Theravàda
(Thượng-tọa bộ)
Chú Giải Luật Thiện Kiến
Samantapàsàdikà Nàma
Vinayatthakathà
Hán dịch:
Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra)
Việt dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh (Caràna-citto Bhikkhu)
Phật Lịch
2543 (1999)
---
o0o
---
Quyển
thứ bảy
-ooOoo-
Pháp
sư nói: Sau đây sẽ giải thích từng câu trong luật. Chữ
gọi là (danh) trong luật văn không chỉ cho một sự việc mà
bao gồm người, tu tập, sinh ra, tên, họ, giới, chùa, hành
động, tuổi tác. Sau đây, tôi sẽ trình bày rõ từng vấn
đề trên. Người (puggala) là người nào đó hoặc cao,
thấp, đỏ, đen, trắng, mập, ốm. Sự tu tập (Yutta) là tu
thiền định hoặc về tăng sự, hoặc về học vấn. Sinh
nghĩa là sinh vào nhà Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn hay Tỳ-xá
hay Tu-đà (Jacca - khattiya, bràmana, vessa, sudda). Tên, có khi tên
Phật-đà-lặc-cật-đa, hoặc Ðàm-vô-lặc-cật-đa, hoặc Tăng-già-lặc-cật-đa
[nàma (buddharakkhita, dhammarakkhita, sangharakkhita)]. Họ, hoặc là
họ Ca-chiên-diên, Bà-tư-xoa, Câu-tư-dạ (gotta - kaccàyana, vàsettha,
kosiya). Giới, tùy theo giới cấm mà họ thọ trì (sila). Chùa
(vihàrin) tự viện mà họ cư trú. Hành (gocara - chỗ đi
lại, vật thực) là hoạt động, sống theo nghiệp. Tuổi tác
(Samp.Thera) là năm, mười, hai mươi, ba mươi tuổi. Chữ
gọi là (danh) trong văn luật chỉ cho các sự kiện trên.
Nếu hành động Tỳ
kheo thì được gọi là Tỳ kheo. Tỳ kheo là người đi xin
(khất-sĩ). Dù có (xin) được hay không cũng gọi là khất sĩ.
Ðây là hành động của người thiện. Ðức Phật, Bích-Chi-Phật,
Thanh-văn đều thực hành pháp khất thực. Người nghèo hay
giàu mà xuất gia học đạo, từ bỏ trâu bò, ruộng vườn,
việc nhà và các công việc nuôi sống bằng sự nghiệp
thế tục thì đi khất thực để sống chứ không có tư
hữu, đều phải lấy bốn biển làm nhà ở, gọi là Tỳ
kheo.
Y-phục phải đem cắt
rọc ra (bhinnapatadhara) rồi mới mặc là để làm mất giá
trị của y, dùng kim chỉ may lại, làm cho không còn mịn êm
nữa mà trở nên thô xấu. Y phục này trước đây trắng đẹp,
nay dùng vỏ cây nhuộm phá mất màu của nó, trở thành y cũ,
người xử dùng y này gọi là Tỳ kheo. Thế nên, trong luật
có nói rằng ai thường mặc y phục bị cắt rọc này thì
gọi là Tỳ kheo.
Cũng có lúc gọi sa di
là Tỳ kheo (khất sĩ). Như có đàn việt đến thỉnh Tỳ
kheo, sa di tuy chưa thọ giới cụ túc nhưng cũng gia nhập vào
số Tỳ kheo; trường hợp này gọi là mang tên Tỳ kheo (danh
tự Tỳ kheo).
Câu: Trưởng lão, ta cũng
là Tỳ kheo ... đây là giả danh Tỳ kheo.
Pháp sư nói: - Tại sao
gọi là giả danh Tỳ kheo? Như trưởng lão A-Nan đi ban đêm,
thấy một Tỳ kheo phạm giới nên hỏi: - Ôi! Ðấy là ai
vậy?
Tỳ kheo phạm giới lên
tiếng đáp rằng tôi là Tỳ kheo. Trường hợp này gọi là
giả danh không chân thật.
Thiện lai Tỳ kheo
(ehi-bhikkhu). Có người bạch y (thế tục) đến cầu xin
Thế Tôn xuất gia. Thế Tôn quán sát căn cơ của họ, nếu
đầy đủ nhân duyên có thể độ được thì Ngài gọi:
Thiện lai Tỳ kheo (hãy đến đây này Tỳ kheo!). (Ðược
Phật gọi như vậy) râu tóc người này tự rụng và trở
thành Tỳ kheo.
Gọi ở đây nghĩa là
từ trong tấm y nhiều mảnh (rattapamsukùlantara), Như Lai đưa
bàn tay phải màu hoàng kim ra, bằng tiếng phạm âm
(Bramhmaghosa) gọi hãy đến đây (thiện lai) tu tập phạm
hạnh để tận diệt nguồn khổ.
Nghe Phật nói chưa
xong, vị này đã thành Tỳ kheo, đắc giới cụ túc, có đầy
đủ cả ba y ca-sa tươi sáng như hoa sen đỏ, vai trái mang bát
đất màu như cọng hoa sen xanh (nìluppala), kim (cùsi), chỉ
(bandhana), dao cạo (vàsi), túi lược nước (parissàvana)... Tám
vật này là đồ dùng thông dụng của người xuất gia.
Thế Tôn làm hòa thượng vừa là giới sư. Vị này tự nhiên
có đầy đủ oai nghi, đến bên Phật đem đầu mặt lạy sát
chân Ngài rồi ngồi qua một bên.
Pháp sư nói: - Từ khi
Thế Tôn đắc đạo cho đến khi vào Niết-bàn, có bao nhiêu
vị thiện-lai Tỳ kheo?
Ðáp: - Tỳ kheo như
vậy có một ngàn ba trăm bốn mươi mốt vị (1341).
Hỏi: - Tên họ các
vị ấy là gì?
Ðáp: - Nhóm A-nhã
Kiều-Trần-Như (Annàta-Kondanna) có năm vị. Tiếp đến là
con trưởng giả Da-Thu (Yasa) một vị và năm mươi bốn người
bạn thân (sahàyaka) của vị ấy. Bạt-Quần (Bhaddavaggiya) có
ba mươi người. Xà-Trí-La (Purànajatila) một ngàn người.
Hại vị đại Thanh-văn (Aggasàvaka) có hai trăm năm mươi người.
Ương-Quật-Ma-La (Angulimàla) là một người. Do đó, trong
luật khen ngợi 1.341 vị.
Một ngàn ba trăm,
Bốn mươi mốt người,
Có tín tâm lớn,
Ðích thân gặp Phật.
Như Lai từ bi,
Ðưa tay hoàng kim,
Dùng phạm-âm gọi,
Thiện lai Tỳ kheo.
Có đủ y bát,
Ðược độ đúng lúc.
Bậc có đại trí tuệ
cũng đều được gọi là thiện lai Tỳ kheo chứ không
phải chỉ riêng các vị Tỳ kheo thiện lai ở trên. Lại có
các vị thiện lai Tỳ kheo khác như nhóm Tư-Lâu-Bà-La-Môn
(Selabràhmana) ba trăm người, nhóm Ma-Ha-Kiếp-Tân-Na (Mahàkappina)
một ngàn người, một vạn người ở nước Ca-duy-la-vệ (Kàpilavatthu)
và một vạn sáu ngàn người cùng xuất gia với Ba-dạ-la-ny
Bà-la-môn (Pàràyanikabràhmana), họ đều là bậc thiện lai
Tỳ kheo. Sự việc này được nói đến trong kinh tạng,
trong luật tạng không nêu ra tên các vị ấy.
Ðắc giới cụ túc
bằng quy y nghĩa là đọc ba lần câu văn ba quy y thì đắc
giới cụ túc. Như trong luật có các trường hợp đắc
giới cụ túc như: - Thiện lai Tỳ kheo, ba quy y, được giáo
thọ, vấn đáp, thọ trọng pháp (garudhammapatiggahana-upasampadà),
nhờ sứ giả (Dùtena-upasampadà), với tám lần nói (atthavàcika-upasampadà),
bạch tứ yết-ma (nàtticatutthakamma-upasampadà).
Pháp sư nói: - Trường
hợp đắc giới cụ túc với thiện lai và ba quy y thì đã nói.
Các trường hợp khác như:
Ðược giáo thọ mà đắc
giới như trường hợp Phật bảo Ca-Diếp rằng: Ông nên
học như thế này. Ðối với bậc thượng trung hạ tọa, ta
đều có tâm tàm quí. Phật bảo Ca-Diếp rằng: Từ nay ông
nên nghe kỹ tất cả thiện pháp và khắc vào cốt, ghi vào
tâm, với ý nghĩ rằng tôi đang chú ý, lắng tai nghe pháp.
Phật bảo Ca-Diếp rằng: Ông nên học niệm thân như vậy
không nên bỏ qua. Này Ca-Diếp! Nên học như vậy.
