Theravàda
(Thượng-tọa bộ)
Chú Giải Luật Thiện Kiến
Samantapàsàdikà Nàma
Vinayatthakathà
Hán dịch:
Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra)
Việt dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh (Caràna-citto Bhikkhu)
Phật Lịch
2543 (1999)
---
o0o
---
Quyển
thứ mười một
-ooOoo-
Hỏi: - Nếu đếm chỉ
đến ba hay bốn thì có gì không tốt?
Ðáp: - Nếu hơi thở
bị thúc ép thì khó điều khiển được tâm, như trong
chuồng có quá nhiều bò đang chen chúc lấn ép nhau thì chúng
sẽ phá chuồng để ra. Nếu đếm đủ mười thì thân thể
thoải mái như chuồng rộng rãi. Chuồng rộng thì bò được
nuôi dưỡng dễ dàng.
Hỏi: - Nếu đếm đến
tám, chín thì có gì không tốt?
Ðáp: - Không làm cho
nhầm lẫn nhưng sinh tâm phân vân, hoặc cho rằng ta được
thiền vị, nên sinh tâm mê hoặc. Với lỗi lầm như vậy,
ông hãy từ bỏ. Nếu đếm hơi thở mà đếm rõ chậm rãi
từ từ từng số, thì như người đong ngũ cốc, đầu tiên
đổ vào cho đầy rồi mới đếm một, sau đó mới đong
phần ấy sang. Nếu có cỏ đất thì ông ta nhặt vứt bỏ
ra, khi đổ vào đầy và đếm hai (rồi mới đong), tuần
tự đong như vậy cho đến mười. Tỳ kheo tọa thiền đếm
số (trước) hơi thở ra vào cũng như vậy.
Nếu đếm nhanh thì như
mục đồng đếm bò. Ðếm như thế nào?
Mục đồng có trí, tay
cầm roi, ngồi ngay trên trụ cửa chuồng, dùng viên...làm
số (sakkaram khipitvà) (để đếm) và lùa bò ra ngoài. Khi lùa
bò ra thì ông ta bắt đầu đếm một, hai,ba, bốn, năm... đến
mười con.
Tại sao đếm như
vậy? Có lúc bốn đại không đều hòa, hơi thở vào ra
nhanh thì tùy theo sự vào ra của hơi thở mà đếm nhanh 1.
2. 3. 4. 5; 1.2.3.4.5. Khi đếm bò, người chăn đứng ngay cửa
mà đếm, không đếm bò đang ở trong hay ngoài cửa. Nhờ
theo dõi số đếm mà tâm được định. Vì sao? Như người
đi thuyền ngược dòng nước chảy xiết (candasota), dùng cây
sào chống một, hai, ba, bốn, năm làm cho con thuyền được
vững vàng (để đi lên). Thở vào thở ra cũng vậy. Vì sao?
Tâm ví như chiếc thuyền, hơi thở vào ra như cây sào
chống, (thuyền) tâm trôi chảy theo (sông) năm dục mà được
hơi thở vào thở ra chế ngự làm tâm ổn định. Nếu hơi
thở vào mà tâm theo vào, như chất bổ vào thân làm cho no
đầy. Nếu thở ra mà tâm tùy theo ra, làm pháp quán bị
rộng lớn (phân tán). Do phân tán rộng nên tâm khó được
điều phục. Trừ hai pháp này, vị ấy chỉ trụ tâm tại
chỗ hơi thở tiếp xúc (chóp mũi hay đầu môi trên) thì sau
đó sẽ đắc định. Thế nên trong luật bản nói: Không
được đếm theo hơi thở ở trong hay ngoài.
Vậy đếm đến bao
giờ mới ngưng? Nếu tâm không còn loạn mà vẫn biết rõ hơi
thở ra vào thì không cần đếm nữa. Như vậy là đã bằng
phương tiện đếm mà được tùy niệm (an trú niệm).
Thế nào là tùy niệm?
Biết rõ hơi thở ra vào, không cần nhờ vào sự đếm nữa
mà vẫn biết rõ và an trú niệm trên ba chỗ (hơi thở ra đi).
Nếu thở ra thì bắt đầu là rốn, giữa là tim, cuối là
chóp mũi (Nàbhi àdi hadayam majjham hàsikà poriyosàham). Nếu
thở vào thì bắt đầu ở chóp mũi, giữa là tim và rốn là
cuối. Nếu tâm đi theo hơi thở thì tâm không định. Do tâm
không định thì tâm bị dao động. Thế nên trong luật nói:
Nếu tâm đi theo hơi thở ra, hơi thở vào thì bên trong tâm
không định và trong tâm ngoài thân đều dao động. Do dao động
nên không đắc định. Nếu đi theo hơi thở vào và ra là như
vậy. Thế nên không được theo hơi thở vào và ra ở giai
đoạn giữa và sau, chỉ chú tâm ở chóp mũi, bám chặt vào
đó và ghi nhận hơi thở ra vào. Nếu từ bỏ sự đếm số
thì tâm ghi nhận tự vào định. Như có người bị què trông
giữ em bé bằng cách đặt em bé trong cái nôi treo ở giữa
nhà, ngồi một chỗ, lắc cái nôi qua lại mà (người ấy)
vẫn ở một chỗ chứ không phải di chuyển bằng tay. Tỳ
kheo tọa thiền cũng vậy. Lại nói: Ví như người giữ
cửa, không cần hỏi trước với những người ra vào, chỉ
hỏi khi họ đến ngay cửa, cũng không hỏi họ từ đâu đến
và cầm những vật gì, chỉ biết họ có ra vào mà thôi.
Tỳ kheo tọa thiền cũng vậy, không cần biết trước và
nghĩ lấy thở ra vào. Như vậy, ông hãy tự biết lấy.
Phật dạy: -Ai biết rõ
ba pháp thì tâm được định.
Ba pháp ấy là:
Một, ưa thích vào.
Hai, phương tiện.
Ba, được tăng trưởng.
Như cây gỗ lớn được
đặt vững trên mặt đất. Có người muốn xẻ cây này, trước
tiên xem xét vỏ cây, sau đó dùng cưa xẻ ra, tâm luôn chuyên
chú nhìn (chỗ) răng lưỡi cưa (tiếp xúc với gỗ), làm cho
nó đi thẳng đường chứ không nhìn lưỡi cưa qua lại. Quán
hơi thở ra vào cũng vậy. Tư duy về pháp thiền đang hành
trì, với phương pháp hoàn bị như cây gỗ lớn vững trên
đất. Quán sát kỹ chung quanh cây, như tâm khéo tư duy về
pháp thiền. Hơi thở ra vào cũng như lưỡi cưa qua lại. Tâm
chú ý vào lưỡi răng cưa, như chú ý vào đầu mũi. Tỳ
kheo tọa thiền nên hiểu ví dụ này, với thiền định
trong hiện tại, với phương tiện hoàn bị thì đật đến
chỗ tăng thượng.
Hỏi: - Thế nào là
thiền định?
Ðáp: - Thân tâm tinh
tấn và thành tựu nhuần nhuyễn là thiền định.
Hỏi: - Thế nào là phương
pháp (payoga) hoàn bị?
Ðáp: - Với dũng mãnh
tinh tấn làm tiêu trừ phiền não và diệt tận suy nghĩ.
Hỏi: - Thế nào là đạt
đến chỗ tăng thượng?
Ðáp: - Bằng dũng mãnh
tinh tấn làm tiêu trừ kiết sử (samyojana).
Ba pháp (tướng, thở vô,
thở ra) không phải được thành tựu chỉ do nhất tâm quán
sát mà cũng phải nhờ biết rõ ba pháp ấy. Và tâm không
dao động là nhờ vào pháp thiền định trong hiện hành, phương
pháp hoàn bị thì đưa đến chỗ tăng thượng. Khi đắc
được như vậy rồi, sau đó tâm dán chặt vào A-na-ba-na thì
gọi là thành tựu. Tỳ kheo nào thực hành pháp niệm
A-na-ba-na thì vị ấy làm sáng chói thế gian như mặt trăng
ra khỏi mây.
Trong thiền định này,
có người mới làm thì có tướng lành xuất hiện, có người
nhờ sổ-tức mà hiện ra tướng lành.
Tướng lành ấy thế nào?
Tỳ kheo này ngồi dưới đất hay trên giường, không có
tọa cụ, mà (có cảm giác) chỗ ngồi ấy lại mềm mại như
bông gòn. Vì sao? Vì đã sổ-tức nên làm cho thân thể nhẹ
nhàng thoải mái, và tuần tự, hơi thở ra vào thô bị
diệt, thân tâm nhẹ nhàng vô cùng, như ở giữa không trung.
Khi hơi thở trở nên vi tế thì như có như không. Như người
đánh khánh thì (âm thanh phát ra) trước lớn sau nhỏ. Tỳ
kheo tọa thiền sổ tức cũng vậy. Thế nên trong luật nói
trước to lớn sau nhỏ dần.
Pháp sư nói: - Thiền
định sổ tức này khác với những thiền định khác.
Những thiền định khác thì trước vi tế sau thô. Tỳ kheo
nào vào thiền sổ tức này mà thiền tướng không hiện rõ
thì không nên đứng dậy mà nên yên tâm ngồi ngay thẳng và
tư duy. Tư duy như thế nào? Khi đã biết thiền tướng không
hiện rõ, vị ấy nên tự nói: hơi thở vào hơi thở ra này
nơi nào có nơi nào không, có với ai, không có với ai. Và
tự nói rằng người đang ở trong thai mẹ, không có hơi
thở ra vào, khi đang lặn trong nước không có hơi thở ra vào,
chư thiên ở cõi Trường Thọ cũng không có hơi thở ra vào,
nhập vào thiền thứ tư cũng không có hơi thở ra vào, thây
chết cũng không có hơi thở ra vào, sắc hay vô sắc giới cũng
không có hơi thở ra vào, diệt tận định cũng không có hơi
thở ra vào.
