Sabbananda) cùng 1000 Tỳ-kheo và chiếc y
tắm (Udakasàtika). Nhân dân trong nước xây tháp lớn, tôn trí
chiếc y tắm của Phật vào tháp để thờ phụng cúng dường.
Ðó là những tên gọi của vườn tháp. Vào thời ba đức
Phật quá khứ, nơi này đều được chọn để xây tháp. Nhưng
ba cõi vô thường, nay chỉ còn vùng đất trống. Ngay tại
nền tháp cũ, chư thiên đã trồng nhiều loại cây gai. Vì
sao? Ðể ngăn ngừa sự ô uế.
Khi ấy, voi lớn đội
xá-lị, tự nhiên đi đến ngay nền tháp cũ. Vua và dân chúng
chặt phá gai góc làm cho chỗ này phẳng như bàn tay. Ðến
phía Bắc nền tháp cũ, tại chỗ cây Bồ đề (Bodhirukkhatthàna)
voi đứng lại hướng về phía tháp. Muốn đưa xá-lị
xuống nhưng voi không chịu. Vua hỏi Ma-Hê-Ðà: - Thưa đại
đức! Làm sao thỉnh xuống?
Ðáp: - Không thể đưa
xuống ngay, trước tiên vua phải xây nền cao đến đỉnh đầu
voi, mới đưa xuống được.
Khi ấy, mọi người cùng
nhau đắp nền móng đất. Trong suốt ba bốn ngày voi vẫn đội
xá-lị đứng yên. Sau khi làm nền, vua lại bạch: - Ðại đức,
tháp có hình gì?
Ma-Hê-Ðà đáp: - Như hình
đống lúa.
Vua khen ngợi và xây
một tháp nhỏ ngay trên nền tháp rồi cúng dường bằng
nhiều cách để chuẩn bị đưa xá-lị xuống. Nhân dân cả
nước đem theo hương hoa âm nhạc đến để chiêm bái xá-lị.
Khi mọi người đã
tập họp đến, từ đỉnh đầu voi, xá-lị bay lên hư không
cao bảy cây Ða-la, hiện ra nhiều sự biến hóa với năm màu
ròng, khi tuôn nước, khi phun lửa, hoặc biến hiện đồng
thời không khác gì thần lực của Thế Tôn thị hiện ở cây
Kiền-thát-am-bà (Gandambamùla) khi Ngài còn tại thế. Ðây không
phải là thần lực của Ma-Hê-Ðà và chư thiên. Vì sao? Lúc
còn tại thế, Như Lai có lệnh cho xá-lị rằng sau khi Ta
diệt độ, hãy đến nước Sư-tử, khi vào vườn tháp thì
hiện ra các thần lực.
Do lệnh của Như Lai nên
lúc này xá-lị hiện ra như vậy.
Pháp sư nói rằng có bài
kệ:
Phật vượt trên nghĩ
bàn.
Giáo pháp cũng như vậy.
Nếu ai có tín tâm,
Công đức không nghĩ, bàn.
(Evam acintiyà Buddhà,
buddhadhammà acintiyà, acintiyesu pasannànam vipàko hoti acintiyo).
Ðức Thích-Ca Như Lai
đã đến đảo Sư-tử này ba lần. Lần thứ nhất, sau khi
giáo hóa dạ xoa, Ngài ra sắc lệnh: Sau khi Ta niết-bàn, xá-lị
của Ta an trụ ở nơi này. Lần thứ hai, giáo hóa Long vương
và cháu trai. Hai lần này, Như Lai đến một mình. Lần thứ
ba có một trăm Tỳ-kheo tùy tùng, đến Ma-ha Chi-đế-da, vườn
tháp, nơi cây Bồ đề, chỗ Già-bà -tỳ-căn-na-la-ny thuộc
phía Ðông vùng đất Già-na (Mutiyangana, Dìghavàpi, kalyàni-cetiyatthàna)
Như Lai nhập định. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, lần thứ
tư, xá-lị đến là lần cuối. Nhân dân cả nước nhờ vào
lượng nước do thần lực xá-lị tuôn ra mà không còn bị
đói khát. Khi ấy, mọi người đều thấy xá-lị từ không
trung hạ xuống, rồi ngự trên đầu vua. Ðược xá-lị
ngự trên đầu, với suy nghĩ: Ta được làm thân người có
lòng tin vững chắc, vua cúng dường trọng thể rồi tôn trí
xá-lị vào tháp. Khi ấy, mặt đất chấn động sáu cách.