Ðại đức Ca-Diếp
nhờ được (Phật) dạy bảo như vậy nên tức thì đắc
giới cụ túc. Sự đắc giới cụ túc của Ca-Diếp là nhờ
thần lực của Phật.
Ðắc giới cụ túc do
vấn đáp như trường hợp Phật cho Tu-Ba-Ca (Sopàka) thọ
giới cụ túc. Bấy giờ, tại chùa Phú-bà-la-dy (pubbàràma),
đang đi kinh hành, đức Phật hỏi sa di Tu-Ba-Ca về tên của
phồng trướng (uddhumàtakasannà-một trong 10 pháp quán bất
tịnh) và tên của sắc, hai pháp này đồng nhất hay khác
nhau. Ðược hỏi theo 10 bất tịnh, Tu-Ba-Ca đáp theo từng pháp.
Phật liền khen ngợi: - Lành thay! Và hỏi tiếp rằng: Con
bao nhiêu tuổi?
Ðáp: - Con bảy tuổi.
Phật bảo với Tu-Ba-Ca
rằng con trả lời đúng đắn các câu hỏi với tâm chân chánh
giống như bậc Nhất-thiết-trí. Ta cho phép con thọ giới
cụ-túc. Ðây gọi là đắc giới cụ túc nhờ hỏi đáp.
Thọ trọng pháp đắc
giới là trường hợp Tỳ kheo ny Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Ðề chấp
nhận thọ tám trọng pháp nên đắc giới cụ túc. Sai sứ
thọ giới cụ túc như cô ny Bán-ca-Thi (addhakàsi ganikà) sai
sứ.
Tám lần nói đắc
giới cụ túc nghĩa là (giởi tử ny) sau khi Tỳ kheo ny bạch
tứ yết-ma rồi, lại được Tỳ kheo bạch tứ yết-ma nữa
(mới đắc giới) nên gọi là tám lần nói đắc giới cụ
túc.
Bạch tứ yết-ma đắc
giới cụ túc là pháp mà các Tỳ kheo đang sử dụng hiện
nay kể cả trường hợp tám lần nói đắc giới cụ túc.
Pháp sư nói: - Căn cứ
bản luật, tôi sẽ trình bày sự việc trên. Phật bảo các
Tỳ kheo rằng: Ta cho phép các ông thọ giới cụ túc bằng cách
đọc ba quy y. Như vậy là Phật cho phép các Tỳ kheo thọ
giới cụ túc bằng cách ấy.
Thiện (Bhadra - hiền tài)
là không ác. Ðời này, người phàm (từ khi) tu tập thiện
pháp cho đến chứng quả A-la-hán đều được gọi là người
thiện. Hoàn thiện về giới, định, tuệ, giải thoát,
giải thoát tri kiến (Sìla, samàdhi, pannà, vimutti, vimutti-nànadassana),
người có trọn vẹn cả năm phần này thì gọi là người
thiện.
Chân chính (Sàra -
phần cốt lõi, có giá trị), giới là chân chính tối thượng
nên gọi là chân. Như vải bạch điệp được nhuộm bằng
màu xanh, sau khi có màu rồi thì được gọi là vải xanh.
Tỳ kheo chân chính cũng vậy, nhờ nơi giới nên được
gọi là chân Tỳ kheo. Trừ bỏ hết phiền não, chứng lậu
tận la-hán cũng được gọi là bậc chân-nhân.
Hữu học (sekha) là phàm
phu cùng bảy hạng học-nhân đang học về ba học, gọi là
Tỳ kheo hữu học. Vô-học (Asekha) là bậc đã vượt qua địa
vị hữu học, đạt đến quả vị trên cùng, từ đây không
còn gì phải học nữa, các lậu đã không còn, nên gọi là
vô học.
Tập tăng Tỳ kheo là
tập hợp tăng với tối thiểu là năm vị. Nhiều hơn (năm
vị) là tùy theo yêu cầu nhiều hay ít.
Nên lấy dục (chanda) là
lấy dục trong hiện tại. Tăng đã hòa hợp, không có người
bị cử tội, thì cùng nhau hòa hợp tác pháp yết-ma.
Bạch tứ yết-ma là
một lần bạch và ba lần yết-ma (tìhianusàvanàhi ekàya
natiyà).
Ðúng pháp yết-ma là
tiến hành yết-ma đúng pháp.
Không xấu ( akuppa-không
xao động) là người không có lỗi tác pháp yết-ma.
Tâm thiện chúng không
thể phá hoại nghĩa là không có điều đáng chê nên gọi là
không xấu.
Thiện nghĩa là tác pháp
và làm theo lời dạy của Như Lai một cách tốt đẹp.
Túc là được tướng
của bậc trên, cũng gọi là đạt đến.
Hỏi: - Tướng của
bậc trên là gì?
Ðáp: - Hình tướng
của Tỳ kheo là tướng bậc trên, vì nhờ bạch tứ yết-ma
nên có được tướng bậc trên. Ðây gọi là bạch tứ
yết-ma đắc cụ túc giới. Tôi sẽ trình bày về bạch tứ
yết-ma, những phần khác sẽ giải thích sau. A-Ba-Lâu-Ca
(Apalokanakamma) (hán dịch là bạch chúng với từng việc
nhỏ), bạch yết-ma, bạch nhị yết-ma, bạch tứ yết-ma.
Những pháp yết-ma trên tuần tự được xử dụng từ đầu
đến cuối trong Tắc-đà-ca (khandhaka-kiền-độ-phần đoạn)
và Ba-lỵ-bà-la (Parivàna-phần phụ lục). Tôi sẽ giải thích
rộng. Trình bày ở trong nghĩa là tuần tự giải thích làm
cho người đọc dễ hiểu những phần rắc rối trong
Ba-la-di đầu tiên cho đến phần cuối.
Trong này, chúng tăng đã
tập hợp là chỉ cho các vị Tỳ kheo được bạch tứ
yết-ma, nếu Tỳ kheo nào làm việc bất tịnh thì bị tội
Ba-la-dy còn các Tỳ kheo khác đều gọi là Tỳ kheo, tức là
Tỳ kheo cùng các Tỳ kheo khác trọn đời sống trong giới
pháp.
Giới nghĩa điều cần
phải học. Học (sikkhà) có ba sự học là tăng thượng
giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ (adhisìla,
adhicitta, adhipannà).
Hỏi: - Tăng thượng
giới là gì?
Ðáp:
- Tăng thượng nghĩa là không gì bằng. Giới nghĩa là học
cũng gọi là pháp học không gì bằng.
- Tăng thượng tâm là
quả tâm (tâm thiền định).
- Tăng thượng tuệ là hành động mà biết rõ kết quả.
Hỏi: - Thế nào là
học? Thế nào là tăng thượng học? Thế nào là tâm? Thế
nào là tăng thượng tâm? Thế nào là tuệ? Thế nào là tăng
thượng tuệ?
Ðáp: - Năm giới, mười
giới là học, dù đức Phật có ra đời hay không, trong
thế gian vẫn luôn luôn có giới này. Khi Phật ra đời, đức
Phật và các Thanh-văn (đem giới pháp này) giáo hóa người
khác. Trong thời kỳ Phật chưa ra đời, Bích-Chi-Phật
(Paccekabuddha), các sa-môn và Bà-la-môn tin về nghiệp lực và
pháp, Chuyển-Luân-Thánh-Vương, các đại Bồ tát (kammavàdin
ca dhammika samanabràhmana, cakkavattin, mahàràjan, mahàbodhisatta)
(đem giới pháp này) giáo hóa mọi người, tự thân đạt
được trí tuệ rồi đem dạy bảo cho sa-môn, Bà-la-môn khác.
Người nào có công đức nhờ giữ điều học ấy (giới)
thì khi qua đời được sinh thiên hay nhân gian hưởng thụ các
sự hoan lạc, nên gọi là học giới.
Ba-la-đề-mộc-xoa (pàtimokkha)
là điều học tối thượng. Trong các loại ánh sáng thì ánh
sáng mặt trời là vua. Trong các núi thì núi Tu-di lớn
nhất. Trong các điều học (giới) trong thế gian thì Ba-la-đề-mộc-xoa
là tối thượng. Như Lai ra đời mới có pháp này, nếu không
có Phật ra đời thì chẳng có chúng sinh nào thành lập được
pháp này. Ðức Phật dùng học giới tối thượng này để
chế ngự việc ác của thân, miệng, ý. Có thể nói rằng
ai thọ trì điều học này là đi vào đạo quả, nên gọi là
tăng thượng học. Tâm nghĩa là lục-dục có tám tâm công
đức và tám tâm định thuộc thế gian, vượt qua tất cả
tâm thế gian này, chỉ có Phật ra đời mới (tu tập được)
tâm này nên gọi là thượng tâm. Ðây là tâm đạo và quả
(siêu thế). Ai có tâm này thì không còn làm pháp bất
tịnh.