Sau khi suy nghĩ như
vậy rồi, hành giả tự chê trách thân mình: Ngươi là người
trí tuệ, không phải đang ở trong bụng mẹ, không ở trong
nước, không ở cõi trời sắc và vô sắc giới, không
phải đang vào định diệt-tận, không phải đang ở cõi
trời Trường Thọ, chẳng phải là thây chết, cũng không
phải đang ở cõi thiền thứ tư. Ngươi đang có hơi thở ra
vào rất vi tế mà không thể biết được, hãy chú tâm
lại. Nếu với người có mũi dài, thì đặt tâm ở lỗ mũi
(nàsàputa). Nếu người có mũi ngắn thì chú tâm trên đầu
môi trên. Thế nên phải giữ chặt ở vị trí này.
Như trong kinh có nói:
Phật bảo các Tỳ kheo, người nào hay quên, không tỉnh giác
chú tâm được thì không thể nhập thiền định A-na-ba-na.
Không chỉ riêng thiền định A-na-ba-na mà đối với các
thiền định khác cũng vậy. Nếu ai chánh niệm được thì
thiền định sẽ hiện rõ. Thiền định A-na-ba-na này rất
trọng yếu. Chư Phật, Bích-Chi-Phật, đại A-la-hán
(Buddhapahà) đều dùng pháp niệm A-na-ba-na này làm nền móng
và sau đó mới được đắc đạo, tùy niệm đưa đến
cực tịnh. Thế nên trong định này tùy niệm phải được
tăng trưởng cùng trí tuệ.
Như may trên tấm vải
rất mỏng thì phải dùng kim chỉ rất nhỏ. Kim ví như tùy
niệm, chỉ như trí tuệ, liên kết với nhau không gián đoạn,
nhờ vào hai pháp này, không cho quên mất hơi thở vào và hơi
thở ra. Như người cày ruộng, khi con bò đã mệt và người
cày cũng mệt thì thả cho bò nghỉ ngơi. Sau được thả ra,
bò đi vào rừng. Nghỉ ngơi xong, người kia lại đi tìm bò
nhưng không cần tìm theo dấu chân bò, mà đi thẳng vào
rừng, đến nơi bò thường đi lại uống nước và nằm
hoặc ngồi chờ cho bò uống nước xong, dùng dây xỏ mũi bò
và cầm gậy tiếp tục lùa nó trở lại cày ruộng. Cũng như
vậy, Tỳ kheo thiền định về thở ra thở vào khi quá mệt
thì tạm thời ngừng lại và nghỉ ngơi, không theo dõi hơi
thở ra vào nữa mà chỉ đặt (niệm) ở chóp mũi, chú ý và
đếm hơi thở ra vào với chánh niệm ví như sợi dây (cột
mũi bò) và trí tuệ ví như cây gậy và cứ tiếp tục chú
ý đến (chỗ) hơi thở vào ra.
Nếu làm được như
vậy thì không bao lâu thiền tướng (nimitta) sẽ hiện rõ
(trở lại) và thân thể khoan khoái như tiếp xúc với bông
gòn, thân cảm thấy mềm mại. Có người thấy như chạm
vải kiết bối, có người thấy như chạm luồng gió mạnh,
có người thấy như các vì sao, có người thấy như chuỗi
ngọc, có người thấy như ngọc trắng bị vung vãi, có người
thấy như (chạm) phải hạt hoa kiết bối, có người thấy
như sợi dây, có người với sự tiếp xúc thô cứng, có người
thấy như ánh lửa, có người thấy như con khỉ, có người
thấy như mây nổi, có người thấy như hoa sen, có người
thấy như bánh xe, có người thấy như trăng tròn.
Vì sao? Như trong kinh nói:
Các Tỳ kheo tập họp tụng kinh nhưng mỗi người lại
thấy điềm lành khác nhau. Có người thấy như núi non, như
dòng sông, như cây rừng, tuy rằng với sự bắt đầu như
nhau.
Hỏi: - Với núi non, dòng
sông và cây rừng, do đâu mà có sự khác nhau này?
Ðáp: - Từ tâm tưởng
mà có. Do ý tưởng của từng người khác nhau nên sinh ra tướng
khác nhau. Có người quán về hơi thở ra, có người quán hơi
thở vào, có người quán thiền tướng (Nimittàranamana).
Nếu không quán như vậy thì cũng không phát minh được pháp
A-na-ba-na (anapana-sati) và không thành pháp sơ thiền. Nếu có
ba pháp này thì thành tựu thiền định.
Tỳ kheo tọa thiền
nếu có xuất hiện tướng như vậy nên đi thưa với thầy:
Con thấy tướng trạng như vậy.
Thầy đáp rằng là tướng
thấy chứ không nói là tướng thiền nhưng cũng không nói
chẳng phải tướng thiền.
Sau khi dạy như vậy,
vị thầy nói: - Trưởng lão! Thầy hãy gia tâm thêm.
Pháp sư nói: - Vì sao
vị thầy không nói đó là thiền tướng hay chẳng phải
thiền tướng?
Ðáp: - Nếu nói với
vị ấy cụ thể riêng từng phần, đấy là thiền tướng
thì (vị ấy) sinh tâm giải đãi (vì kiêu căng nên bỏ
phế); nếu nói không phải thiền tướng thì (vị ấy)
thối tâm. Do đó không nói từng phần mà chỉ ân cần dạy
bảo, thì thiền tướng tự hiện.
Xưa có bài kệ:
Dán tâm nơi pháp quán
Sẽ hiện ra nhiều tướng,
Nếu người có trí tuệ,
Giữ tâm tiếp tục niệm
Ở hơi thở ra vào,
Tinh cần không tán loạn.
Khi thiền tướng xuất
hiện, thì các triền cái bị quản thúc, các phiền não
lặng yên tự ngưng lại. Nhờ hai pháp này mà tâm được an
trụ và trở thành định, hoặc đắc sơ địa, hoặc đắc
trừ phiền não địa, hoặc nhờ vào sự xuất hiện các
thiền chi mà đắc sơ địa (cận hành định). Ðây là đang
đắc sơ định địa.
Hỏi: - An trú vào định
(an chỉ định) và sơ định (cận hành định) là khác hay
giống nhau?
Ðáp: - Khác nhau, sơ định
- cận hành định - là tâm đã thuần thục, đi vào chỗ an
trú của tâm (Bà-bàn-già - Bhavanga, hữu phần: chỗ tâm yên
nghỉ). An trú vào định - an chỉ định - là tâm trong cảnh
giới này luôn cả ngày đã thuần thục không còn tùy
thuộc vào Bà-bàn-già. Hai pháp này khác nhau như vậy.
Nếu thiền tướng đã
hiện rõ, do quán sắc hoặc quán tướng mạo thì phát
triển thêm. Như vua Chuyển Luân còn ở trong thai, được cha
mẹ yêu mến bảo hộ, ở nơi điều hòa ấm mát và dùng các
thức ăn thích hợp. Nếu khéo nuôi dưỡng thì sẽ được
kết quả tốt đẹp.
Tỳ kheo hộ trì thiền
tướng cũng vậy, nếu không hộ trì luôn thì bị mất.
Vậy hộ trì như thế nào?
Một: Ở trú xứ thích
hợp.
Hai: Khu vực đi lại (khất thực) thuận tiện.
Ba: Thân cận người thiện.
Bốn: Thực phẩm thích hợp.
Năm: Khí hậu điều hòa.
Sáu: Chọn uy nghi đi, đứng, ngồi, nằm thích hợp.
Bảy: Tránh xa sự ồn ào và nhất là ăn uống.
Nhờ bảy pháp này hộ
trì thì thiền tướng được an trú kiến cố.
Tuần tự, thiền tướng
tăng trưởng và hiện rõ rồi, các căn được rất thanh
tịnh nhu nhuyến thì đối với tâm, nếu muốn thì có thể
giữ lại hay buông thả, sinh khởi hay điều phục, hoan hỷ
hay xả một cách dễ dàng, gần gũi người đắc thiền tướng
và tránh xa người chưa đắc thiền tướng, chí tâm đối
với thiền và biết rõ thiền tướng. Ðối với mười pháp
này người trí khéo an trú tâm vào, không được biếng nhác,
nên tinh cần tu tập, nên suy nghĩ rằng ta hãy an trú vững vào
định và xả bỏ tâm Bà-bàn-già (hữu phần) mà khởi lên
ý muốn hướng tâm (manadvàvajjanam uppajjati) trụ trong một sát
na rồi diệt, lại khởi lên bốn hay năm (4,5) xà-bà-na
(javana - tốc hành tâm).
Năm tâm này gồm có:
1- Tâm tác động; 2- Tâm học (cận-hành); 3- Tâm tùy thuận;
4- Tâm trung gian; 5- Tâm an trú.
Nếu gom năm tâm này thành
bốn, thì: 1- Tâm tác động cận hành; 2- Tâm tùy thuận; 3-
Tâm trung gian; 4- Tâm an trụ. Tâm thứ tư này cũng gọi là tâm
thứ năm, không có thứ sáu và thứ bảy.
Những tâm trước
thuộc dục giới, tâm thứ năm (an trụ) này thuộc
sắc-giới. Nhờ vào tâm này nên diệt năm chi (triền cái) và
phát sinh năm thiền chi (tầm, từ, hỷ, lạc, nhất tâm), đầy
đủ mười tướng (đặc tính) tốt đẹp cả ba (giai đoạn)
và đắc thiền thứ nhất rồi, thì tư niệm trong pháp quán
này hoàn toàn bị diệt và đắc thiền thứ hai, diệt tướng
này luôn thì chứng thiền thứ ba, đến thứ tư. Huấn
luyện tâm và vượt lên trên.
Pháp sư nói: - Ðây là
nói lược, nếu nói rộng thì hãy xem trong Thanh-tịnh-đạo
(visuddhimagga).
Tỳ kheo đã đắc
thiền thứ tư rồi, khéo ghi nhận và làm cho tăng trưởng.
Nếu muốn đạt đến chỗ hoàn toàn chân thật thì thiền
thứ tư này có năm điều tốt đẹp. Một, tâm trú; hai,
nhập vào; ba, sắc (quyết định); bốn; xuất ra; năm, quán
sát trở lại. Nhờ năm pháp này mà đạt đến chỗ chân
thật.
Tỳ kheo này đã tụ
tập thông suốt (pháp thiền này) có thể bắt đầu quán sát
với sắc, hoặc bắt đầu với vô sắc. Quán sắc và vô
sắc rồi lại tu tập tăng lên với pháp Tỳ-bà-xá-na
(Vipassana, niệm xứ). Tăng lên như thế nào?