Bấy giờ, có vương đệ tên Vô-Úy cùng 1000 người đều
xuất gia, 500 đồng tử ở trung tâm đất nước cũng xuất
gia, lại có 500 đồng tử khắp nước cũng xuất gia. Như
vậy tăng dần lên có đến ba vạn người xuất gia.
Sau khi đại tháp được
xây dựng xong, đại phu nhân cùng em gái vua, trời, rồng,
dạ-xoa, càn-thát-bà cùng nhau cúng dường.
Sau lễ cúng dường,
Ma-Hê-Ðà trở về vườn Ma-già ( Meghavanùyyana). Nghe
A-Nậu-La (Anulà) tâu rằng muốn xuất gia, vua buồn bã thưa
với Ma-Hê-Ðà: - Ðại đức! Phu nhân A-Nậu-La muốn xuất
gia, xin ngài tế độ cho.
Ma-Hê-Ðà đáp: - Sa-môn
chúng tôi không được độ người nữ. Tôi có em gái tên Tăng-Già-Mật-Ða
đang ở nước Ba-thát-lỵ-phất, hãy đến đó thỉnh sang. Cây
Bồ đề của ba vị Phật thời quá khứ đều được đem
đến trồng ở nước này. Hiện nay, cũng nên trồng cây
Bồ đề của Bổn-sư chúng tôi ở đây. Thế nên, đại vương
nên sai sứ giả đến gặp vua A-Dục cầu Tỳ-kheo ny Tăng-Già-Mật-Ða
và thỉnh cây Bồ đề đến trồng ở đây.
Khen ngợi chấp thuận
lời dạy này, vua gọi các đại thần cùng nhau bàn luận.
Vua bảo người cháu trai:
- Cháu có thể đến nước
Ba-thát-lỵ-phất ở Diêm-phù-lỵ, thỉnh Tăng-Già-Mật-Ða và
nhận lấy cây Bồ đề không?
Người cháu đáp: - Xin
vâng, con sẽ đi nhưng nhà vua phải cam kết trước là cho phép
con được xuất gia, bằng không con xin ở lại.
Vua đáp:- Lành thay!
Nếu được Tỳ-kheo ny Tăng-Già-Mật-Ða và cây Bồ đề đến
đây thì ta sẽ cho phép cháu xuất gia.
Người cháu vua trước
tiên nhận lời dạy bảo của Ma-Hê-Ðà, rồi vâng lệnh
vua. Ma-Hê-Ðà dùng thần thông làm cho A-Phiêu-Xoa cháu nhà
vua đến cảng Câu-la ở Diêm-phù-lỵ (Jambukolapattana) rồi
từ đó đi thuyền vượt biển đến nước Ba-thát-lỵ-phất
chỉ trong một ngày.
Khi ấy, phu nhân
A-Nậu-La cùng 500 đồng nữ và 500 người cung nữ của vua
đều thọ mười giới (dasa-sìlàni), mặc y ca-sa, ra khỏi thành,
xây dựng khu nhà cư trú riêng ở bên thành.
Ðến nơi, A-Phiêu-Xoa tâu
vua: - Con trai của đại vương là Ma-Hê-Ðà ra lệnh cho
thần đến đây, thưa như thế này bạn thân của đại vương
là Thiên-Ái Ðế-Tu có phu nhân tên A-Nậu-La muốn xuất gia
nhưng không có thầy tế độ. Xin đại vương ban cho
Tỳ-kheo ny Tăng-Già-Mật-Ða và cây Bồ đề (Mahàbodhi).
Sau khi truyền lại
lệnh của Ma-Hê-Ðà, sứ giả đến gặp Tỳ-kheo ny thưa: -
Ðại đức! Anh của ngài là Ma-Hê-Ðà sai con đến đây nói
rằng phu nhân của vua Thiên-Ái Ðế-Tu là A-Nậu-La cùng 500
đồng nữ và 500 cungnữ thân quyến cùng muốn xuất gia, nay
thỉnh đại đức làm thầy tế độ, xin ngài đến ngay.