Tuệ nghĩa là đối
với nhân và quả, nhờ tuệ mà biết được nghiệp là nhân
và báo là quả, nên gọi là tuệ. Dù Phật có ra đời hay
không cũng đều có pháp này. Sau khi ra đời, Phật và
Thanh-văn đem pháp này dạy bảo người khác. Trong thời kỳ
Phật chưa ra đời thì các sa-môn và Bà-la-môn tin về
nghiệp lực và pháp, Chuyển luân thánh vương, các đại
Bồ tát cũng đem pháp này dạy bảo người khác. Như A-Câu-La
(Ankura) tổ chức đại hội bố thí (Mahàdàna) suốt mười
ngàn năm, như Bà-la-môn Tỳ-la-ma (Velàma), như Ty-đà-la
(Vessantara) và các bậc có trí tuệ khác tổ chức đại
hội bố thí, viên mãn các công đức, được sinh cõi trời
vì hưởng thụ các khoái lạc.
Thượng tuệ là hiểu
rõ ba tướng luân chuyển khổ, không, vô ngã. Ðối với hai
pháp thượng học và thượng tâm thì thượng tuệ vượt lên
trên nên gọi là thượng tuệ. Khi nào có đức Phật xuất
thế mới có thượng tuệ này. Tuệ của đạo quả cũng
gọi là thượng tuệ. Thế nên, Tỳ kheo thọ trì tam học mà
làm việc bất tịnh thì bị tội Ba-la-dy. Sự thọ trì
Ba-la-đề-mộc-xoa trong tam học thì gọi là giữ trọn đời.
Lại nữa, các Tỳ kheo khác nhau về chủng tộc, đất nước,
làng xóm, họ tên, nhưng sống chung một trú xứ và cùng
thọ trì một học giới nên gọi là cùng sống chung. Họ không
vi phạm Ba-la-đề-mộc-xoa thì gọi là trọn đời.
Giới suy kém không
mất nghĩa là không xả giới nhưng giới tướng đã suy
giảm mà không nói với người khác. Nếu giới bị suy
giảm có nói với người khác mà không xả giới thì giới
cũng không mất.
Pháp sư nói: - Vì sao
không nói xả giới mà nói giới suy kém? Như trong giới
bổn nói rằng không được cùng ngủ chung qua hai ba đêm vì
bị tội. Do lời nói khinh thường nên Phật mới dạy như
vậy. Giới suy kém cũng vậy. Thế nên giới bổn nói rằng
lời lẽ phải hoàn hảo mới được thuyết pháp. Như vậy,
ý nghĩa xả giới thì đã đủ rõ, cần gì phải nói suy kém?
Ví như vị vua không người tùy tùng, không có mão, chuỗi
ngọc trang sức, không trang nghiêm thì mọi người nhìn vào
không cho là hoàn hảo. Do đó, nói giới suy kém trước, sau
nói không xả giới. Hai câu hợp nhau nên gọi là thiện. Có
trường hợp giới suy kém mà không xả, giới không suy kém
mà xả. Ðối với học giới, tâm ý cảm thấy chán ngán,
không muốn giữ nữa nên gọi là giới kém. Ưu sầu nghĩa là
chán ngán không còn ưa thích Phật pháp nữa, hoặc nói
rằng hôm nay tôi về, ngày mai tôi về, hoặc đi bằng đường
này, hoặc đi bằng đường kia, hoặc than vắn thở dài, tâm
tán loạn không ổn định nữa, nên gọi là ưu sầu.
Muốn xả bỏ pháp sa-môn
nghĩa là muốn bỏ hình tướng Tỳ kheo.
Chán ghét nghĩa là cho
rằng hình tướng Tỳ kheo rất đáng xấu hổ, thấy tướng
Tỳ kheo như thấy phân hôi và ưa thích tướng thế tục.
Pháp sư nói: - Sự trình
bày theo thứ lớp trong luật dễ hiểu như câu: Từ nay tôi
bỏ Phật.
Lành thay! Tôi sẽ bỏ
Phật ... nghĩa là nói ra làm cho người khác hiểu. Như vậy
là giới suy giảm mà không xả giới.
Pháp sư nói: - Ngoài
việc giới suy kém ra, còn nói rằng tôi từ bỏ Phật, Pháp,
Tăng, học giới, luật, Ba-la-đề-mộc-xoa, hòa thượng
(upajjhaya), a-xà-lê (Acariya), đồng học (Saddhivihàrika), đệ
tử (antevàsika), đệ tử của a-xà-lê, đồng học với hòa
thượng (samànupajjhàyaka), đồng học với a-xà-lê và hòa
thượng (samànàcariyaka)...
Mười bốn câu này là
bắt đầu việc giới bị suy kém.
... Hiện nay, tôi là người
bạch y thế tục, là Ưu-bà-tắc, là tịnh nhân (Aràmika), là
sa di, là ngoại đạo (titthiya), là Ưu-bà-tắc của ngoại đạo
(titthiyasàvaka), không còn là sa-môn, không phải là Thích-tử...
Tám câu này đều (là
kết quả của) nguyên nhân giới bị suy kém. Từ hai mươi câu
này phối hợp nhau thành một trăm mười (hai) câu, gọi là
giới suy kém. Tiếp theo, bắt đầu bằng câu tôi nhớ
mẹ... có mười bảy câu.
Ruộng dất (khetta) đứng
đầu là ruộng lúa.
Ðất đai (vatthu) là nơi
sản xuất ra trái ngọt, rau, món ăn, lá.
Nghề nghiệp, nghệ
thuật (sippa) nghĩa là làm nghề đồ gốm hay làm giao dịch.
Bắt đầu là nhớ nhà
nghĩa là ta có cha mẹ nên từ nay phải về phụng dưỡng và
tiếp tục gồm có chín câu. Theo như trên..., ta có mẹ
phải về phụng dưỡng vì mẹ đã nuôi dưỡng ta... theo sau
là mười sáu câu.
Người tu tập
phạm-hạnh ăn ngày một bữa, ngủ chỉ một lần, rất là
khó làm...tiếp theo là tám câu.
Tôi không khả năng, tôi không chịu đựng được,
tôi không vui... có đến 50 câu. lại có 110 câu, có 160 câu.
Pháp sư nói: - Ðã nói
về trình tự của giới bị suy kém, các vị hãy tự biết
lấy những câu xả giới kế tiếp.
Tỳ kheo ..., Pháp sư nói:
- Câu này theo tuần tự dễ hiểu: Tôi từ bỏ Phật,
Pháp, Tăng, học giới, luật, Ba-la-đề-mộc-xoa, hòa thượng
(upajjhaya), a-xà-lê (Acariya), đồng học (Saddhivihàrika), đệ
tử (antevàsika), đệ tử của a-xà-lê, đồng học với hòa
thượng (samànupajjhàyaka), đồng học với a-xà-lê và hòa
thượng (samànàcariyaka)...
Mười bốn câu này đều
là lời nói từ bỏ, nói ra cho người khác hiểu. Ðây là
muốn ra khỏi pháp, ra khỏi chúng Tỳ kheo nên nói cho người
khác hiểu. Nếu người nào có ý định nói Phật của tôi
từ bỏ nhưng gặp khi mở miệng lại nói tôi từ bỏ Phật
thì không phải nói đúng với ngôn ngữ của Thiên-trúc mà
nói bằng một ngôn ngữ khác với câu Phật của tôi từ
bỏ, pháp của tôi từ bỏ... cho đến đồng học. Như trong
luật nói: Ðược thánh lợi mãn túc nên định nói tôi
sắp vào sơ thiền nhưng khi nói lại nói nhầm là tôi vào
nhị thiền thì cũng như trường hợp trên. Người này
muốn xả bỏ tướng Tỳ kheo nên nói như vậy. Nếu người
nghe hiểu được lời nói này thì thành xả giới. Người này
từ pháp của Như Lai rơi xuống hạng thế tục áo trắng cũng
như Ðế-thích, Phạm, Ma bị mất ngôi (Sakkattà và Brahmattà
và cutasatto viya cuto va hoti sàsanà).
Ai nói: Tôi đã bỏ
Phật hay tôi sẽ bỏ Phật hay tôi đang bỏ Phật. Ðây là
lời nói trong ba trường hợp quá khứ, tương lai và hiện
tại. Nếu sai người, viết thư, làm dấu tay bảo với người
khác thì không thành xả giới. Nếu nói dối gạt, không
thật, hoặc dùng tay ra dấu thì mắc trọng tội. Trường
hợp này khác, nếu ai muốn xả và nói với người khác
với trình tự có ý nghĩ về lời nói trước, sau mới nói
ra thì thành xả giới. Nếu nói với một người và người
ấy hiểu rõ thì thành xả giới. Nếu người này không
hiểu mà bên cạnh có người hiểu, không thành xả giới.
Nếu nói với hai người mà một người hiểu, một người
không hiểu thì cũng thành xả giới. Cả hai người đều
hiểu cũng thành xả giới. Nếu nói với cả trăm ngàn người
(cùng một lúc), có người hiểu cũng thành xả giới.