Tỳ kheo xuất khỏi
thiền thứ tư rồi, vẫn nắm vững thiền chi (Jhànanga). Sau
khi nắm vững thiền chi này trong tâm, tâm y vào bốn đại
chủng (Cattàibhutani) mà quán sát thân bốn đại. Từ thiền
chi này mà nói thì bắt đầu là phi sắc (tâm) xứ. Do pháp
sắc, phi sắc (tâm) này mà thấy (tâm) thức. Bắt đầu
với bốn đại chủng mà có sắc cộng với các sắc tâm
thức không phải sắc. Nếu xuất khỏi định và (trở
lại) thở vào thở ra thì thân và tâm là nhân của nó. Như
ống bệ bằng da của người thợ rèn, nhờ sức chuyển động
nên có hơi gió vào. Hơi thở ra vào cũng vậy, nhờ vào thân
tâm nên thở ra vào. Tỳ kheo này thấy hơi thở ra vào nên
thấy thân, thấy sắc tâm sở.v.v... cùng với các pháp phi
sắc tâm này. Nhờ thấy rõ danh sắc như vậy, lại quán sát
thấy rõ nhân duyên làm cho danh sắc nối tiếp mãi không
ngừng trong ba đời.
Do danh sắc nối mãi nên
sinh hoài nghi. Sau khi đoạn trừ nghi ngờ (kankhà) rồi thì
quán sát ba tướng (của danh sắc là khổ, vô thường, vô
ngã), sau khi quán ba tướng rồi, lại quán sát sự sanh
diệt. Nhờ quán sát sanh diệt nên trước tiên thấy ánh sáng
và xa lìa mười phiền não thuộc Tỳ-bà-xá-na (dasavipassanùpakilesa).
Sau khi xa lìa (mười phiền não trên) vị ấy phát sinh trí
tuệ về đạo (patipadà-nàna, hành đạo tri kiến). Sau khi vượt
qua pháp đã phát sinh, lại thấy rõ pháp sanh diệt (udayam
pahàya bhangànupassanam patvà) và các niệm kế tục nhau bị
tiêu diệt. Nếu hai trí này (đạo trí và hoại diệt trí)
đã phát sinh thì đối với ba cõi, hành giả sinh (tâm) nhàm
chán (sabbasankhàresunibbindanto). Và tuần tự đắc bốn đạo
như vậy, hành giả đạt đến quả A-la-hán. Có 19 trí quán
sát (ekùnavísatibhedassapacavekkhan ànànassa pariyatappatto
sadevakassa lokassa aggadakkhineyyo hoti) biết rõ (các pháp) đến
cùng tận, và vị này trở thành bậc ruộng phước vô thượng
cho ba cõi gồm cả phạm, ma, Sa-môn, Bà-la-môn.
Ðây là pháp niệm hơi
thở vào hơi thở ra. Và đã giải thích xong bốn câu đầu
của phần thứ nhất (bốn đề tài niệm về thân).
Bốn câu trong ba phần
còn lại cùng với các thiền khác không khác. Thế nên, tôi
sẽ giảng giải.
Giác là đang cảm giác
về hỷ: (trong đề tài) tôi đang (cảm giác) hít vào thở
ra rõ ràng với hỷ. Ðược cảm giác hỷ nhờ vào hai
việc. Ðó là:
1- Ðối tượng quán.
2- Không mê mờ.
Thế nào là có cảm giác
hỷ đối với đối tượng quán? Khi vào hai thiền thì có
hỷ. Ở trong thiền này, khi muốn được (hỷ thọ) với trí
tuệ thì với đối tượng quán, tự nhiên được cảm giác
hỷ thọ. Thế nên nhờ vào đối tượng quán mà được
cảm giác hỷ thọ.
Thế nào là nhờ không
mê mờ mà có cảm giác hỷ thọ? Hai thiền đều có hỷ,
sau khi nhập và xuất thiền này thì trí tuệ quán sát hỷ
ấy (sẽ bị) tiêu diệt nơi thiền quán, thấu suốt tướng
của nó (tướng quán) không bị mê mờ; nhờ không mê mờ nên
đạt đến cảm giác hỷ thọ.
Trong kinh Bà-trí-tam-tỳ-bà
(patisambhidà - vô ngại giải) nói: Bằng hơi thở vào hơi
thở ra mà đạt được nhất tâm. Tâm không tán loạn thì
biết tỉnh thức rõ ràng. Nhờ biết tỉnh thức rõ ràng mà
có cảm giác hỷ thọ. Nhờ thở ra dài nhờ thở vào ngắn
mà cảm giác được toàn thân, cảm giác được sự diệt
của thân. Nhờ thở vào thở ra thành tựu nhất tâm mà
biết rõ. Nhờ hai pháp này mà cảm giác phát sinh.
Do an tâm nên có cảm
giác hỷ thọ, nhờ biết rõ, nhờ pháp quán, quán ngược xuôi
làm tâm ổn định lại, chí tâm giữ tinh tấn mà phát sinh
hiểu biết, tâm tập trung ổn định biết rõ với trí
tuệ, cái cần phải biết thì biết rõ, cái cần phải xả
bỏ thì xả bỏ, cái cần phải quán sát thì quán sát, cái
hiện rõ (tu tập) thì hiện rõ và đưa đến cảm giác hỷ
thọ. Như vậy là đạt được cảm giác hỷ thọ. Các câu
sau ý nghĩa cũng theo như vậy. Trong ba thiền định có điểm
khác vì có cảm giác lạc còn ở bốn thiền định là cảm
giác tâm hành (cittasànkhàrapatisamvedita- cảm giác tâm hành)
Hỏi: - Tâm hành là gì?
Ðáp: - Thọ và tưởng
ấm (vedanàdayo duve khandhà) là tâm hành.
Cảm giác lạc đây
thuộc về thiền tuệ Tỳ-bà-xá-na. Lạc có hai: một là
lạc thuộc thân; hai là lạc thuộc tâm. Trong Vô-ngại-giải
có nói: Diệt tâm hành tức là ổn định tâm hành thô và
diệt nó (olàrikam cittasankhàram passambhanto nirodhento ti attho)
cũng gọi là định chỉ. Nếu nói rộng thì được giải rõ
trong phần thân hành, hãy tự nghiên cứu (yasankhàra). Hỷ
trong câu nói (cảm giác hỷ) về thọ là thuộc hành. Nếu
chọn lấy lạc thì thuộc cảm thọ. Cả hai trường hợp
cảm giác trên trong câu tâm hành (cảm giác tâm hành) thì
gồm cả tưởng và thọ tâm sở (sanna vedanà cetasika - tưởng
thọ tâm sở). Hai pháp này không rời tâm, nếu chọn lấy tâm
hành thì bao gồm cả tưởng và thọ. Bốn câu trong phần này
là nói xong về quán cảm thọ, hãy tự nghiên cứu.
Câu cảm giác về tâm
trong bốn câu thuộc pháp thứ ba (niệm tâm) là thuộc về
cả bốn thiền định.
Cảm giác về tâm
(abhippamodaya-citta) nghĩa là gì? Cảm giác tâm hoan hỷ, hoan
hỷ hoàn toàn, tâm rất hoan hỷ, tôi đang cảm giác thở ra,
thở vào. Có hai mặt hoan hỷ, đó là nhờ vào định và
nhờ vào tuệ quán.
Thế nào là nhờ định?
Có cảm giác hỷ và đi vào hai thiền định và khi đã vào
rồi cũng có hỷ, trong một sát na tâm cùng với hỷ.v.v.. hân
hoan vào trong tâm và rất hoan hỷ.
Thế nào là nhờ tuệ
quán mà nhập vào hai thiền định? Có hỷ (thay đổi) theo
thiền định (nhập vào) và xuất, và nhờ thấy hỷ có
thể bị tiêu diệt nên luôn tiếp xúc với thiền hỷ
(bằng tuệ). Như vậy, tuệ quán Tỳ-bát-xá-na (vipassanàkkhana)
luôn luôn hoạt động với hỷ rong từng sát na là nhờ vào
tuệ quán mà tâm có hỷ như vậy, tùy theo tâm mà có hân
hoan.
Tôi đang hít vào thở
ra với tâm hoàn toàn ổn định. Nhờ vào thiền định thứ
nhất, đặt tâm hoàn toàn ổn định trên đối tượng quán,
(hoặc là) sau khi đã nhập và xuất thiền, hành giả thấy
tâm thiền định bị diệt theo từng pháp trong tuệ quán
Tỳ-bát-xá-na này. Tâm định trong một sát na do hiện-quán
vượt qua tưởng. Tâm định khởi lên trong một sát na ấy
là nhất tâm định. Và tâm hoàn toàn an trụ trong tuệ quán
này.
Câu " Tôi cảm giác
(hít vào thở ra) với tâm giải thoát"
Nghĩa là giải thoát
khỏi phiền não, thoát ly tư và niệm (tầm và tứ) ở
thiền thứ hai, thoát ly hỷ ở thiền thứ ba, thoát ly khổ
và lạc ở thiền thứ tư, giải thoát theo tuần tự như
vậy. Sau khi (nhập) và xuất khỏi thiền, thấy rõ tâm
diệt theo từng pháp trong thiền tuệ Tỳ-bà-xá-na này. Khi hành
giả thấy vô thường thì xả bỏ pháp thường, thấy pháp
khổ thì xả bỏ tưởng về lạc, thấy vô ngã thì xả bỏ
tưởng về ngã, tâm không còn tham đắm. Do không tham đắm
nên quán sát ly dục, từ nơi dục mà quán diệt tưởng,
từ chỗ sinh tưởng mà quán xả bỏ (chấp thủ), từ chấp
thủ mà tâm được giải thoát. Thế nên, trong luật nói:
(quán) hơi thở vào hơi thở ra thì tâm được giải thoát.
Trên đây là (giải thích) câu thứ tư trong phần quán tâm.
Trong bốn câu ở phần
thứ tư thì quán vô thường là tưởng vô thường, nên
biết rõ về quán vô thường, nên biết rõ về sự quán liên
tục về vô thường.
Hỏi: - Cái gì vô thường?
Ðáp: - Năm ấm vô thường.