Nghe tin của anh mình,
Tỳ-kheo ny vội vàng đến gặp nhà vua tâu rằng: - Ðại vương!
Anh con báo tin phu nhân vua Thiên-Ái và các người nữ khác
muốn xuất gia hành đạo, thỉnh con làm thầy tế độ. Họ
đang đợi chờ nên con muốn đi, xin thưa cho đại vương
biết.
Vua đáp: Sau khi Ma-Hê-Ðà
anh con và cháu Tu-Ma-Na ra đi, ta như người bị chặt mất
tay chân. Ðã lâu, ta không còn gặp hai người ấy nên ngày
đêm tâm tư buồn bã. Gặp mặt con, ta cũng tạm vui, giờ đây
con lại ra đi, chắc ta phải chết, thôi con đừng đi.
Tăng-Già-Mật-Ða đáp:
- Ðại vương! Tin tức của anh con rất quan trọng không
thể không làm. Sát-lỵ phu nhân A-Nậu-La rất muốn xuất
gia, đang đợi con; thế nên con phải đi đến đó.
Vua nói: - Nếu tin tức
của anh con quan trọng như vậy thì con nên đi cùng với cây
Bồ đề (Mahàbodhim gahetvà gacchàmi).
Tăng-Già-Mật-Ða thưa:
- Cây Bồ đề đang ở đâu?
Ðáp: - Ðang ở chỗ
A-lan-nhã.
Trước tiên vua có ý
chiết cây Bồ đề, nhưng không được dùng dao chặt thì làm
sao lấy được, phân vân không biết tính sao, nên hỏi đại
thần Ðề-Bà.
Ðề-Bà đáp: - Các đại
đức Tỳ-kheo tất biết rõ.
Sau khi khen ngợi, vua
thỉnh chư tăng thọ trai. Sau bữa ăn, vua thưa các Tỳ-kheo:
- Có thể truyền cây Bồ đề của Như Lai sang nước Sư-tử
(Lankàdì) không?
Chúng tăng đề cử
Mục-Kiền-Liên Ðế-Tu trả lời vì tôn giả biết rõ việc
này.
Tôn giả đáp: - Cây
Bồ đề có thể sang nước Sư-tử. Vì sao? Khi còn tại
thế, Như Lai đã đưa ra năm sắc lệnh. Khi sắp vào Niết-bàn,
nằm trên bảo sàng, Phật ra lệnh rằng:
1- Trong tương lai, có
vua A-Dục chiết cây Bồ đề đưa sang nước Sư-tử, lấy
cành cây Bồ đề ở hướng Nam đem đi, không cần dùng
dao chặt mà tự nhiên đứt ra, rồi vào bồn bằng vàng.
2- Nếu đúng là cây
Bồ đề của Ta thì sau đó rời khỏi bồn bay lên hư không
và đi vào trong mây.
3- Sau khi vào trong mây
và ở đó bảy ngày, cây tự nhiên hạ xuống, ở yên
trong bồn bằng vàng (suvannakatàha), phát triển tươi tốt
phủ lá, kết trái. Lá cây màu vàng ròng với nhiều hiện
tượng xẩy ra không thể nói hết.
4- Cây Bồ đề sang nước
Sư-tử thì có thể trồng được. Khi bắt đầu trồng thì
có nhiều hiện tượng thần thông hiện ra.
5- Khi một đấu xá-lị
của Ta (donamatta-dhàtuyo) đến nước Sư-tử thì hiện ra tướng
hảo của Ta như còn tại thế với 32 tướng bậc đại nhân,
80 vẻ đẹp, ánh sáng rực rỡ hơn cả nhật nguyệt.
Nghe năm sắc lệnh này,
vua rất vui mừng, đi bộ từ nước Ba-thát-lỵ-phất đến
chỗ cây Bồ đề, đem theo nhiều vàng ròng.