Nếu Tỳ kheo bị dâm
dục xâm chiếm, muốn nói với bạn đồng học lại e ngại
nên vào chỗ khuất nói lớn tiếng từ nay tôi bỏ Phật, hãy
hiểu rõ ý tôi. Lúc ấy, bên cạnh có người hiểu rằng
Tỳ kheo này muốn xả giới, rời khỏi pháp của Như Lai thì
thành xả giới. Trước và sau không ai hiểu lời Tỳ kheo nói
cả thì như lời nói thường của thế gian (không thành xả
giới). Nếu khi Tỳ kheo nói mà họ không hiểu ngay, qua
thời gian sau họ mới suy nghĩ đến và hiểu rõ thì không
thành xả giới. Như nói vu vơ, như nói lời thô ác cúng dường,
vì giận dữ nên nói, đều là những lời không thật trong
lúc không bình thường mà ngay lúc ấy (họ) chú ý và hiểu
thì người nói bị tội. Nếu họ còn nghi ngờ và lâu lâu
sau này mới hiểu thì người nói không bị tội.
Phật bảo các Tỳ
kheo: Nhưng những người giới đã bị suy kém mà nói như trên
thì thành xả giới. Nếu giới không bị suy kém mà nói người
thế tục chấp nhận tôi, tôi muốn thành người thế tục,
tôi đang là người thế tục, tôi đã thành người thế
tục thì không thành xả giới. Nếu nói hôm nay, tôi khiến
người thế tục nhận tôi, làm cho người nghe biết rõ người
nói cố ý nói ra, với ngôn ngữ chung Thiên-trúc hoặc không
phải ngôn ngữ Thiên trúc mà người nghe hiểu rõ thì thành
xả giới.
Pháp sư nói: - Tuần
tự như vậy, bắt đầu là Ưu-bà-tắc, tiếp theo là bảy câu,
tám câu, mười bốn câu, hai mươi hai câu...ta dùng những pháp
này là gì, Phật đối với ta vô ích. Ta đã nói bốn câu này,
các ông tự hiểu lấy. Câu chữ tuy nhiều nhưng nghĩa lý như
nhau.
Pháp sư nói: - Tôi không
thể giải thích hết, các vị hãy xem tuần tự trong luật và
tự biết.
Pháp sư nói: - Tôn
giả Ưu-Ba-Ly nói rằng đức Phật có 100 danh hiệu, Pháp cũng
như vậy, các câu khác cũng như vậy. Tôi sẽ lược nói...
như nói tôi nay bỏ Phật, xả giới, tôi bỏ đức Chánh-đẳng-giác;
tôi bỏ bậc Vô-thượng-ý (Anantabuddhi), bỏ bậc Vô-thượng-giác
(Anomabudduhi); bỏ bậc Bồ-đề-trí (Bodhipannàna), bỏ bậc
không còn ngu si (Vigatamoha), bỏ bậc thông đạt tất cả. Như
vậy, nói rõ tùy theo từng hiệu của Phật thì thành xả
giới.
Lại nói từ bỏ pháp,
trường hợp này không cần nêu rõ danh hiệu cũng thành xả
giới. Như nói bỏ pháp khéo phân biệt thuyết giảng (Svàkkhàta
dhamma), bỏ pháp hiện-chứng (Sanditthika), bỏ pháp vượt ngoài
thời gian (Akàlika), bỏ pháp đến để mà thấy (Ehipassika),
bỏ pháp dẫn đạo hướng thượng (opanayika), bỏ pháp mà
được biết chân thật bằng trí tuệ (Vinnuhi dhamma). Lại nói
rằng tôi bỏ pháp vô vi (Asankhata), bỏ pháp ly dục (Viràga),
bỏ pháp diệt-đế (Nirodha), bỏ pháp cam lộ bất tử (Amata
dhamma), bỏ pháp Trường A-hàm, bỏ Ðoản A-hàm, bỏ Phạm võng,
bỏ Sơ-bổn kinh, bỏ Tăng-thuật-đa, bỏ Ương-quật kinh,
bỏ Bổn-sinh kinh (Jàtaka-nikàya), bỏ A-tỳ đàm, bỏ pháp
thiện công đức (Kusaladhamma), bỏ pháp công đức cũng phi công
đức (abyàkata dhamma - vô ký pháp), bỏ pháp niệm-xứ
(satipatthàna), bỏ pháp chánh tinh tấn (sammappadhàna), bỏ pháp
thần túc (Idhipàda), bỏ pháp căn (Indriya), bỏ pháp lực (
bala), bỏ pháp nhân Bồ đề (Bojjhanga), bỏ pháp đạo
(magga), bỏ pháp quả (phala), bỏ Niết-bàn, tôi bỏ tám
vạn bốn ngàn pháp tụ (Dhammakkhandha). Nếu nêu rõ ra những
danh hiệu như vậy thì thành xả giới.
Tôi bỏ Tăng... lời nói
này không nêu rõ danh hiệu như bỏ tăng sống theo thiện
hạnh, tăng theo chánh hạnh, tăng theo như lý hạnh, tăng theo
hòa hợp hạnh, bỏ tăng bốn đôi, bỏ tăng tám vị, bỏ
ứng cúng, bỏ bậc đáng chắp tay cúng dường, bỏ vô thượng
phước điền (anuttara punnakkhetta) xứng gọi là tăng, cũng
thành xả giới. Nay tôi xả giới. Lời nói này không nêu rõ
danh hiệu cũng thành xả giới. Như nói xả giới bằng các
danh hiệu như xả giới Tỳ kheo, xả giới Tỳ kheo ny, xả
thượng-học, thượng-tâm, thượng-tuệ thì thành xả
giới. Xả luật Tỳ kheo, xả luật Tỳ kheo ny, xả Ba-la-di
thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, xả tăng-già-bà-thi-sa,
thu-lan-giá (thullaccaya), xả ba-dật-đề, xả Ba-la-đề-đề-xá-ny
(pàtidesanniya), xả đột-cát-la, xả đầu-bà-hòa-đa (dubbhàsita
- tội vi tế), nêu rõ tên các loại giới ấy cũng thành
xả giới. Tôi xả Ba-la-đề-mộc-xoa, tuy không nêu rõ danh
hiệu, cũng thành xả giới. Xả Tỳ kheo Ba-la-đề-mộc-xoa,
xả Tỳ kheo ny Ba-la-đề-mộc-xoa, nêu ra những danh hiệu này
cũng thành xả giới. (Nói) tôi xả điều học cũng thành
xả giới. Xả Tỳ kheo học, Tỳ kheo ny học, thứ nhất,
thứ nhì cho đến Ba-la-đề-mộc-xoa học, xả Chánh-đẳng-chánh-giác
học, xả Vô-thuợng-ý học, xả trí tuệ học, xả ly vô
minh học, tuần tự như trên.
Tôi nay xả vị hòa thượng
độ tôi xuất gia tại chỗ... và truyền giới cụ túc cho tôi
tại chỗ... Tôi xin xả vị ấy. Như vậy, nếu xả bằng cách
nêu rõ danh hiệu hòa thượng thì thành xả giới. Tôi nay
xả a-xà-lê, lời này tuy không nêu rõ danh hiệu cũng thành
xả giới. Như nói vị độ tôi, vị dạy tôi, tôi y chỉ vào
vị đó để học hỏi; tôi xin xả vị ấy. Nếu nêu rõ
danh hiệu của a-xà-lê thì thành xả giới. Nếu nói tôi
xả đệ tử, lời này không nêu rõ danh hiệu nhưng giới cũng
bị xả. Hay nói người mà tôi độ, tôi truyền giới cụ túc,
được tôi cho xuất gia, được tôi cho đắc giới cụ túc,
nay tôi xả người ấy. Xả đệ tử với danh hiệu như
vậy thì thành xả giới. Nay tôi xả đệ tử (gọi tôi là)
a-xà-lê thì cũng thành xả giới. (như nói) người mà tôi
cho xuất gia, dạy bảo, học hỏi nơi tôi, tôi xả người
ấy. Do nêu rõ danh hiệu thì thành xả giới. Tôi nay xả
vị đồng học giới thì thành xả giới. Người mà thầy tôi
cho thọ giới cụ túc, đắc giới cụ túc từ thầy tôi, tôi
xả người ấy. Nếu rõ danh hiệu của vị đồng học cũng
thành xả giới. Nếu nói tôi xả vị đồng học a-xà-lê
với tôi thì cũng thành xả giới. Như nói người mà a-xà-lê
của tôi độ và cho giới cụ túc, học hỏi nơi a-xà-lê
ấy, được a-xà-lê của tôi dạy bảo cho biết, tôi xả người
ấy. Như vậy, nếu nêu rõ danh hiệu người đồng học a-xà-lê
với mình thì thành xả giới. Nếu nói: Tôi xả tất cả các
vị đồng học thì thành xả giới. Người nào mà cùng
học với tôi một loại định, một loại tuệ, tôi xả người
ấy. Như vậy, nếu nêu rõ danh hiệu tất cả các vị đồng
học thì thành xả giới.