Hỏi: - Tại sao năm ấm vô thường?
Ðáp: - Vì chúng là pháp
sanh diệt.
Hỏi: - Sanh diệt như
thế nào?
Ðáp: - Là pháp biến
đổi tướng trạng, vì biến đổi nên các pháp đã sinh
(bị biến đổi) không có tướng cố định trong từng sát
na sát na. Ðây gọi là quán vô thường. Bắt đầu là quán
về sắc. Quán sắc vô thường là quán sắc luôn luôn vô thường.
Quán sát nhân (của sắc) là do bốn đại chủng nên có hơi
thở ra hơi thở vào, chúng là pháp hoại diệt, nên gọi là
quán vô thường.
(Ðề tài) quán ly ái
dục.
Có hai loại quán ly ái
dục là: Một, quán tiêu trừ ái dục. Hai, quán hoàn toàn không
còn ái dục.
Hỏi: - Thế nào là tiêu
trừ ái dục?
Ðáp: - Các pháp bị
diệt trong từng sát na (sát na diệt)
Hỏi: - Thế nào là hoàn
toàn không còn ái dục?
Ðáp: - Quán hoàn toàn
không còn ái dục là Niết-bàn.
Nhờ hai pháp này mà đạt
đến chỗ thấy đạo; nhờ thấy đạo mà thấy được pháp
Tịch diệt.
Thấy tịch diệt rồi
thì quán xả ly. Nhờ quán tuệ Tỳ-bà-xá-na mà xả ly
phiền não, chuyển hướng về Niết-bàn.
Như vậy, đây là
(giải thích) phần cuối của pháp niệm hơi thở.
Hết phần niệm hơi
thở (ànàpànasatisamàdhikathà nitthìtà).
Khi ấy, Thế Tôn ... là
nói lược về đoạn: Khi ấy đức Thế Tôn dạy pháp niệm
hơi thở cho các Tỳ kheo. Nhân vì các Tỳ kheo quán bất
tịnh mà cùng nhau tự sát. Do sự việc này, đức Thế Tôn
tập họp chúng tăng lại và quở trách: - Này các Tỳ kheo,
vì sao giúp nhau tự sát, lại nhờ sa-môn Lộc-Trượng giết
các Tỳ kheo...
Sau khi quở trách các
Tỳ kheo. Như Lai kết giới Ba-la-di thứ ba: Tỳ kheo nào
giết người... Bắt đầu là như vậy vì các đệ tử
Thanh-văn có cả thánh và phàm nên không thể mắng các Tỳ
kheo với lời lẽ như: người ngu si, người vô tích sự
(moghapurisa). Sau khi qui định ở phần căn bản của giới này
rồi, sau đó lại kết thêm mà bắt đầu là (cấm sự) khen
ngợi về sự chết và dạy bảo họ chết.
Pháp sư nói: - Tôi sẽ
trình bày về phần căn bản. Như vậy là Phật chế định
giới này xong.
Dục trói buộc
(patibaddhacitta) là dục phát sinh trói buộc tâm.
Khen ngợi sự chết như
nói rằng: Ông ở đời thì bị nhiều khổ não. Ông đã làm
các công đức nên chết được sinh thiên.
Ðã làm thiện... như nói
ông đã làm nghiệp thiện thì chết phải sinh thiên, không còn
nghi ngờ gì nữa.
Không gây nghiệp ác...
như nói rằng ông không sát sinh, không nói dối, không làm
bất cứ nghiệp ác nào mà ông đang bị bệnh cực khổ,
vậy sống làm gì. Vì ông đã tạo nghiệp thiện, nếu ông
chết khỏi nơi này, sẽ sinh trên trời, hưởng thụ năm
dục lạc.
Nghiệp ác là khuyến
khích cho mau chết.
Người bệnh vì nghe
lời nói của Tỳ kheo ấy nên tự sát. Như vậy gọi là
giết.
Biết đó là chúng
sinh, ta muốn làm cho họ chết với sự quyết tâm không do
dự nữa.
Chúng sinh ở đây chỉ
cho con người từ khi còn ở trong thai cho đến khi chết.
Tâm ban đầu của con
người nghĩa là tâm vừa thọ thân (người).
Lời nói này chỉ cho
cảnh giới năm dục, nên gọi là tâm ban đầu. Tâm cùng ba
ấm vô sắc (thọ, tưởng, hành) hợp nhau tạo thành (thai).
Sắc ca-la-la (kalarùpa)
đây là giai đoạn đầu tiên của thân người.
Ngay trong sắc ca-la-la này,
nếu là tướng nam hay nữ thì có 30 sắc, thân tướng hoàng
môn có 20.
Hỏi: - Thế nào là
sắc ca-la-la của nam nữ?
Ðáp: - Khi ca-la-la mới
được tạo thành như giọt dầu trong suốt trên đầu sợi
lông dê.
Có bài kệ:
Như giọt dầu rất
nhỏ,
Trong suốt không có cặn
Ca-la-la mới thành,
Màu sắc cũng như vậy.
(Thân loài người)
bắt đầu với (sắc) rất vi tế như vậy. Loài người
trong quá khứ có tuổi thọ hai ngàn năm. Ca-la-la tuần tự
trưởng thành theo như vậy cho đến lúc già chết. Khi ấy,
gọi là chấm dứt một thân người.
Ðối với ca-la-la, dùng
chuyên môn bằng tay để đập vào, hoặc ma sát, hoặc dùng
thuốc, với nhiều phương pháp làm cho thai ca-la-la không
thể sinh ra được thì gọi là giết chết.
Hai cách sinh. Một là
sinh ở (cõi) sắc; hai là sinh ở (cõi) vô sắc. Trong các
sắc, sinh (ở cõi) vô sắc thì không thể bị giết, sinh ở
(cõi) sắc có thể bị giết, sắc bị giết thì vô sắc cũng
bị giết. Tại sao? Vì vô sắc y chỉ vào sắc.
Hỏi: - Giết sắc là
giết sắc ở quá khứ, hiện tại hay vị lai?
Ðáp:
- Có bài kệ:
Sắc quá khứ không
phải là hiện tại
Sắc tương lai chẳng phải là hiện tại
Sắc hiện tại tiếp tục sanh mãi
Bỏ sắc khứ, lai, lấy sắc hiện tại
Giết sắc hiện tại là sát sinh.
Hỏi: - Thế nào là
hiện tại?
Ðáp: - Là (thời gian)
không gián đoạn trong một sát na.
Hỏi: - Sát na là gì?
Ðáp: - (thời gian)
vừa sinh liền diệt.
Pháp sư nói: - Nếu như
vậy thì không thành giết. Tại sao? Vì tự sinh và tự
diệt, không tùy thuộc vào sự gián đoạn (giết chết làm
cho diệt)
Hỏi: - Làm sao biết
được?
Ðáp: - Hiện tại đang
tiếp diễn mà quá khứ chưa bị diệt. Như từ ngoài trời
nóng, người kia đi vào nhà ngồi yên thì hơi nóng bị
diệt mất và sự mát mẻ phát sinh tiếp nối không gián đoạn.
Tâm cũng như vậy, phát sinh từ quá khứ tiếp diễn đến
hiện tại không gián đoạn, nếu làm cho (tâm thức) gián đoạn
thì thành sát sinh. Vì (mạng sống trong hiện tại ) là nhân
để sống tiếp tục trong tương lai.
Pháp sư nói: - Phải
biết rõ về chúng sinh, biết rõ về sự giết chết mạng
sống của chúng sinh, biết rõ về phương cách (để giết).
Hỏi: - Thế nào là
biết rõ về chúng sinh?
Ðáp: - Người đời
gọi nhau với giả danh là chúng sinh nhưng kỳ thực chỉ là
hơi thở đang sống.
Hỏi: - Thế nào là
biết rõ về sự giết chết mạng sống của chúng sinh?
Ðáp: - Làm chấm dứt
hơi thở đang sống và không cho sống nữa.
Hỏi: - Thế nào biết
phương cách (để giết)?
Ðáp: - Có sáu phương
cách (chappàyoga).
1- Tự mình (sàhatthika)
2- Bảo người (ànattiya)
3- Ném, bắn... (nissaggiya)
4- An trí (thàvara)
5- Chú thuật (vijjàmaya)
6- Dùng thần lực (Iddhimaya).
Hỏi: - Thế nào là
tự mình?
Ðáp: - Tự mình giết.
Hỏi: - Thế nào là
bảo người?
Ðáp: - Bảo người khác
giết: - Ngươi hãy giết như vậy...
Ném, bắn nghĩa là
bắt đầu với cung tên.v.v... với các khí cụ để bắn ném
làm cho chết.
An trí nghĩa là đặt
chông nhọn, mũi nhọn, đào hố, thuốc độc.v.v...một nơi
nào đó, nếu tiếp xúc thì bị chết.
Chú thuật có hai
loại:
a) A-tháp-bà-ny-da (Àthabbanika).
b) Số.
Hỏi: - A-tháp-bà-ny-da
nghĩa là gì?
Ðáp: - Nước kẻ địch
hay giặc dùng chú thuật (trù ếm) làm cho đầu, bụng đau
đớn và gây các chứng bệnh khác làm cho chết.
Số nghĩa là dựa vào
câu chú, (đọc) từ mười, hai mươi cho đến trăm lần (cho
họ chết).
Thần lực là dùng năng
lực thần thông như Long-vương, Ca-lưu-la, Dạ-xoa, Trời, vua
người (Nàga, supanna, yakkha, deva, Ràjan) giết hại chúng sinh
bằng cách trợn mắt nhìn hay cắn, phun độc làm cho chết.
(Chim) Ca-lưu-la có khả
năng mổ giết trong phạm vi ba mươi tầm. Rồng, dạ xoa,
trời, vua người tùy theo các khả năng phương tiện của mình
mà (có thể) làm cho chúng sinh chết.
Cùng với binh khí:
với những vật như các loại binh khí cho đến dao nhỏ, giúp
cho họ tự sát. Và nói rõ rằng bạn sống thật vô ích không
bằng hãy chết đi. (Sau khi nói ), người này đặt các
dụng cụ tự sát như chùy sắt, đá, cây, dây, thuốc độc.v.v...
bên cạnh người kia và khuyến khích rằng khi ở đời ông
đã tạo các công đức nên chết phải được sinh thiên, hưởng
lạc thú cùng chư thiên ngọc nữ trong vườn nan-đà
(Nandanavana - vườn hoan hỷ), vậy tại sao phải chịu đau
khổ trong đời sống này.