Vị trời thợ giỏi
của Thiên Ðế-thích tên là Tỳ-xá (Vissakammadevaputta) biết
được ý vua nên hóa thành thợ rèn đứng cạnh vua. Vua
bảo: - Này thợ rèn! Hãy đem vàng này làm thành cái bồn.
Người thợ hỏi: - Ðại
vương! Bồn lớn cỡ nào?
Vua đáp: - Ðây là
nghề của ngươi, hãy tự biết lấy.
Thợ thưa: - Lành thay!
Thần sẽ làm ngay.
Nhận vàng, với thần
thông, thợ dùng tay nặn ra cái bồn vàng chu vi chín khuỷu
tay (hattha), cao chừng năm khuỷu tay, dày tám tấc. Miệng
bồn được viền tròn như vòi voi chúa.
Khi ấy, vua A-Dục
thống lĩnh đại chúng với ngàn xe vạn ngựa, dài bảy do
tuần, rộng ba do tuần, trang bị cờ xí (dhajapatàka) rợp
trời, các loại trân bảo, hoa hương chuỗi ngọc, vang lừng
âm nhạc, cùng các vị Tỳ-kheo đưa nhau ra khỏi nước đi
đến vây quanh cây Bồ đề. Với ngàn vị tiểu quốc vương
chung quanh, vua A-Dục ở giữa đứng nghênh đón cây Bồ đề.
Nhà vua và mọi người cùng chiêm ngưỡng đại thọ Bồ đề
và cành phía Nam. Khi ấy, cây hiện thần lực làm cho cả cây
biến mất chỉ còn hiện ra một cành dài bốn khuỷu tay.
Thấy thần lực của cây như vậy, nhà vua rất hoan hỷ nên
đem tất cả đất đai ở cõi Diêm-phù và vương phục anh
lạc, hương hoa, các vật để cúng dường và đảnh lễ
khắp tám hướng cây Bồ đề. Nhà vua lại lễ bái, dâng vương
vị khắp cả cõi Diêm-phù-lỵ cho cây Bồ đề.
Sau khi lễ bái, vua
bạch với chư tăng với lời thệ nguyện: - Nếu con được
phép lấy nhánh cây Bồ đề đưa sang nước Sư-tử thì cây
Bồ đề hiện ra như cũ cùng với cành phía Nam.
Sau khi làm tòa sư tử
bằng bảy báu và tôn trí bồn vàng trên tòa, vua A-Dục lên
tòa cao, tự cầm bút vẽ với bột đá hùng hoàng
(Suvannatulikam gahetvà manosilàya lekhamkatvà), phát lời thệ
nguyện: Nếu cây Bồ đề chấp thuận việc đi sang nước Sư-tử
với tín tâm của con thì cành đại thọ Bồ đề tự nhiên
rơi vào trong bồn vàng.
Khi vua phát nguyện này,
cây hiện lại như xưa. Dùng bột thơm làm đất đặt đầy
trong bồn vàng, vua cầm bút vẽ mười nét lên chỗ cong
của cành cây. Chín nét để mọc rễ ra, nét thứ mười để
cành cây rời ra. Rễ cây dài bốn tấc và có nhiều rễ con
đan vào nhau như mạng lưới. Cành lớn dài mười khuỷu tay
và có năm nhán đều dài bốnkhuỷu tay và có năm trái cùng
hàng ngàn nhánh nhỏ. Thấy thần thông của cây Bồ đề như
vậy, vua rất hoan hỷ cùng nhau hướng về cây, lớn tiếng
khen ngợi. Chư tăng tụng kệ, các tiểu vương tùy tùng và
mọi người đều reo hò khen ngợi. Ðịa thần kinh ngạc kêu
vang lớn tiếng. Âm thanh vang tận hư không, truyền dần như
vậy cho đến cõi Phạm thiên.