Nếu nói: Tôi đang là
người thế tục, thì thành xả giới. Nếu nói: Tôi trở
lại đời sống như trước, tôi làm khách buôn, cày ruộng,
nuôi trâu bò, hưởng năm dục. Như vậy, nêu rõ bằng danh
hiệu thế tục thì thành xả giới. Nếu nói: Tôi đang là
cận sự nam thì thành xả giới. Tôi là cận sự nam, nói
lần thứ nhì, nói lần thứ ba. Tôi giữ năm giới hoặc
giữ mười giới. Tôi đang là cận sự nam. Như vậy, nếu nêu
rõ danh hiệu là cận sự nam thì thành xả giới. Nếu nói tôi
đang làm tịnh nhân thì giới liền xả. Nói: Tôi đang làm
người sai khiến của chúng tăng, tôi đang phân chia cháo, phân
gạo, phân cây, trái. Dùng danh hiệu tịnh nhân như vậy thì
thành xả giới. Nói: Tôi làm sa di thì thành xả giới. Tôi
làm sa di nhỏ, sa di trẻ. Nếu nêu rõ danh hiệu sa di như
vậy thì thành xả giới.
Nói: Tôi đang làm
ngoại đạo thì thành xả giới. Nói: Tôi làm ny-càn-đà
(nigantha), A-dần-bà-ca (Ajvivaka), làm Ða-ba-tu (Tàpasa), làm
Ba-lị-bà-sà (Paribbàjaka), làm Bạn-lang-cụ (Pandaranga); dùng
những danh hiệu ngoại đạo như vậy thì thành xả giới.
Nếu nói: Tôi là cận sự nam của ngoại đạo thì thành
xả giới. Như nói tôi là cận sự nam của Ny-càn, làm cận
sự nam của A-diễn-ưu-bà-tắc-ca, làm cận sự nam của Ða-bà-tu,
làm cận sự nam của Ba-lỵ-ba-xà, làm cận sự nam của
Bạn-lang-cụ. Nếu nêu rõ các danh hiệu ngoại đạo như
vậy thì thành xả giới. Nếu nói tôi không phải là sa-môn
thì thành xả giới.
Như nói: Tôi phá
giới, làm việc ác, làm pháp che đậy ô uế bất tịnh, không
phải sa-môn mà tự xưng sa-môn, không phạm hạnh mà tự xưng
phạm hạnh, bên trong chứa đầy hôi thối. Nếu nêu rõ
những danh hiệu sa-môn như vậy thì thành xả giới. Nếu nói:
Tôi không phải là Thích-tử (Asakyaputtiya) nữa thì thành
xả giới. Nói: Tôi không phải Chánh-đẳng-giác tử, không
phải Vô-lượng-ý tử, không phải Vô-thí-ý tử, không
phải Bồ-đề-trí tử, không phải Dũng-mãnh tử, chẳng
phải Vô-ngu-si tử, không phải Thông-đạt-vô-ngại tử, không
phải Thắng-thắng tử, nếu nêu rõ danh hiệu Thích-tử như
vậy thì thành xả giới. Với nguyên nhân này, với biểu
hiện này, với phương tiện này, dùng danh hiệu của Phật,
nói ra như vậy rồi đều thành nhân của xả giới. Nếu không
nêu rõ danh hiệu Phật ra mà chỉ nói bằng những từ ngữ
còn lại thì không thành xả giới.
Pháp sư nói: - Như
vậy tôi đã nói rõ việc xả giới tướng. Ðối với
việc không xả giới đã nêu thì không nên nghi ngờ. Tôi đã
nói rộng việc xả giới, lấy người làm nguyên nhân,
hoặc nhân vì người mà thành xả giới, hoặc nhân vì người
mà không thành xả giới.
-ooOoo-
Pháp
sư nói: - Luật bản có nói: Phật bảo các Tỳ kheo: Thế nào
là không thành xả giới? Câu nói bắt đầu bằng sự điên
đảo, hoặc dạ-xoa điên cuồng, hoặc nói năng điên
cuồng, ngoài ra những trường hợp xả giới do tâm điên đảo,
thì không thành xả. Với ý rất thích thú, xả giới với
người điên cuồng nhưng kẻ điên này không hiểu giới thì
không thành xả giới. Người tâm tính không bình thường thì
cũng như dạ xoa.
Pháp sư nói: - Ðiên
cuồng như dạ-xoa cũng như lời nói điên cuồng đều không
có tội, sau sẽ nói rõ. Xả giới với tâm không ổn định
thì không thành xả giới. Như quá đau khổ, khổ như dao
cắt vào thân làm cho ngất ngây nên nói ra lời xả giới thì
không thành xả. Nếu nói xả giới với người quá đau
khổ nhưng họ vì đang đau khổ nên không hiểu lời nói này
thì cũng không thành xả giới. Nếu nói xả giới với thiên
thần như địa thần cho đến thiên thần A-suất-nỵ-xoa
(Akanitthadevatà) thì không thành xả giới. Nếu nói xả
giới với súc sinh như ma-hầu-la-già, ca-lâu-la- khẩn-na-la,
voi, vượn khỉ (mahoraga, garula, kinnara, hatthin, makkata) và các
loại súc sinh khác thì không thành xả. Người điên cuồng
nói xả giới với người điên cuồng, vì không hiểu nên
không thành xả.
Pháp sư nói: - Hướng
đến thiên thần xả giới thì họ biết ngay vì họ có công
đức lớn. Họ có ba nhân thọ thai (tihetupatisandhika) nên
hiểu biết nhanh. Nếu người này thay đổi tâm, muốn xả
giới thì chư thiên thần đã biết rõ. Vì hộ trì sự dễ
thay đổi của tâm người nên đức Phật không cho mất
giới. Do đó, Phật không cho phép xả giới với thiên
thần, không ngăn cấm đối với người, có trường hợp
cho phép, có trường hợp không cho, có trường hợp xem như
nhau, có trường hợp xem không như nhau. Nếu nói với người
thế tục hay xả giới mà hiểu rõ việc xả giới thì thành
xả giới. Nếu người kia không hiểu thì không thành xả
giới.
Pháp sư nói: - Tôi nói
về ý nghĩa này. Thiện ngữ (Ariyaka) nghĩa là ngôn ngữ mà
người thiện xử dụng. Ðó là ngôn ngữ nước Ma-yết
(Magadhabhàsà). Nếu ở vùng biên địa như nước An-đà-la-di
(Andha-damila) thì không hiểu ngôn ngữ nước Ma-yết. Có
những nước ngôn ngữ khác nhau nên không hiểu tiếng nói
của nhau. Do đó, khi cần phải giáo hóa, ông nói lời nước
Ma-yết nhưng họ không hiểu thì trước hết phải dạy cho
họ hiểu. Lời nói đùa, nói gấp, nói nhầm, như nói tôi
xả Phật, do nói như vậy với sự ngu si thì không thành
xả giới. Người có trí tuệ mà nói gấp, nói nhầm, cũng
không thành xả giới. Không muốn xả giới mà nói xả thì
cũng như người đọc luật, như người nghe luật, như người
tụng luật, như người dạy luật (nói về xả giới). Nói
những lời như vậy thì không thành xả giới. Muốn nói
với người khác nhưng không nói nhưng đã có tướng trạng
giới suy (nên có ý nghĩ) tôi nay xả giới; nhưng không nói
ra. Ðây là muốn nói mà không nói. Nói với người ngu si,
người già cả, tượng người bằng đất, bằng gỗ, với
trẻ con nơi thôn dã và đến nơi nhưng không nói thì không
thành xả giới.
Pháp sư nói: - Tôi nói
tóm lại, nếu dùng tất cả những phương tiện thuận lợi
mà bắt đầu bằng câu nói tôi xả Phật thì thành xả
giới. Nếu nói khác ( thiếu chi tiết này) thì không thành
xả giới.
Pháp sư nói: - Bắt đầu
từ việc hành động bất tịnh, tôi sẽ trình bày về ý
nghĩa này. Như trong luật nói, thế nào là hành động bất
tịnh?
Ðáp: - Là làm việc
bất hảo, việc người thiện không làm, là hành động
của kẻ hoang dã, ngu si. Như trong luật nói rằng tội
trọng có khi do việc lấy nước nơi vắng vẻ chỉ có hai
người. Ý nghĩa của ác pháp này là bắt đầu từ việc
lấy nước (Odakantika) đưa đến sự việc xúc chạm nhau qua
bãi cát và thành tội lớn, nên gọi là bất tịnh hạnh.
Nơi khuất kín là nơi
vắng người nên hai người có thể làm việc bất tịnh.
Hỏi: - Thế nào là làm
việc bất tịnh?