Hoặc bảo người
nhảy xuống ghềnh đá. Ghềnh đá là nơi hai bờ núi giữa
có vực sâu. Hoặc dạy người đi vào địa ngục.
Pháp sư nói: - Dạy người
tự sát như vậy thì phạm tội Ba-la-di. Ðây chỉ cho trường
hợp giết người, nếu giết chúng sinh khác thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Vì sao đức Thế Tôn
chế đầy đủ về giới này? Vì Tỳ kheo ác trong đời tương
lai vậy. Những câu tiếp theo sau dễ hiểu.
Nếu giết bằng các
dụng cụ như thuốc độc, đâm, chém... nhưng không chết
ngay mà sau đó mới chết (vì nguyên nhân trên), Tỳ kheo này
cũng bị tội Ba-la-di.
Tôi sẽ nói về bốn
trường hợp về dê (elaka - dê):
1- Thấy dê đang ngủ
ở chỗ nọ, một Tỳ kheo nghĩ rằng tối đến ta sẽ giết
dê này. (Sau đó) dê ấy đi ngủ chỗ khác mà tại chỗ dê
đã nằm có cha, mẹ hoặc A-la-hán đến và trùm y phục
nằm ngủ. Ðến nơi vì trời tối, Tỳ kheo không biết ấy
là người nên bảo là dê và dùng dao chém. Làm chết cha,
mẹ hay A-la-hán thì bị nghịch tội Ba-la-di. Vì ban đầu có
tâm giết dê nhưng khi chém dao xuống lại sinh ý nghĩ rằng
bất luận là dê hay người nào, ta phải giết cho chết. Do
đó người này bị nghịch tội Ba-la-di.
Có một Tỳ kheo đến
nằm ngủ vào chỗ dê ở. Người giết nói hãy giết người
(ngủ) này thì người giết bị phạm Ba-la-di chứ không
phạm nghịch tội.
Dạ xoa, quỉ thần đến
chen vào chỗ dê ở. Người giết nói hãy giết (kẻ ở)
chỗ này thì phạm Thu-lan-dá, không bị tội ngũ nghịch.
Nếu giết dê thì bị tội Ba-dạ-đề. Nếu có tâm muốn
giết cha, mẹ hay A-la-hán thì tuần tự bị phạm nghịch
tội Ba-la-di.
Biết rõ cha đang ở
trong đội quân ấy mà nhắm vào đội ấy bắn, nếu cha
bị trúng chết thì phạm nghịch tội Ba-la-di. Nếu người
chết không phải là cha thì người bắn chỉ bị tội
Ba-la-di.
Bảo giết người cao mà
họ giết người thấp, bảo giết người áo đỏ mà họ
giết người áo trắng, người bảo không bị tội trọng
(Ba-la-di), người giết bị Ba-la-di. Nếu người sai (giết) nói
rằng gặp ai giết nấy thì bất kỳ ai chết, người sai đều
bị Ba-la-di.
Người sai bảo giết
trong hôm nay, người nhận lời lại giết vào ngày sau. Người
sai bảo giết ngày sau, người nhận lại giết ngay trong ngày
ấy. Người sai bảo giết vào buổi sáng, người giết lại
giết vào buổi chiều. Người giết bị tội Ba-la-di, người
sai thoát tội trọng. Nếu người sai bảo giết lúc nào cũng
được thì khi giết xong, người sai bị tội trọng.
Người sai bảo rằng
nếu có người đến chỗ này, ông hãy giết nó. Khi người
kia chưa đến, người sai lại đi đến đấy, người nhận
lời không biết phân biệt (là ai) nên giết nhầm (người
sai) thì phạm tội Ba-la-di. Tuy chết, nhưng người sai bị
tội Ðột-cát-la vào lúc sai (người khác giết).
Tỳ kheo này sai Tỳ
kheo khác (giết người). Tỳ kheo nhận lời (lại) suy nghĩ
rằng ta nên giết người gần trước. Khi chém dao xuống
giết đúng người (muốn giết), người giết và người sai
đều phạm tội trọng. Nếu giết do sai chuyền nhau thì
phạm như trước đã nói, đúng lúc hay không đúng lúc cũng
như ở trước.
Nếu Tỳ kheo sai Tỳ
kheo giết Tỳ kheo. Khi sai thì người bị giết chưa đắc đạo
nhưng khi sắp giết thì vị ấy chứng quả A-la-hán. Người
sai và người giết đều phạm nghịch tội Ba-la-di.
Không vắng cho là
vắng, nghĩa là mắt không chú ý nên không thấy (nên) cho là
vắng.
Khi cúng dường mà có
Tỳ kheo thù oán ở trong số Tỳ kheo đến dự, lại bị các
vị ngồi trước che khuất nên không biết vị ấy có đến,
lại nói lớn lên rằng người tên... tại sao không bị
giặc giết đi, tại sao không bị rắn độc cắn đi, tại
sao không bị nguời dùng thuốc độc giết đi, ý tôi rất
vui khi kẻ ấy bị chết. Nói như vậy gọi là không vắng mà
nói như là vắng.
Vắng mà nói là không
vắng nghĩa là Tỳ kheo này đến ngồi nơi cúng dường. Tỳ
kheo vừa rồi bị trù rủa biết có Tỳ kheo này đến. Khi
Tỳ kheo này đi rồi (mà Tỳ kheo kia) không biết nên cho
rằng vẫn còn đang có mặt và trù rủa Tỳ kheo ấy. Ðây
gọi là vắng mặt mà nói như là không vắng mặt.
(Ai) nói những lời trù
rủa cho họ chết như trên, đều bị tội Ðột-cát-la.
Pháp sư nói về khen
ngợi sự chết: Ðem thân ra để khen ngợi nghĩa là tùy theo
sự hiểu biết của người kia, hoặc đưa dao, gậy, thuốc
độc hoặc dây... hoặc bảo nhảy xuống ghềnh đá, với cái
chết như vậy, chết rồi sẽ được vật chất, hoặc được
(tái sinh) với tài sản vô cùng, hoặc được sinh lên
trời. Ðây là đem thân ra khuyên bảo, hoặc (bằng cách)
vẫy tay, hoặc rung chân, hoặc đảo mắt.
Gọi lên nghĩa là mở
miệng nói ra lời dạy người khuyến khích theo ý mình để
họ chết.
Khi người này biết người
kia khen ngợi sự chết thì người khen bị tội Ðột-cát-la.
Người làm theo lời khuyên tự tử bị rất đau đớn nhưng
không chết, người kia bị tội Thu-lan-dá. Nếu người nghe
chết thì người khen bị tội Ba-la-di.
Nếu người này không
hiểu lời khen (chết) mà người khác lại hiểu nên nói
rằng ta chết phải được sinh lên trời. Và do đó người
kia chọn lấy cái chết thì người khen vô tội. Nếu người
khen cho cả hai người, ai chết thì họ cũng bị tội
Ba-la-di.
Nếu tâm không nhắm vào
ai mà chỉ khen ngợi chung (với mọi người) về sự chết,
nếu có người vì thế mà chết, bị tội Ba-la-di.
Nếu sai người đến
khen ngợi khuyến khích người A chết, vừa nói ra thì bị
tội Ðột-cát-la, đến nơi nói xong làm người kia (làm theo
mà) chịu đau khổ thì bị tội Thu-lan-dá, người kia bị
chết thì bị tội Ba-la-di.
Sứ giả nghe khen ngợi
rằng chết được sinh thiên mà không nói với người kia,
lại nói với bạn bè thân tộc. Nếu có người vì vậy mà
chết, sứ giả bị tội Ba-la-di, người dạy bị tội Ðột-cát-la.
Nếu sứ giả nghe nói
được sinh thiên nên tự sát, người dạy bị tội Ðột-cát-la.
Nếu viết thư đưa sứ giả mang đi, sứ giả không biết
nội dung thư mà người nhận thư chết, người sai phạm
tội Ba-la-di, sứ giả vô tội.
Nếu viết thư nhưng không
chỉ cụ thể cho ai, mà làm cho người nhận thư chết, nếu
người chết là cha thì người giết phạm nghịch tội
Ba-la-di.
Nếu có tâm giết, tự
giả tạo các loại kinh sách để khen ngợi cái chết, có người
đọc kinh sách này, thấy trong kinh khen ngợi chết được
sinh thiên, người kia làm theo các cách chết trong sách kinh
ấy hướng dẫn và bị chết, người viết sách bị tội
Ba-la-di.
Nếu cha mẹ bị chết
thì người viết bị nghịch tội Ba-la-di.
Nếu sau đó hối hận,
đốt kinh sách ấy (khi chưa làm cho ai chết) thì chỉ bị
tội Ðột-cát-la (vì viết kinh ấy).
Nếu nhiều Tỳ kheo cùng
nhau viết sách kinh khen ngợi việc chết, mà có người đọc
kinh ấy nên chết, các Tỳ kheo đều phạm tội Ba-la-di,
nếu làm cho cha mẹ chết thì phạm nghịch tội Ba-la-di.
Nếu viết kinh khen
ngợi việc chết, có người trộm lấy đọc nhân đó mà
chết, Tỳ kheo viết sách bị tội Ba-la-di.
Nếu gặp bùn trơn bị
rơi (sách) có người nhặt được kinh sách bị rơi ấy và
làm theo nên bị chết, Tỳ kheo soạn kinh bị tội Ba-la-di.
Pháp sư nói: - Sẽ trình
bày về việc thứ nhất của sự giết chết mạng sống.
Tỳ kheo nào có cố ý
giết, đào đất làm hầm để cho người A rơi xuống
chết, đang đào đất thì bị phạm tội Ðột-cát-la; nếu
họ bị rơi xuống hầm chịu đau đớn thì phạm Thu-lan-dá;
nếu họ bị chết thì phạm tội Ba-la-di; nếu người khác
rơi xuống chết, Tỳ kheo kia vô tội.