Khi ấy, tự nhiên cành
cây rời khỏi thân cây chính rồi rơi vào bồn bằng vàng và
mọc ra trăm rễ, ăn tận đáy bồn. Lại có mười rễ xuyên
qua đáy bồn, 90 rễ nhỏ mọc ra chung quanh, phát triển
suốt ngày đêm. Ðồng thời, mặt đất chấn động sáu cách;
trên hư không chư thiên tấu các loại âm nhạc; núi rừng cây
cỏ đều rung động mạnh như người đang múa; chư thiên
vỗ tay; dạ xoa quỉ thần đều cười vui vẻ; vua A-tu-la
thổi ốc ca ngợi (Thutịappa); Phạm vương hoan hỷ; sấm
chớp vang lừng cả hư không; các thú bốn chân kêu rống
chạy loạn xạ; chim chóc kêu vang bay rộn rã, vua A-Dục cùng
các tiểu vương cùng nhau tấu âm nhạc. Những âm thanh này
vang lên tận cõi Phạm thiên. Bấy giờ, trái Bồ đề phát
ra hào quang sáu màu chiếu sáng cả thế giới Ta-Bà (Cakkavàla),
tận cõi Phạm thiên. Cây Bồ đề bay lên hư không, đứng yên
trong bảy ngày. Sau bảy ngày, đại chúng chỉ thấy hào
quang chứ không thấy bồn vàng và cây.
Bước xuống khỏi tòa
Sư-tử bảy báu, vua cúng dường cây Bồ đề trong bảy ngày.
Sau bảy ngày, cây lại phóng ánh sáng khắp thế giới Ta-bà,
chiếu lên tận cõi Phạm thiên rồi xoay trở lại. Trên hư
không, các đám mây đều sáng rực trong suốt. Từ trên hư
không, thân cây Bồ đề như ngọc anh lạc với hoa trái sum
suê hạ xuống bồn vàng. Thấy cây đã vào trong bồn, vua
rất hoan hỷ, lại đem cả cõi Diêm-phù-lỵ cúng dường đến
cây Bồ đề nhỏ suốt bảy ngày.
Ngày tự tứ mười lăm
tháng tám, vào buổi chiều cây Bồ đề hạ xuống bồn vàng.
Bảy ngày sau, cây vọt lên hư không và ở đó bảy ngày
rồi hạ xuống bồn vàng. Nhà vua đem cả cõi Diêm-phù-lỵ
dâng cho cây Bồ đề làm vua suốt bảy ngày, vào ngày chúng
tăng bố tát mười lăm tháng chín, trong một ngày, từ nơi
phát sinh, cây Bồ đề nhỏ được đưa đến phía Ðông thành
Ba-thát-lỵ-phất, ngự yên dưới cây Sa-la và phát triển
rậm rạp. Thấy như vậy, vua rất hoan hỷ, lại đem cả cõi
Diêm-phù-lỵ dâng lên, lễ bái phong cây Bồ đề làm vua.
Sau khi cúng dường, vua
thưa với Tăng-Già-Mật-Ða: - Ðã đến lúc lên đường.
Ðáp: - Lành thay! Thưa
đại vương.
Vị này cùng tám bộ
quỉ thần hộ tống cây Bồ đề, tám hạng đại thần, tám
hạng Bà-la-môn, tám hạng cư sĩ, tám hạng người cụ-ba-già,
tám người lộc-la-xa, tám người ca-lăng-già (attha bràhmanakulàni,
attha kutumbikakulàni, attha gopakakulàni, attha taracchakulàni,
attha kàlingakulàni). Nhà vua ra lệnh đưa theo tám bình đựng
vàng, tám bình đựng bạc, chở theo nước để tưới cây
Bồ đề. Sau khi mọi việc đã được thực hiện đúng theo
lệnh, vua cùng đại chúng tuần tự hộ tống cây Bồ đề
ra đại lộ với sự cúng dường ngày đêm của trời,
rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la đi đến cảng Ða-Ma-Tiêu
(Tàmalitthi). Ðến nơi, vua đích thân bưng cây Bồ đề bước
xuống, lúc nước ngập đến cổ thì đưa lên cho Tăng-Già-Mật-Ða
trên thuyền.
Vua bảo với A-Phiêu-Xoa
(Arittha): -Này A-Phiêu-Xoa! Tại nước này, ta đã ba lần đem
đất Diêm-phù-lỵ dâng lên và phong vương cho cây Bồ đề.