Ðáp: - Cả hai đều
mong muốn và thích thú, hay cả hai đều thụ hưởng dục thì
gọi là làm việc bất tịnh. Như trong luật nói rằng đem
phần ngoài thân thể của nam đặt vào phần ngoài thân
thể của nữ và ngược lại, đem nam căn đặt vào nữ căn,
nếu đi vào chỗ gió không vào được, chỗ ẩm ướt bằng
chừng một hạt mè (Ekatilabijamattampi vàtena asamphutthe allokàse
paveseti) thì phạm tội Ba-la-dy. Trong nữ căn (Itthinimitta) có
bốn mặt và phần giữa (passa) là năm. Cả năm chỗ này đều
là nơi sinh tội. Nam căn cũng có bốn mặt và phần đầu có
kín và lộ. Cả sáu phần này, một phần nào tiếp xúc cũng
bị phạm tội Ba-la-dy. Phần khuất kín như cong ngón tay,
phần đầu lộ ra, cao thấp đều phạm. Nếu nam căn có
mọc thịt chết nên không cảm giác thích thú, phạm Ðột-cát-la;
có cảm giác thích thú, phạm Ba-la-dy. Dùng lông ở nam căn,
đầu ngón tay đưa vào (nữ căn), phạm Ðột-cát-la.
Pháp sư nói: - Ðây là
làm việc bất tịnh. Vì sao? Ðây là lời bất thiện, các
trưởng lão nghe nói đến việc bất tịnh này thì cẩn
thận chớ kinh ngạc. Ðây là tâm tàm quí của sa-môn, nên
chí tâm hướng về Phật. Vì sao? Ðức Phật vì từ bi đối
với chúng ta, ngài là bậc đế vương trong thế gian này, đã
từ bỏ ái dục đạt đến chỗ thanh tịnh, vì thương tưởng
đến chúng ta mà chế định giới luật nên nói ra lời thô
ác này.
Người nào quán sát công
đức của Như Lai như vậy thì không có tâm chê bai. Nếu
Phật không nói sự việc này thì làm sao chúng ta biết được
tội Ba-la-dy, tội Thu-lan-giá, tội Ðột-cát-la. Nếu pháp sư
thuyết giảng cho người, cho phép người nghe và người nói
dùng quạt che mặt, cẩn thận chớ cười lộ răng (cười
lớn). Ai cười thì đuổi họ ra. Vì sao? - Ðức Phật Chánh-đẳng-giác
vì thương chúng sinh nên nói ra từ kim khẩu, các vị nên
sinh tâm tàm quí để lắng nghe, sao lại cười, nên phải đuổi
ra. Cho đến cùng với súc sinh, đây là lời sau cùng, cùng súc
sinh cũng bị phạm Ba-la-dy, huống chi với người nữ.
Pháp sư nói: - Tuần
tự tôi sẽ giải thích. Chúng sinh có chân không chân. Không
chân như rắn, hai chân như gà cho đến chim cánh vàng, bốn
chân như mèo cho đến chó, các loại lớn dài như trăn
rắn. Tiếp xúc vào một trong ba chỗ của các loài lớn này,
chừng bằng hạt mè thì phạm Ba-la-dy. Ðối với các loại
nhỏ không thể (hành dâm) được thì phạm Ðột-cát-la. Ðối
với cá, đối với các loại cá, rùa, giải, trạnh, sò mà
phạm vào ba chỗ như trên thì cũng bị tội. Trong trường
hợp này có sự khác nhau chút ít, gặp miệng sò rất lớn,
nếu đưa nam căn vào bên trong miệng sò mà không đủ, chỉ
tiếp xúc như mụt nhọt thì phạm thu-lan-giá. Nếu tiếp xúc
với ba chỗ của các loại gà, quạ, chim trĩ, kên kên... tùy
trường hợp mà phạm Ba-la-dy hay Thu-lan-giá. Nếu phạm vào
ba chỗ của mèo, chồn, chó... thì mắc tội như trên.
Ba-la-dy nghĩa là thối
đọa, thua. Ðây là tội của Tỳ kheo. Như trong luật có nói:
Phật bảo A-Nan rằng vì Bạt-Xà-Tử ta đã chế định
giới Ba-la-dy, Tỳ kheo nào có làm việc như vậy thì phạm
tội Ba-la-dy. Ðây gọi là Ba-la-dy.
Pháp sư nói: - Ai phạm
giới này, gọi là kẻ Ba-la-dy. Do đó, trong phẩm Ba-lị-bà
(Parivàna) có kệ:
Ta thuyết Ba-la-dy
Ông hãy chú ý nghe
Ðọa, lạc không hoàn hảo,
Trái nghịch với chánh pháp,
Không được cùng sống chung,
Nên gọi Ba-la-dy.
Ðây nghĩa là người
phạm tội Ba-la-dy thì bị gọi là đọa, cũng gọi là rơi
ra khỏi pháp Như Lai, không còn là Thích-tử, không còn hoàn
hảo trong pháp Tỳ kheo, nên gọi là Ba-la-dy. Không được
sống chung nghĩa là không được cùng chung hành động như lúc
đầu.
Pháp sư nói: - Tôi sẽ
tuần tự nói về tội ấy. Tăng có chung bốn hành động là
trong giới đàn cùng nhau hòa hợp làm bốn pháp sự, gọi là
cùng một hành động. Gọi là năm hành động Ba-la-đề-mộc-xoa
nghĩa là khi tăng cùng thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa ở một
chỗ thì người không biết tàm quí thì không được vào,
không được vào dự tăng sự với chúng tăng mà bị đuổi
ra ngoài, nên gọi là không được sống chung. Thế nên,
trong luật bản nói rằng không được cùng bố tát và làm
các pháp yết-ma. Tỳ kheo phạm tội Ba-la-dy thì không được
sống chung với tăng.
Như vậy là đã trình
bày thứ tự các câu văn giới, vì muốn phân biệt rõ khi
phạm các chỗ khác nên Như Lai kết bằng câu văn này. Căn
đưa vào căn không chỉ riêng cho người nữ mà cho tất cả
giống cái. Nếu phụ nữ bằng vàng bạc thì không thuộc
phi xứ. Nếu đúng là xứ thì phạm tội. Tôi sẽ nói: Nữ
có ba nghĩa là trong ba loại nữ căn. Người nữ có ba đạo
(chỗ sinh tội), hoàng môn có ba loại và có hai căn, đàn ông
có ba loại đều thuộc Ba-la-dy. Người nam, nữ là có đủ
12 xứ, đây cũng dễ hiểu. Hai căn của hoàng môn sẽ giải
thích sau.
Nữ nhân có ba căn, súc
sinh cái cũng vậy, phi nhân nữ có ba căn ( cộng lại là chín
căn). Riêng hoàng môn có hai căn; người, phi nhân và súc
sinh cộng lại chín căn. Người hoàng môn, phi nhân hoàng môn,
súc sinh hoàng môn đều có hai, hợp lại là sáu căn. Nhân
nam, phi nhân nam, súc sinh nam hợp lại là sáu. Tổng cộng là
ba mươi căn. Nếu hai căn tiếp xúc nhau chỉ bằng hạt mè
để làm việc bất tịnh thì phạm Ba-la-dy. Nếu không do tâm
dâm dục thì không thành tội này.
Thế nên trong luật nói:
Tỳ kheo không có tâm dâm dục. Ðây là nói lúc đầu. Tỳ
kheo ở đây chỉ cho Tỳ kheo làm việc dâm dục. Cốc đạo
là hậu môn. Nếu Tỳ kheo hành dâm vào cốc đạo, đưa vào
chỉ bằng hạt mè, bị tội Ba-la-dy. Nếu mình không chủ động
làm mà bảo người làm cho mình, khi làm có ý hưởng ứng
thích thú thì cũng bị tội như trên. Ðây là cố ý chứ không
phải do việc khác mà mắc tội. Người xuất gia bị người
khác ép buộc làm việc bất tịnh. Tỳ kheo này không hưởng
ứng thích thú mà nhất tâm hộ giới thì không phạm tội.
Nếu sau đó, người này thích thú thì phạm tội Ba-la-dy.
Có kẻ thù oán đem người
nữ đến muốn phá hoại Tỳ kheo, hoặc dụ dỗ bằng thức
ăn. Ðến gặp Tỳ kheo, bạn bè, thân quyến nói: - Ðại
đức! Ðây là việc làm của chúng tôi, xin đại đức hưởng
ứng cho. Nửa đêm, họ đưa người nữ đến, gọi Tỳ kheo
thức giấc, hoặc nắm, tay, chân, đầu Tỳ kheo rồi đưa
nữ căn hay cốc đạo vào căn Tỳ kheo. Nếu Tỳ kheo này hưởng
lạc cả trong ba giai đoạn thì phạm tội Ba-la-dy, dù tinh có
xuất ra hay không cũng phạm. Không được nói thế này: Ðây
là do kẻ thù giữ tôi lại nên không phạm. Nếu tâm có thích
thú trong bốn giai đoạn thì phạm. Một, khi mới đưa căn vào;
hai, căn vào trong; ba, lấy ra; bốn, có thích thú. Nếu khi căn
mới vào mà không thích thú, nhưng khi vào trong và lấy ra có
thích thú thì phạm Ba-la-dy. Khi căn vào và đã vào trong không
thích thú nhưng khi lấy ra có thích thú thì phạm Ba-la-dy.
Trong bốn giai đoạn đều không thích thú thì không phạm.