Làm hầm hại mọi người,
bất kỳ ai chết, Tỳ kheo ấy đều phạm Ba-la-di. Nếu làm
cho cha mẹ chết, Tỳ kheo ấy phạm nghịch tội Ba-la-di.
Nếu hầm sâu, người
mang lương thực bị rơi vào hầm nhưng không chết ngay, sau
đó ăn hết lương thực chắc phải chết (đói) không thể
nào thoát ra được. Khi họ vừa rơi vào hầm, người đào
hầm đã phạm Ba-la-di.
Làm hầm với dự tính
giết người, người không đến mà chính mình bị rơi vào
hầm và chết, khi đào thì phạm tội Ðột-cát-la. Có người
rơi vào hầm bị gãy tay chân nhưng không chết ngay và thoát
ra được nhưng sau đó vì thế mà chết, người làm hầm
phạm tội Ba-la-di. Nếu họ chết vì lý do khác thì không
phạm.
Pháp sư nói: - Bảo người
khác làm hầm, phạm tội không phạm như trước đã nói.
Nếu làm hầm bắt
quỷ thần, khi vừa làm hầm và khi quỷ thần bị rơi vào
chịu đau khổ, người làm bị tội Ðột-cát-la, nếu chết
thì bị tội Thu-lan-dá. Nếu người và súc sinh rơi vào
chết thì không phạm. Nếu sau đó hối hận, lấp hầm lại
mà họ bị hại vì lý do khác thì người làm hầm không
phạm tội.
Nếu làm những dụng
cụ để gây cho người chết, phạm tội không phạm tội như
ở trước đã nói. Nếu không cố ý làm, hoặc làm hầm vì
lý do khác mà người khác rơi xuống thì không phạm.
Nếu giảng thuyết về
khổ, vô thường, quán bất tịnh, có người nghe nên tự sát
thì không phạm.
Phần trên nói rộng
về luật bản, và về nhân duyên giới sát. Nếu hành động
phát sinh từ thân với tâm hoặc từ miệng với tâm thì
bị tội, hoặc cả thân, tâm và miệng cũng bị tội. Ðây
là tánh tội. Thân nghiệp và khẩu nghiệp có (câu hữu
với) tâm hại nên chịu khổ.
Từ bi, nghĩa là thấy
có một Tỳ kheo bị bệnh nặng, các Tỳ kheo với tâm từ
bi nói rằng: - Trưởng lão, ngài giữ giới đầy đủ, vì
sợ chết nên phải chịu khổ thế này. Nếu ngài chết thì
sao lại không được sinh thiên?
Nghe nói như vậy, với
ý nghĩ các Tỳ kheo đều khen ta giữ giới đầy đủ, chết
chắc chắn sinh thiên, nên Tỳ kheo bệnh tuyệt thực mà
chết. Người khen chết bị tội Ba-la-di.
Thế nên, Tỳ kheo có
trí tuệ đến thăm Tỳ kheo bệnh, cẩn thận chớ khen ngợi
sự chết mà có thể nói rằng: Trưởng lão giữ giới đầy
đủ, chớ nên luyến tiếc trú xứ và các y phục, vật
dụng, người quen biết, bạn bè... chỉ nên niệm Tam Bảo và
niệm thân bất tịnh, sống trong ba cõi này chớ nên biếng
nhác, dù mạng sống ngắn hay dài.
Nếu nghe khen như vậy
mà Tỳ kheo bệnh qua đời tức là do nghe thuyết pháp mà
chết, Tỳ kheo nói không có tội.
Khi muốn ngồi, các
Tỳ kheo nên đặt tay lên chỗ ngồi trước rồi sau đó
mới ngồi.
Pháp sư nói: - Chỗ
ngồi nào phải đặt tay lên mới ngồi, chỗ ngồi nào không
phải đặt tay mà được ngồi?
Ðáp: - Nếu trên đơn
có trải chiếu thì không cần đặt tay trước. Nếu (trên
đơn) có nệm bằng lông, nỉ, len... thì phải đặt tay lên
trước rồi mới ngồi. Nếu Tỳ kheo đến trước, sau đó
thí chủ mới trải tấm nệm nỉ len... thì không cần phải
đặt tay nữa.
Nếu thí chủ nói
rằng chỗ pháp sư ngồi đây thì Tỳ kheo được ngồi vào
mà không cần đặt tay trước.
Nếu đã có Tỳ kheo
ngồi sẵn thì Tỳ kheo đến sau được ngồi mà không cần
phải đặt tay trước.
Câu cối đá
(udukkhalavatthu) nghĩa là trong vườn cối đá (vườn đá
tảng hay cối đá?)
Không cố ý làm nghĩa
là không có tâm cố giết.
Câu cối đá ý nghĩa dễ hiểu không cần
giải thích.
Xuất gia già cả
(Buddhapabba-jitavatthu) có ba câu:
Câu thứ nhất: con nói
với cha: - Ðừng để chúng tăng chờ đợi, hãy mau mau đi
đến. Và cậu ta đẩy tới (làm cho cha) ngã xuống đất mà
chết. Do đó vô tội.
Câu thứ hai: - Tại sao
mong cho cha chết? Vì ngay giữa tăng, chúng tăng hỏi rằng
con ai?
Ðáp: - Ðây là con
của ông già (Ma-hallaka).
Nghe nói như vậy nên
xấu hổ, người con ông già liền cố hất cha rơi xuống nên
chết. Do đó bị tội trọng.
Câu thứ ba: Ðúng là
bị tội Thu-lan-dá.
Từ đây lại có ba câu, dễ hiểu, không cần
giải thích.
Trong phần khất thực
có ba câu.
Một: Tỳ kheo khất
thực này lấy pháp làm trọng, thế nên khi được thức ăn
liền chia cho bạn đồng học trước, không có tâm giết
hại (mà họ bị chết) nên vô tội.
Từ thượng tọa cho đến hạ tọa đều chết
hết. Các câu khác dễ hiểu.
Câu thứ hai: Nếu
khất thực được thức ăn từ nhà ngoại đạo, gặp thức
ăn quá tinh khiết thơm ngon thì đừng nhận.
Nếu đã nhận rồi thì
không được đem cho hay tự ăn mà âm thầm vứt bỏ đi, cũng
không đem cho súc sinh.
Người làm thử thì
phạm Thu-lan-dá. Vì sao? Vì chỉ muốn thử. Nếu biết rõ (đối
tượng) phải bị chết mà vẫn cứ làm thì bị tội
trọng.
Ba câu tiếp theo sau
dễ hiểu.
Trong câu dâm dục làm
loạn tâm nghĩa là suốt bảy ngày đêm luôn suy nghĩ cách
chế ngự tâm dục của mình nhưng không diệt được, Tỳ
kheo này suy nghĩ rằng ta đã giữ giới đầy đủ, lẽ nào
lại xả giới hoàn tục vậy ta nên tự tử. Do đó, vị này
lên bờ đá ở núi Kỳ-xà-quật và nhảy xuống tự sát.
Khi ấy, dưới núi có người đang chặt cây, Tỳ kheo rơi
xuống, đập vào và làm chết người đang chặt cây, vì không
có tâm giết nên vô tội.
Phật bảo các Tỳ
kheo: Không nên tự sát, người tự sát cho đến tuyệt
thực đều phạm tội Ðột-cát-la.
Nếu Tỳ kheo bệnh
nặng, thấy chúng tăng và Tỳ kheo nuôi bệnh chăm sóc cho mình
quá cực khổ, nên suy nghĩ rằng: các vị này chỉ vì ta mà
khổ cực đến như vậy.
Nếu vị ấy tự quán
sát mạng sống không còn bao lâu nên không ăn, không uống
thuốc nữa thì được.
Lại có Tỳ kheo (nghĩ
rằng) ta bệnh quá khổ cực, mạng sống của ta cũng hết,
ta đã biết rõ đạo tích như (thấy) trong bàn tay. Nếu
thấy như vậy mà vị ấy tuyệt thực cho chết thì vô
tội.
Tỳ kheo nào nhập
thiền định muốn được đắc đạo nên không đi vào làng
khất thực, nên không nhịn ăn (vì không có thức ăn) thì cũng
được.
Trong câu về đá, Tỳ
kheo không được đào đá, không chỉ là đá mà cho đến đối
với cỏ, cây, đất cũng vậy.
Nếu vì xây tường chùa
tháp, phải đào phá đá thì được, cho đến sửa sang phòng
ở (mà phá đá) cũng được.
Sau bữa ăn (trưa) ném
thức ăn lên cho chim (ăn) cũng được.
Nếu có thú dữ đến
muốn hại, nên dùng đá đất ném cho chúng đi chỗ khác thì
được.
Câu nói về thông dâm
thì có ý nghĩa dễ hiểu.
Có thai do gian dâm ;
Chồng của cô này đi xa, vợ thông dâm với người khác nên
có thai. Khi thai lớn ra, cô ta đến Tỳ kheo để xin thuốc
trục thai.
Câu cùng với người
vợ, dễ hiểu. Theo câu này thì người đàn bà ấy nói
với Tỳ kheo rằng làm sao phá được thai?
Tỳ kheo đáp: - Cô hãy
bóp vào thì thai tự chết và ra ngoài.
Theo lời Tỳ kheo thì bóp
chết nhưng cô ta lại dùng hơi nóng để trục thai nên Tỳ
kheo vô tội.
Tỳ kheo bảo tự bóp
chết mà cô ta nhờ người khác bóp chết, Tỳ kheo vô tội.
Nếu Tỳ kheo dạy người
bóp vào thai cho chết thì họ tự bóp hay bảo người khác bóp
cho thai chết, Tỳ kheo đều bị tội trọng.
Câu cô gái không con:
Tất cả người nữ đều phải thọ thai vậy sao gọi là không
có con? Khi bắt đầu thọ thai, nếu người nữ nào có gây
nghiệp tội thì chúng sinh vào thai trong chốc lát sẽ bị
chết ngay, nên không có con. Nếu người nữ mà bốn đại
không điều hòa, bị phong động (thai liền chết) hoặc thai
ở chỗ có trùng ăn nên chết mất, vì vậy gọi là không
con.
Tỳ kheo này không
biết như vậy nên cho thuốc để giữ thai nhi lại. Cô ta
uống thuốc ấy vào thì chết. Tỳ kheo bị tội Ðột-cát-la.