Ðích thân ta đội cây Bồ đề đi xuống nước đến tận
cổ để đưa lên thuyền. Ta ra lệnh cho khanh, nếu cây Bồ
đề đến quý quốc, khanh hãy tâu với vua khanh phải đích
thân lội xuống nước đến tận cổ để đón nhận cây
Bồ đề và đội trên đầu, tổ chức các nghi thức cúng dường
như ta đã làm.
Sau khi nhà vua ra sắc
lệnh, thuyền rời bến. Khi ấy, vùng biển chung quanh
thuyền một do tuần không có sóng, vua suy nghĩ: Cây Bồ đề
của Phật đang rời khỏi nước ta.
Khi suy nghĩ như vậy,
vua rơi nước mắt ướt cả cổ. Thuyền đã đi rồi, vua trông
theo, thấy từ nước biển có nhiều loại hoa hiện ra theo
sau thuyền để cúng dường xá-lị. Trên hư không, các
loại hoa rơi xuống và vang lừng tiếng nhạc cúng dường.
Thần biển lại dâng các loại hoa hương để cúng dường cây
Bồ đề. Sự cúng dường kế tiếp như vậy truyền tận đến
cung long vương (nàgabhavana). Long vương muốn ra ngoài để
chiếm lấy cây Bồ đề. Ðể bảo vệ, Tỳ-kheo ny Tăng-Già-Mật-Ða
hóa ra vua Kim-sí-điểu.
Thấy thần lực của
Tỳ-kheo ny như vậy, Long vương đảnh lễ sát chân, thưa: -
Lúc này, con muốn thỉnh cây Bồ đề và đại đức đến
cung điện của con để được cúng dường bảy ngày.
Nhân đó, cây Bồ đề
và đại chúng đều vào Long cung. Long vương đem vương vị
của mình dâng lên cho cây Bồ đề và cúng dường suốt
bảy ngày. Vào ngày mồng một tháng mười, long vương đích
thân đưa cây Bồ đề đến bến cảng Diêm-phù-câu-na-vệ
(Jambukolap ttana), chỉ trong một ngày.
Vua A-Dục trông theo,
khi không còn thấy cây Bồ đề thì khóc lóc trở
về.
Khi ấy, theo lời dặn
trước đây của sa di Tu-Ma-Na, vua Thiên-Ái ra lệnh sửa sang
đường sá, quét sọn sạch, dựng cờ phướn và các vật cúng
dường. Từ cổng thành phía Bắc đến cảng Câu-na-vệ, đất
thẳng như bàn tay đang chờ đợi cây Bồ đề đến. Dùng
thần lực, Tăng-Già-Mật-Ða làm cho trong thành vua trông
thấy cây Bồ đề đang đi đến. Nhà vua ra khỏi thành, tung
rãi năm màu hoa khắp nơi, tấu các loại âm nhạc và chỉ
trong một ngày đi đến tận cảng Câu-na-vệ.
Lội xuống nước đến
tận cổ, nhà vua suy nghĩ: - Cây Bồ đề của Phật đã đến
nước ta rồi.
Vua đang suy nghĩ thì cây
Bồ đề phóng ra hào quang sáu màu. Thấy như vậy, rất hoan
hỷ, nhà vua liền đội cây Bồ đề trên đầu. Cùng với
vua, có mười sáu người quí tộc kỳ cựu (Solasa jàtisampannakulàni)
cung nghinh cây Bồ đề đem lên bờ. Suốt ba ngày, vua đem
cả đảo Sư-tử cúng dường cây Bồ đề. Hết ba ngày, đến
ngày thứ tư, mười sáu người quí tộc biết rõ quốc sự
đội cây Bồ đề tuần tự đi đến nước A-dật-la-đà.
Ðến nơi, nhân dân cả nước vui mừng cùng nhau lễ bái cúng
dường.