Không thích thú nghĩa là như đưa căn vào miệng rắn độc,
như đưa vào lửa. Thế nên trong luật có nói: Khi đưa vào
lấy ra mà không thích thú thì không phạm Ba-la-dy.
Do đó, Tỳ kheo tọa
thiền quán sát khổ, không, vô ngã, không kể đến thân
mạng, khi người nữ vây quanh thì xem như lửa bao vây, đối
với năm dục xem như năm dao bén của bọn giặc làm hại.
Như vậy thì không có tội. Ở trên là phần bốn việc.
Bốn việc đã rõ như vậy, khi có kẻ thù đưa người nữ
đến chỗ Tỳ kheo, thì không chỉ phạm nơi cốc đạo mà nơi
tiểu tiện hay miệng cũng bị tội. Lại nữa, khi kẻ thù
đưa người nữ đến, hoặc nữ thức suốt đêm, hoặc đưa
người nữ bị say, nữ bị điên, cuồng, nữ đã chết,
hoặc thây chết người nữ mà dã thú chưa ăn.
Pháp sư nói: - Chưa ăn
nghĩa là chưa ăn nữ căn. hoặc đưa thây chết ngưỡi nữ
đến mà nữ căn bị hư hoại nhiều hay ít, không chỉ riêng
nữ căn mà cốc đạo hay miệng cũng vậy. Không chỉ riêng
người nữ mà súc sinh cái cũng vậy, trong ba chỗ ấy hư
hoại còn lại nhiều hay ít. Ðàn ông hai căn và hoàng môn
hai căn bị hư còn lại nhiều hay ít. Ðây có bốn loại như
vậy.
Pháp sư nói: - Người
nữ có ba đạo, ba đạo chung cho bốn (trường hợp?), người
nữ không ngủ có ba cho bốn, người nữ say có ba cho bốn,
người nữ điên có ba cho bốn, người nữ cuồng có ba cho
bốn, thây người nữ còn lại nhiều có ba cho bốn, thây người
nữ còn lại ít có ba cho bốn, thây người nữ còn lại
rất ít có ba cho bốn, cộng lại có hai mươi bảy (?); phi
nhân nữ, súc sinh nữ cũng vậy, hợp ba loại nữ lại có
81 (?). Hoàng môn hai căn giống như người nữ, cộng lại có
81 (?). Hoàng môn và người nam cả hai có ba chỗ cộng lại
là 54 (?). Phi nhân nam và súc sinh nam đều có hai căn cộng
lại là 54 (?). Như vậy, cả người nữ cộng lại có 270
chỗ, nghĩa này dễ hiểu. Tôi sẽ giải thích về ý nghĩa câu
còn lại nhiều hay ít.
Tại nước Sư tử có
hai luật sư cùng học với một a-xà-lê. Một vị tên đại
đức Ưu-Ba-Ðế-Tả (Upatissa), vị thứ hai tên đại đức
Tả-Tả-Ðề-Bà (Phussadeva). Hai vị pháp sư này hộ trì
luật tạng như đang ở nơi kinh sợ. Ưu-Ba-Ðế-Tả có đệ
tử rất nhiều trí tuệ, một là đại đức Ma-Ha Ba-Ðầu-Ma
(Mahàpaduma), vị thứ hai tên Ma-Ha Tu-Ma (Mahàsumma). Ma-Ha Tu-Ma
đã học hết luật đến chín lượt. Tuy cùng Ma-Ha Tu-Ma nghe
luật đến chín lượt nhưng Ma-Ha Ba-Ðầu-Ma học riêng thêm
chín lượt nữa nên rất giỏi. Sau chín lần học luật, đại
đức Ma-ha Tu-Ma lìa a-xà-lê, qua sông ra ở riêng. Nghe đại
đức Ma-ha Tu-Ma đã qua sông ra ở riêng. Ma-Ha Ba-Ðầu-Ma suy
nghĩ: Vị luật sư ở đây rất tài giỏi, thầy ấy đang còn
mà vị kia lại đi đến ở trú xứ khác, thật là dũng mãnh.
Nếu thầy đang còn, thì hằng năm ta nên đến nghe luật
tạng và các phần chú giải chứ không phải chỉ học một
lần, đọc tụng thông suốt mới gọi là luật sư cung kính
luật.
Một hôm, đại đức
Ưu-Ba-Ðể-Tả và Ma-Ha Ba-Ðầu-Ma đứng đầu, dạy 500 đệ
tử. Trong khi đang ngồi thuyết giảng về các câu văn trong
phần Ba-la-dy, có một đệ tử hỏi thầy: Thưa đại đức!
(Căn) còn lại nhiều (hơn một nữa) thì phạm Ba-la-dy, còn
lại ít thì phạm Thu-lan-dá, vậy còn lại một nữa thì như
thế nào và bị những tội gì?
Thầy đáp: - Trưởng lão!
Sở dĩ Như Lai chế định Ba-la-dy thì chế tất cả, nếu
thuộc chỗ Ba-la-dy thì kết tội Ba-la-dy. Ðây là tội
thuộc thế gian, không phải tội do kết. Nếu là còn nữa
phần mà phạm tội Ba-la-dy thì Phật đã kết rồi. Không
thấy như vậy ở Ba-la-dy chỉ thấy ở Thu-lan-dá. Ðối
với tử thi, ở trường hợp còn nguyên quá bán thì Phật
kết tội Ba-la-dy, còn lại ít thì kết tội Thu-lan-dá. Bị
tội Thu-lan-dá mà không bị tội (Ba-la-dy) vì (căn) còn lại
ít. Ðối với tử thi nên biết không còn sống, mà phần
thịt ở căn như da ngoài, gân vẫn còn thì phạm Ba-la-dy.
Nếu thịt đã hư rã,
da không còn nhưng vẫn còn hình dạng, có thể đưa nam căn
vào được thì phạm tội tội trọng. Nếu căn bị hư hết
không còn hình dạng, bằng phẳng như vết thương thì phạm
Thu-lan-dá. Nếu bị chó ăn, căn không còn ở thây chết, hành
dâm vào thịt chỗ ấy thì phạm Ðột-cát-la. Nếu tử thi
đã bị thú ăn hư hoại hết chỉ còn lại ba chỗ mà hành
dâm được vào những chỗ ấy thì phạm tội trọng. Nếu còn
ít hơn một nữa thì phạm tội Thu-lan-dá. Nếu với tâm dâm
dục, đưa căn vào mắt, mũi, tai, da qui đầu, vết thương
người sống bằng chừng một hạt mè thì bị tội Thu-lan-dá.
Các chỗ khác như nách thì bị tội Ðột-cát-la. Do tâm dâm
dục với tử thi chảy nước, chỗ Ba-la-dy thì phạm
Thu-lan-dá, chỗ Thu-lan-dá phạm Ðột-cát-la. Nếu phạm vào
chỗ Ðột-cát-la, tùy theo sự việc phạm mà kết tội.
Nếu tử thi này sình trướng hôi thối, ruồi lằn bu quanh,
mũ chảy ra từ chín lỗ, khó đến gần thì với chỗ
Ba-la-dy phạm Thu-lan-dá, chỗ Thu-lan-dá phạm Ðột-cát-la, các
chỗ Ðột-cát-la mà hành dâm thì phạm Ðột-cát-la. Hành dâm
vào mũi các loài súc sinh như voi, ngựa, bò, lừa, lạc đà,
trâu thì phạm Thu-lan-dá. Với mắt, tai, vết thương và các
nơi khác của các loài trên thì phạm Ðột-cát-la. Nếu
chết đã rịn nước, với chỗ Ba-la-dy thì phạm Thu-lan-dá,
với chỗ phạm Ðột-cát-la thì tùy theo trường hợp nặng
nhẹ mà mắc tội. Nếu tử thi sình lên thì như trước đã
nói bị tội Ðột-cát-la. Với da qui đầu người nam, hoặc
thích sự mềm trơn, hoặc thích làm với tâm dâm dục, hai bên
cùng nắm nam căn nhau bị tội Ðột-cát-la.
Nếu nắm nữ căn với
tâm dâm dục, bị Thu-lan-dá. Như trên rút ra từ bộ Ðại-nghĩa-sớ
(Mahàathakathà). Nếu Tỳ kheo với tâm dâm dục, nắm nữ căn,
hoặc hôn nhau bị tội Thu-lan-dá, duyên khởi do ai?
Ðáp: - Do nhóm sáu Tỳ
kheo. Khi ấy, sáu Tỳ kheo ở bờ sông A-dần-la-ba-đế-dạ
(Aciravatinadì). Khi cùng các con bò lội qua sông, họ nắm
sừng và hành dâm vào vùng giữa sừng hoặc ở vùng có lông
dưới tai tiếp giáp trên lưng, ma sát với ý dâm, không
thể nói hết. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo: Nếu cọ sát do
tâm dâm dục thì phạm tội Thu-lan-dá. Tất cả tướng
trạng như vậy, hãy suy xét để hiểu, không để mất ý
nghĩa này. Thế nào là không mất ý nghĩa này?