Thế nên, trong tương lai các Tỳ kheo không được làm thầy
thuốc. Ai làm thầy thuốc bị tội Ðột-cát-la. Nếu làm
thuốc cho người xuất gia như Tỳ kheo, Tỳ kheo ny, thức xoa
ma na, sa di, sa di ny thì vô tội. Ðược pha chế cho bạn đồng
học đã có thuốc sẵn, họ không có thuốc thì cho. Nếu mình
không có thì có thể đến xin ở nhà thí chủ. Nếu xin
thuốc ở đó không có thì xin ở nhà khác. Lại có năm nơi
có thể cho thuốc là: cha, mẹ, người nuôi dưỡng cha mẹ,
tịnh nhân của mình, bạn đầu-ba-la-sa.
Hỏi: - Bạn đầu-ba-la-sa
là gì?
Ðáp: - Thiện nam tử
muốn cầu xuất gia nhưng chưa có y bát, muốn sống trong chùa.
Nếu cha mẹ giàu có đủ
thuốc tốt thì thầy thuốc không cần phải pha chế. Nếu
cha mẹ (vị kia) ở địa vị vương gia, có bệnh thì không
thể không pha chế thuốc (cho họ).
Nếu cha mẹ nghèo hèn,
khi bệnh, tùy lúc nên đưa vào chùa để chăm sóc.
Khi tắm rửa cho mẹ,
cẩn thận chớ xúc chạm thân thể. Khi ăn uống được tự
tay đưa cho cha như sa di không khác. Rửa tay, thoa dầu (cho
cha mẹ) được phép dùng tay của mình và nuôi dưỡng cho đến
khi hết bệnh.
Ðối với tịnh nhân,
thuê người vào rừng chặt cây lấy củi, nếu họ bị
bệnh mà chưa về nhà được, Tỳ kheo nên cấp thuốc men.
Nếu họ đã về nhà, Tỳ kheo không nên cấp thuốc. Nếu có
người thiện nam y chỉ Tỳ kheo để giúp việc họ bị
bệnh thì Tỳ kheo cấp thuốc. Lại có mười hạng người mà
Tỳ kheo được cho thuốc: anh, em, chị, em gái, cô, dì, chú,
bác, cậu, cậu bác (anh mẹ). Những người này đã có
thuốc thì Tỳ kheo pha chế cho, nếu không có thì cho mượn.
Sau này, nếu họ trả lại thì tốt, không trả thì chớ đòi.
Như vậy, có thể tính đến bà con trong bảy đời, Tỳ kheo
có thể xin thuốc của họ, chế thuốc cho họ mà không
phạm giới (tăng-tàn) gây tiếng xấu ở nhà người (ô-tha-gia).
Nếu em dâu hay anh rể
có bệnh, có thể đưa thuốc cho chị và em gái, bảo họ
đưa cho em dâu hay anh rể.
Nếu không có em trai
hoặc chị, thì có thể đưa cho cháu bên ngoại (hoặc đệ
tử) và bảo: Hãy đưa thuốc cho cha mẹ của ngươi.
Nếu cha, mẹ của hòa
thượng đang bị bệnh và ở trong chùa thì đệ tử cũng
được phép làm thuốc điều trị cho những người ấy.
Nếu hòa thượng không
có thuốc mà cha mẹ có thuốc thì tốt. Nếu hòa thượng không
có đệ tử mà cha mẹ có thuốc thì tốt.
Nếu hòa thượng không
có đệ tử mà cha mẹ có thuốc thì tự mình làm thuốc cho
cha mẹ: hòa thượng săn sóc đệ tử cũng như vậy.
Nếu người khác có
bệnh, hoặc giặc, hoặc quân nhân mang vũ khí đi vào chùa
(uy hiếp), Tỳ kheo nào có thân quyến thì đến xin thuốc
của thân quyến mà cho họ. Nếu không có thân quyến, mà có
cận sự nữ tốt thì xin thuốc rồi cho họ cũng tốt.
Nếu có thí chủ cúng
dường chúng tăng như cha mẹ, nhưng khi thí chủ có bệnh,
chúng tăng cũng không được làm thuốc cho họ, hay cho
thuốc.
Lại nữa, khi thí chủ
chỉ hỏi rằng: Ðại đức... có bệnh, làm sao chữa trị,
chế thuốc như thế nào?
Nên đáp: - Dùng thuốc
này thì hết bệnh.
Nếu chúng tăng trả
lời như vậy thì tốt. Nếu thí chủ lại hỏi Tỳ kheo
rằng: - Thưa đại đức! Mẹ con bị bệnh, xin đại đức
cho toa thuốc trị bệnh thì Tỳ kheo không được cho toa
thuốc. Tỳ kheo ấy nên tạo phương tiện hỏi đại đức bên
cạnh rằng: Tỳ kheo... có bệnh đã điều trị bằng thuốc
gì?
Ðáp: - Trưởng lão
ấy dùng thuốc... thì hết bệnh.
Nghe hai Tỳ kheo nói như
vậy rồi, thí chủ theo cách ấy mà bốc thuốc cho cha mẹ mình.
Nếu Tỳ kheo nói như
vậy thì không có tội.
Khi ấy, hoàng hậu Bà-Sa-Bà
(Vasa-bha-ràjan) bị bệnh nên sai một cung nữ đến hỏi đại
đức Ma-ha Ba-Ðầu-Ma (Mahà Padumatthera). Ðại đức này im
lặng không đáp nhưng tạo phương tiện bằng cách nói
chuyện với Tỳ kheo bên cạnh (về cách trị liệu này).
Nghe hai Tỳ kheo nói
chuyện xong, cung nữ trở về làm thuốc theo như vậy và hoàng
hậu hết bệnh.
Sau khi hết bệnh, hoàng
hậu làm tam-y và 300 đồng tiền (kahàpana - ca-lị-sa-bàn) và
một bình thuốc đầy, với y phục vật dụng đem đến đặt
trước đại đức và thưa rằng: Phu nhân nhờ vào thuốc này
(hết bệnh) nên cúng dường đại đức chi phí về hoa hương.
Ba-Ðầu-Ma suy nghĩ: Hương
này thuộc phần của thầy thuốc.
Tôn giả nhận lấy
vật ấy với sự thanh tịnh và đem cúng dường.
Pháp sư nói rằng: - Người
trí tuệ như vậy có thể làm lợi ích cho chúng sinh mà mình
cũng vô tội. Hành động như vậy là tốt.
Nếu người bạch y nói
rằng: Xin thỉnh đại đức đặt ra kệ cầu an (paritta) cho
người... thì Tỳ kheo không được làm.
Nếu họ thưa rằng
thỉnh đại đức tụng kệ cầu an, thì được tụng.
(Khi ấy) Tỳ kheo nên
suy nghĩ rằng người bạch y này không biết Phật pháp,
nếu ta không chú nguyện thì họ sinh ý nghĩ ác, vậy nên
tụng kệ chú cho họ.
Lấy dây nước để sái
tịnh đưa cho họ, nếu tự làm nước sái tịnh và dây thì
bị tội Ðột-cát-la (bát nước để rưới trong nhà thí
chủ trong lễ cầu an và kèm sợi dây cột theo bát nước đến
tay các vị Tỳ kheo hành lễ - người dịch).
Nếu vua hay đại thí
chủ trong làng có bệnh, sai người đến chùa thỉnh Tỳ
kheo chú nguyện cho họ, thì nên tụng kinh A-thát-na-đà (Atànà-tiyasutta
kinh cầu an) cho họ.
Ðược phép đến chỗ
người bệnh mà nói pháp hay truyền giới. Nếu thí chủ nói
rằng gặp lúc đưa quốc vương..., thí chủ... đi tống táng,
xin thỉnh ngài đưa đi.
Tỳ kheo không được
đưa đi (vì tuân theo lời họ) mà phải có ý nghĩ rằng ta
nên đến nơi tống táng để quán sát vô thường và nhân
đó ta sẽ được đạo quả.
Nếu đi như vậy thì vô
tội.
Phân vệ thực là
thức ăn khất thực, được phép cho và không được cho. Ðược
phép cho cha mẹ mà không được cho người khác. Có thể
đưa cho người khác một tiền để nuôi dưỡng cha mẹ,
được đưa cho tịnh nhân, được đưa cho người chuẩn
bị xuất gia (Bàn-đầu-bà-la-sa pandupa-làsa). Tỳ kheo được
cho những người ấy, được đưa cho giặc cướp đến đòi.
Hỏi: - Ðưa cho ai cần
phải hỏi rõ, đưa cho ai không cần phải hỏi?
Ðáp: - Nếu có người
đến chùa, bất luận sang hèn hay giặc cướp, đến phải
hỏi rõ với họ. Nếu họ có yêu cầu vật gì thì được
phép cho vật riêng của mình. Nếu là vật của chúng tăng,
phải thưa trước và chúng tăng hòa hợp cho phép thì được
đưa.
Nếu kẻ ác có sức
mạnh (quyền thế) đến đòi lấy vật, người giữ vật thì
muốn bảo tồn trú-xứ (chùa) thì được tùy ý cho.
Sau khi họ đã cho, chúng
tăng không được la trách mắng người ấy với lời lẽ như:
Ðây là do ngươi tự ý đem vật giao cho kẻ ác.
Vì sao? Vì họ muốn
bảo vệ chùa.
Pháp sư nói: Tôi sẽ
chứng minh việc ấy. Bấy giờ, tạo đảo Sư tử có nước
tên A-nậu-la-đà (Anuràdhapura). Trong nước có giặc A-bà-da
(abhaya) gồm 500 tên. Chúng cùng nhau tụ tập chiếm cứ một
nơi lập thành đồn trại và cướp bóc những khu vực chung
quanh cách trại chừng một do-tuần.
Câu cách lị (ngăn cách)
dễ hiểu. Bị tội, ông hãy xem trong kinh Khuất-đà-ca
(Khuddaka-nikàya).
Hoặc nâng lên hoặc đè
xuống, nhóm thập thất quần Tỳ kheo 17 vị thấùy nhóm sáu
Tỳ kheo chỉ có một vị. Một vị trong nhóm (17 vị) đoạt
lấy bát của vị kia và sáu vị khác cùng giở vị kia lên
và ném ngã ra đất và lần lượt cùng nhau ngồi trên (vị
kia). Do đó vị Tỳ kheo già (trong nhóm lục quần) bị
chết.