Ðến ngày 14 tháng 10,
từ cửa phía Bắc, cây Bồ đề đi vào trung tâm thành
phố, rồi đi ra bằng cửa phía Nam. Cách cửa thành phía Nam
500 cung (dhanu) là nơi đức Như Lai từng nhập định. Chẳng
những chỉ có đức Phật Thích-Ca Mâu-Ny mà chư Phật quá
khứ cũng từng nhập định ở đây. Cây Bồ đề của
Phật Câu-Na-Vệ tên là Ma-ha-sa-lỵ-bà (mahàsirìsabodhi). Cây
Bồ đề của Phật Câu -Na-Hàm tên Ưu-đàm-bát
(Udumbabocdhi). Cây Bồ đề của Phật Ca-Diếp tên Ny-câu-đà
(Nigrodhabodhi). Tại vườn Di-già, sa di Tu-Ma-Na ra lệnh xây
dựng nền khu vườn và bố trí phòng ốc, xếp đặt nơi
trồng cây Bồ đề, sửa sang đàng hoàng cung thất để vua
trú ngụ.
Khi ấy, mặc tước
phục của vua ban, mười sáu người quí tộc cùng hộ tống
cây Bồ đề đến trồng ngay trước cửa cung vua. Vừa đặt
xuống, cây bay lên hư không cao tám mươi khuỷu tay chiếu ra
hào quang sáu màu, sáng rực cả nước Sư-tử, lên tận cõi
Phạm-thiên. Thấy các hiện tượng biến hóa của cây Bồ
đề như vậy, mọi người rất vui mừng, cả vạn người cùng
phát tâm niệm Phật, tuần tự chứng quả A-la-hán, cùng
nhau xuất gia.
Ánh sáng mặt trời chưa
tắt thì cây vẫn còn trên hư không. Sau khi mặt trời lặn,
cây Bồ đề như chòm sao chổi (Rohininakkatta), từ hư không
hạ xuống đất. Và mặt đất chấn độnh mạnh.
Ma-Hê-Ðà cùng Tăng-Già-Mật-Ða
với nhà vua và nhân dân đều tập trung đến cây Bồ đề.
Trông thấy nhánh phía Bắc có một trái chín đang rời
khỏi thân cây, mọi người lấy dâng cho Ma-Hê-Ðà. Ma-Hê-Ðà
lấy hạt đưa cho vua để trồng. Nhận lấy hạt, vua đặt
vào trong bồn vàng giữa đất tốt và phủ bột thơm lên.
Trong khoảnh khắc, hạt mọc ra tám cây con cao bốn khuỷu
tay. Thấy như vậy, vua kinh ngạc khen ngợi, lấy lọng
trắng che ở trên, lễ bái tôn cây Bồ đề nhỏ làm vua.
Vua trồng một cây con
ở cảng Diêm-phù-câu-na-vệ, một cây ở trong thôn Bà-la-môn,
Bạc-câu-la (tavakkabràhmana), một cây ở cửa Thu-tiêu, một
cây trồng trong vườn tháp, một cây trồng ở chùa Ma-ê-thủ-la
(Íssaranimmà avihàra), một cây trồng ở trung tâm núi Chi-đế-da
(cetiyapabbata), một cây trồng ở thôn Lâu-ê-na
(Rohanajanapada), một cây trồng ở thôn Giai-la (Kàtaragàma).
Bốn trái còn lại trên cây, tuần tự chín rụng xuống và
mọc ra 32 cây con đều được trồng khắp một do tuần
chung quanh khu vườn tháp. Như vậy cây Bồ đề được
trồng khắp cả nước Sư-tử. Nhờ vào cây Bồ đề nên
khắp đất nước này được an ổn không có tai họa.
Bấy giờ, phu nhân
A-Nậu-La cùng 1000 người nữ đến gặp Tăng-Già-Mật-Ða và
được vị này độ cho thành Tỳ-kheo ny. Sau khi được độ,
các vị này tuần tự chứng quả A-la-hán. A-Phiêu-Xoa cháu
của vua cùng 500 người cùng xuất gia và sau đó tuần tự
chứng quả A-la-hán.
Một hôm, vua cùng Ma-Hê-Ðà
đi lễ cây Bồ đề, đến thiết-điện (lohapàsàdatthàna).
Nhân dân dâng hoa lên vua, vua cúng dường hoa cho Ma-Hê-Ðà pháp
sư. Sau khi nhận hoa, pháp sư cúng dường thiết-điện. Khi
hoa rơi xuống đất, mặt đất chấn động. Thấy đất
chấn động, vua hỏi: - Thưa đại đức! Vì sao đất này
bỗng nhiên chấn động?