Vì ý muốn dùng miệng
đưa qua miệng, trường hợp không thành tướng dâm dục vì
vốn không có tâm dâm dục thì bị tội Ðột-cát-la. Trường
hợp có cảm thọ thích thú với cảm giác mềm trơn, dùng
miệng tiếp xúc miệng, tăng-già-bà-thi-sa. Dùng nam căn
tiếp xúc phần ngoài của nữ căn, tăng-già-bà-thi-sa. Dùng
nam căn tiếp xúc phần ngoài của súc sinh cái, Thu-lan-dá.
Nếu tiếp xúc vì thích sự mềm trơn, Ðột-cát-la.
Tổng cộng có 269 trường
hợp. Ðã nói xong về bốn loại. Như vậy đức Thế Tôn vì
hộ trì người thuận theo giới nên nói ra 274 loại. Như Lai
vì muốn ngăn chặn các Tỳ kheo ác trong tương lai không
thể nói rằng dùng vật bọc nam căn lại mà hành dâm thì vô
tội. Do đó đức Phật bày ra sự việc này để bảo vệ
chánh pháp, không cho 274 điều trên xảy ra trong tương lai,
biểu hiện phân biệt với 14 ngăn che. Có kẻ thù đem người
nữ đến muốn phá hoại Tỳ kheo tịnh hạnh. Họ dùng cốc
đạo, thủy đạo, hai miệng với hai cách sau để phá hại
Tỳ kheo. Một, có cách không cách, có cách là ba đường
của người nữ, không cách là căn của Tỳ kheo.
Pháp sư nói: - Ta sẽ
phân tích sự việc này. Có cách nghĩa là tại ba đường
của người nữ, dùng vật như lá cây, vải hay da thục, sáp
ong, chì, thiết để ngăn cách nữ căn.
Pháp sư nói: - Ngăn cách
tùy theo vật thuận tiện, có và không ngăn cách đi vào nhau
dù cho không cách có cách, không cách không cách, có cách có
cách mà hành động với tâm dâm dục đều phạm tội
Ba-la-dy. Phạm vào Ba-la-dy thì bị tội Ba-la-dy, phạm
Thu-lan-dá thì bị tội Thu-lan-dá, phạm Ðột-cát-la thì bị
tội Ðột-cát-la. Nếu lấy vật đậy nữ căn lại rồi hành
dâm trên vật ấy, Ðột-cát-la. Lấy vật cột vào nam căn,
đem đầu vật ấy đua vào trong nữ căn, Ðột-cát-la. Ðưa
hai vật trên ma sát nhau, Ðột-cát-la. Ðặt ống trúc, đồng
vào nữ căn và hành dâm trong ống này. Nếu có tiếp xúc
với thịt thì phạm Ba-la-dy. Nếu ống nứt ra hai bên, làm
tiếp xúc với thịt, Ba-la-dy. Nếu dùng ống trúc có đốt
đậy trên đầu nam căn, nhưng bốn bên phần còn lại có
tiếp xúc với thịt nữ căn, Ba-la-dy. Nếu căn ở trong
ống, không tiếp xúc với thịt, Ðột-cát-la. Như vậy với
tất cả tội tướng, ông đã rõ. Phần trên là bốn sự ngăn
cách.
Ðã nói rõ bốn sự ngăn
cách là như vậy, không chỉ riêng trường hợp kẻ thù đem
người nữ đến chỗ Tỳ kheo mà họ đem Tỳ kheo đến
chỗ người nữ cũng có cách và không cách như nói ở trước.
Ðã nói xong về bốn việc do kẻ thù. Vì sao? Vì kẻ thù
của Tỳ kheo mới làm như vậy. Hoặc nhà vua là kẻ thù
thứ nhất. Tôi sẽ trình bày. Những kẻ thù này đem đến
chỗ Tỳ kheo bằng những kẻ như người nữ, hoặc giặc
hoặc người nam đa dục thích thú với việc hành dục,
hoặc kẻ phóng dật ưa thích dục, đến chỗ Tỳ kheo,
hoặc giặc càn-đà là giặc thường lấy tim người để
tế quỉ thần.
Vì sao? Giặc này không
chịu cày ruộng, trồng trọt để nuôi vợ con, chỉ sống
bằng nghề cướp phá người trong làng, người buôn để
lấy vật. Những kẻ giặc càn-đà đi cướp thường bị
lao nhọc vì người trong làng và người buôn có phòng vệ nên
không thể lấy được. Tỳ kheo ở chỗ vắng vẻ không người
bảo vệ nên dễ bị cướp. Khi bắt được Tỳ kheo, do suy
nghĩ nếu giết Tỳ kheo thị bị tội nặng, nên chúng muốn
phá giới hạnh của Tỳ kheo nên đưa người nữ đến để
vị ấy phá giới.
Pháp sư nói: - Như
bốn việc đã nói ở trước. Trước đây đã nói người
nữ có ba đạo (đường) hành dâm, đã nói qua rồi, nay nói
rõ để không còn nghi ngờ. Dùng đạo đưa vào đạo.
Hỏi: - Dùng đạo đưa
vào đạo nghĩa là gì?
Ðáp: - Người nữ có
ba đạo, với một trong ba đạo này, đưa nam căn vào. Trường
hợp hai đạo hợp lại thành một, như đưa vào bằng thủy
đạo mà lấy ra theo cốc đạo. Ðưa vào từ cốc đạo mà
lấy ra theo thủy đạo. Ðưa vào theo thủy đạo nhưng bên
cạnh thủy đạo có vết thương nên lấy ra từ vết thương.
Do phi đạo nghĩa là đưa vào theo vết thương, lấy ra theo
thủy đạo. Từ phi đạo đưa vào, hay lấy ra theo phi đạo,
Ba-la-dy. Thu-lan-dá là trường hợp hai đường vết thương
hợp lại thành một, đưa vào theo vết thương thứ nhất,
lấy ra theo vết thương thứ hai.
Thứ đến, tôi sẽ nói
về hai trường hợp nếu không biết, không thích thú thì không
phạm tội. Tỳ kheo ngủ mà biết, thích thú thì không được
nói tôi ngủ. Nếu họ nói không biết, không cảm giác, thì
người nói được thoát tội và đuổi người thứ hai hoàn
tục. Nên hỏi người ngủ rằng ngươi có thích thú không?
Nếu họ có thích thú thì Ba-la-dy. Nếu họ cố ý làm thì
không cần hỏi. Như vậy đã rõ về trường hợp có tội.
Trường hợp không có tội vì không biết: Tỳ kheo này ngủ
say không biết như người nhập định, hoàn toàn không
biết gì thì vô tội.
Như trong luật có nói
rằng Tỳ kheo thưa: - Bạch Thế Tôn! Con không biết việc
ấy.
Phật dạy: Này Tỳ
kheo! Nếu không thức, không biết thì không phạm tội.
Thức mà không cảm giác là biết vì đã thức nhưng không
cảm giác thích thú thì vô tội. Như trong luật có nói: Thưa
Thế Tôn! Con đã thức nhưng không thích thú.
Phật dạy: - Này Tỳ
kheo! Nếu đã thức nhưng không thích thú thì không phạm
tội. Ðiên cuồng có hai trường hợp. Một, điên cuồng bên
trong. Hai, điên cuồng bên ngoài. Ðiên cuồng bên ngoài như
có máu ở khắp thân thể, nên khi bệnh phát sinh thì cả người
sinh ghẻ lở, chấn động toàn thân, dùng thuốc trị thì
hết. Nếu bệnh thuộc bên trong, phát sinh cuồng loạn, không
còn biết khinh trọng mà dùng thuốc không thể trị được.
Bệnh điên cuồng như vậy thì không phạm. Mất trí nghĩa là
như bị dạ xoa làm tâm trí bị thay đổi. Có hai trường
hợp. Một, dạ- xoa hiện hình làm cho người bị sợ hãi nên
mất trí. Hai, dạ-xoa đưa tay vào miệng người và xáo
trộn ngũ tạng nên mất trí. Bị mất trí vì hai trường
hợp này thì không phạm tội. Ngưòi bị trường hợp điên
cuồng mất trí này, gặp lửa thì nắm vào như nắm vàng,
thấy phân thì bốc như bốc bột chiên đàn. Người điên
cuồng như vậy phạm giới không có tội. Gặp người khi
mất trí, khi tỉnh nếu hành động khi tỉnh thì phạm. Người
bệnh thì trong thời gian bị bệnh không phạm. Ban đầu nghĩa
là hành động đầu tiên như Tu-Ðề-Na thì không phạm
Ba-la-dy. Ngoài ra các trường hợp khác như di- hầu Tỳ kheo
Bạt-Xà-Tử thì phạm tội Ba-la-dy. Như trên đã giải thích
phần luật bản (Padabhàaniyavannanà nitthità).
Chú Giải Luật
Thiện Kiến
-Quyển Thứ Bảy-
--- o0o ---
Mục
Lục |
I | II
| III
|
IV
|
V
|
VI |VII
|
VIII
|
IX
| X
|
XI |
XII |
XIII |
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ Bình Anson
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ luật
này (Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002