Ðáp: - Ðại vương! Tương
lai, chư tăng sẽ thuyết giới ở điện này, thế nên đất
hiện ra điềm lành ấy.
Tiếp tục đi đến vườn
xoài, có người dân lên vua trái xoài thơm ngon. Nhà vua đem
cúng dường cho Ma-Hê-Ðà. Sau khi dùng, Ma-Hê-Ðà đưa hạt
cho vua và bảo đem trồng. Vua trồng ngay và tưới nước lên
đất. Mặt đất lại chấn động. Vua hỏi: - Vì sao mặt đất
chấn động?
Ðại đức đáp: - Tương
lai, tăng chúng sẽ tập trung ở đây nên đất hiện ra điềm
lành ấy (pubbanimitta).
Sau khi rãi hoa khắp tám
phương làm lễ, vua tiếp tục đi đến Chi-đế-da (mahàcetiyatthàna).
Có người dâng hoa Chiêm-bặc (Campakapuppha) lên vua. Vua dâng
hoa và làm lễ tại chỗ Ma-Hê-Ðà. Vừa lễ xong, mặt đất
lại chấn động. Vua hỏi: - Vì sao mặt đất chấn động?
Ðáp: - Tương lai, tại
nơi này sẽ xây dựng tháp thờ Như Lai nên đất hiện ra điềm
lành ấy.
Vua thưa: - Con sẽ xây
tháp.
Ma-Hê-Ðà đáp: - Vua không
phải xây vì ngài có nhiều việc phải làm. Trong tương lai,
có cháu ngài là Mộc-Xoa-Già-Ma-Ni A-Bà-Da (Dutthagàmini Abhaya)
sẽ xây đại tháp.
Vua hỏi: - Thưa đại
đức! Công đức xây tháp của con cháu của con, con có được
hưởng không?
Ðáp: - Không được!
Vua lại tạo điều
kiện để góp phần công đức bằng cách dựng một trụ đá
cao 12 trượng và khắc trên trụ: Trong tương lai, cháu của
ta tên Mộc-Xoa-Già-Ma-Ni A-Bà-Da sẽ xây đại tháp tại đây.
Vua lại thưa hỏi: -
Hiện nay, Phật pháp đã đâm rễ vững chắc vào nước Sư-tử
chưa?
Ma-Hê-Ðà đáp: - Chưa!
Hỏi: - Ðến bao giờ?
Ðáp: - Nếu người dân
nước Sư-tử xuất gia cha mẹ họ là người nước Sư-tử,
nên không lẫn với người nước khác. Sau khi xuất gia, họ
sẽ giữ gìn pháp tạng và luật tạng. từ đó về sau,
Phật pháp mới đâm rễ vững chắc vào nước Sư-tử.
Ðược vua hỏi cho rõ
thêm, đại đức đáp: - A-Nổ-Xoa cháu vua xuất gia làm
Tỳ-kheo. Vị này đối với Phật pháp rất tinh tấn dũng mãnh.
Vua lại hỏi: - Lúc này,
con phải làm gì?
Ðáp: - Nên làm nhà
tập họp (Mandapa) của chúng tăng.
Vua đáp: - Lành thay!
Bấy giờ, nhà vua có
đại thần tên Di-Già-Bàn-Trà (Meghavannàbhaya). Tại chỗ ở
của vị này, ngôi nhà tập họp được dựng lên giống như
cung điện của vua A-Xà-Thế. Nhờ vào uy đức của vua, ngôi
nhà đã hoàn tất với các loại âm nhạc và được tự nhiên
phân bố đến khắp nơi (sakasakasippe ppayojetvà).
Vua suy nghĩ: Ta hãy đi
xem Phật pháp mọc rễ (vững chắc vào xứ này).
Có trăm ngàn người tùy
tùng theo vua cùng đi đến vườn tháp.
Luật Thiện Kiến
Tỳ-Bà-Sa
- Quyển Thứ Ba -
--- o0o ---
Mục
Lục |
I | II
| III
|
IV
|
V
|
VI |VII
|
VIII
|
IX
| X
|
XI |
XII |
XIII |
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ Bình Anson
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ luật
này (Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002