Bị kết tội như trong
luật đã nói.
Trị quỷ: giết quỷ
dạ xoa; dạ xoa này hay bắt người, Tỳ kheo tụng kinh chú
bảo nó đi nhưng nó không nghe theo. Tỳ kheo bảo rằng nếu
ngươi không tuân theo thì ta sẽ giết ngươi.
Dạ xoa cũng không bỏ.
Do đó, Tỳ kheo dùng bột gạo hay đất sét nặn thành hình
quỷ dạ xoa, rồi tụng chú làm gãy tay chân và tay chân (tượng
quỷ) liền bị gãy và dạ xoa bị chết. Vì vậy, Tỳ kheo
phạm tội Thu-lan-dá.
Không chỉ riêng cho
dạ xoa, mà giết Thiên Ðế-Thích cũng bị tội Thu-lan-dá.
Câu dạ xoa ác, có
một dạ xoa ác trú ngụ trong một chùa nọ. Tỳ kheo này không
biết trong phòng ấy có dạ xoa ác nên sai một Tỳ kheo vào
phòng để vị ấy được ở an ổn (nên đưa đến cái
chết cho vị ấy) do đó vô tội. Nếu vì tâm ác mà sai vị
ấy vào phòng cho bị chết thì bị phạm tội trọng, không
chết thì phạm Thu-lan-dá.
Không riêng gì dạ xoa
ác mà đối với nơi có rắn độc cọp sói.. cũng (xem) như
dạ xoa ác, phạm tội không phạm thế nào như đã nói ở
trên.
Câu hiểm nạn, đối
với chỗ hiểm nạn, có nhiều giặc, nhưng người sai đi không
biết thì vô tội. Nếu biết rõ (tình hình nơi làm cho) người
kia chết, người sai đi phạm trọng tội, không chết phạm
Thu-lan-dá.
Giết đúng người là
câu thứ nhất. Có một Tỳ kheo cùng một Tỳ kheo có thù oán
nhau. Tỳ kheo này muốn giết Tỳ kheo mà mình thù oán, nên
suy nghĩ rằng ta giết kẻ kia vào ban ngày thì mọi người
biết rõ, vậy đợi tối hãy giết.
Với suy nghĩ như vậy,
Tỳ kheo này đến xem xét chỗ ở (của vị kia) rồi trở
về và khi tối đến thì đến chỗ Tỳ kheo kẻ thù. Trong lúc
vị kia đang có nhiều bạn. Trong đêm tối, Tỳ kheo này tìm
kiếm và nghi là kẻ thù nên giết đúng vị kia (kẻ thù) thì
phạm trọng tội.
Tỳ kheo nghi người này
mà giết nhầm người kia: Chỗ ở của Tỳ kheo bị oán thù
này có nhiều bạn bè cùng đang ngủ trong chỗ tối. Tỳ
kheo kia tìm kiếm và nói rằng đây là kẻ thù và giết
nhầm người khác.
Có Tỳ kheo nói giết
người này mà giết người kia, nói giết người kia và
giết chết đúng người kia. Giết chết người với những
trường hợp như vậy, đều phạm trọng tội.
Câu phi nhân, câu thứ
nhất: Muốn cho quỷ xuất ra, dùng gậy đánh Tỳ kheo bệnh
(quỷ nhập) chẳng may vị này chết, nên vô tội.
Hỏi: - Nếu muốn quỷ
xuất ra thì phải làm thế nào?
Ðáp: - Dùng lá cây Ða-la
hay vải lụa cột tay chân giữ người bệnh lại, tụng kinh
La-đa-na (Ratanasutta kinh Tam bảo) sau đó bảo với nó rằng
ngươi không được quấy phá người trì giới, ngươi hãy
đi đi.
Ðược thuyết pháp, pháp
sư nói rằng câu này dễ hiểu.
Pháp sư nói: - Câu
chặt cây, có những nghĩa khác nhau về chi tiết. Nếu khi
bị cây này ngã đè nhưng Tỳ kheo không chết. Trong tay có
cầm dao bén, nhưng Tỳ kheo này thà chết chứ không chặt cây
đào đất để thoát chết. Vì nếu đào đất chặt cây thì
phạm tội Ba-dạ-đề. Phạm tội Ba-dạ-đề thì gọi là vượt
qua lời dạy của thánh nhân (tội vượt pháp). Do đó, người
có trí tuệ thà giữ giới mà chết chứ không phạm giới
để được sống. Nếu có người khác đào đất chặt cây
để cứu mình thoát ra thì tốt. Nếu có phương tiện thì cũng
được. Phương tiện ở đây như là có cây chết khô, các
Tỳ kheo dùng để bẫy cây (đang đè) lên thì tốt.
Nếu Tỳ kheo bị rơi
xuống hang hố, Tỳ kheo khác được dùng dây thả xuống để
kéo lên, không được tự chặt cây, được phép bảo người
thế tục hay sa di chặt cho.
Câu phóng hỏa, có nghĩa
khác, có người đốt lửa cháy lan gần đến chùa. Vì bảo
vệ chùa, Tỳ kheo được phép phát cỏ, đào đất để
dập tắt lửa, không phạm tội.
Câu phóng hỏa thiêu đốt,
lại có nghĩa, nếu có ý nghĩ ta đốt cháy tất cả chúng
sinh thì trong đám cháy ấy, có chúng sinh nào bị chết, Tỳ
kheo ấy mắc các tội như ngũ nghịch, Ba-la-di, Thu-lan-dá,
Ba-dạ-đề. Nếu nói: Tôi chỉ đốt cỏ, phạm Ba-dạ-đề;
bảo người khác đốt, phạm Ðột-cát-la; chỉ được đốt
lửa để bảo vệ trú xứ. Tại sao? Vì đức Phật cho phép.
Câu: nước sửa chua
nghĩa là sữa lạc, sữa lạc chua, sữa lạc chín.
Hỏi: - Nước tô-tỳ-la
(suviraka) là gì?
Ðáp: - Trước tiên
lấy (trái) A-ma-la-ha-la-lặc-tỳ-ê-lặc (haritahàmalakavibhitaka).
Cốc có bảy loại,
thứ nhất là cám gạo, cam tiêu tử, các loại trái cây,
thịt, cá, măng, mật, đường cát, muối hạt, hòa lại
với nhau, để trong vò hay bình nhỏ, đậy nắp kín và đắp
bùn ở trên, để ba đến bốn năm đợi nó chín. Khi chín nó
có màu như mật, dùng trị các bệnh như phong, hủi.v.v...
Dùng thuốc này khi ăn
uống, cần thêm vị béo, tất cả các loại thuốc khác không
hơn thuốc này, rất hiệu nghiệm. Tỳ kheo nào bệnh khi dùng
thuốc này được phép dùng sau bữa trưa. Nếu không bệnh
thì được phép hòa với nước để dùng.
Hết phần giới
Ba-la-di thứ ba.
Thế Tôn biết bốn
đế
Dạy trọng giới thứ tư
Nay xin phân biệt rõ
Gọi là Ba-la-di.
Khi ấy đức Phật ở
nước Tỳ-xá-ly. Ý nghĩa này đã giảng rõ ở trước, không
nói lại. Sau đây xin nói đến những việc chưa nói đến.
Bị bạch y (người
thế tục) sai khiến: hoặc cày ruộng hay làm vườn rừng
cho người bạch y (và nói rằng): Chúng tôi sẽ làm tất
cả những việc ấy.
Ðối với những việc
ấy, Tỳ kheo không nên làm mà nên bảo người bạch y làm
như trong luật đã nói.
Sứ giả: Làm sứ giả
cho thế tục, hành theo pháp thánh lợi là pháp vô thượng
trong loài người, cũng gọi là pháp thượng nhân, cũng gọi
là pháp phạm, cũng gọi là pháp Niết-bàn. Pháp này là pháp
của chư Phật, Bích-Chi-Phật và A-la-hán.
Bắt đầu là sự
việc Tỳ kheo này đắc thiền thứ nhất. Các Tỳ kheo cùng
nhau tính toán như vậy sau đó nói với người bạch y
rằng: Có Tỳ kheo tên Phật-Ðà-Lặc-Khí-Ða chứng sơ
thiền; Ðàm-Vô-Lặc-Khí-Ða chứng nhị thiền; Tăng-Già-Lặc-Khí-Ða
chứng tam thiền. Và nói với người bạch y như vậy cho đến
tứ thiền, tam đạt-trí, lậu tận A-la-hán. Dù người
bạch y có hỏi hay không, các Tỳ kheo cũng tâng bốc nhau
với họ. Ðược những người bạch y cúng dường, nhan
sắc các Tỳ kheo tươi nhuận vui vẻ và sức lực sung mãn.
Vì các Tỳ kheo này được cúng dường rồi, được ăn
uống các món thơm ngon thì phóng túng chơi đùa, cũng không
tọa thiền nữa. Do đó, nhan sắc của họ tươi nhuận vui
vẻ.
Bờ sông Bà-cầu, các
Tỳ kheo an cư bên bờ sông Bà-cầu nên gọi là Tỳ kheo sông
Bà-cầu.
Câu: Phật hỏi các
Tỳ kheo rằng: Các ông cư trú hòa hợp an lạc không? Nghĩa
là Ngài hỏi các Tỳ kheo rằng thân thể (với tứ chi và chín
lỗ) có an lạc, có mệt nhọc không?
Sau khi an ủi, Thế Tôn
chê trách các Tỳ kheo ở sông Bà-cầu rằng: - Các ông hành
động như vậy chính là loại giặc cướp lớn.
Nhân sự việc này, đức
Phật ngăn cấm các Tỳ kheo trong tương lai không được có
hành động như vậy. Do đó, trong luật có nói: Phật bảo các
Tỳ kheo rằng:- Trên đời này có năm loại giặc lớn.
Nhiều người tụ
tập, từ một hai trăm người cho đến năm trăm nguời cùng
nhau cướp bóc thành phố, làng xóm, đào tường phá vách.
Ðây là giặc cướp lớn trong thế gian.
Cũng như vậy, có Tỳ
kheo phạm tội Ðột-cát-la, Ba-dạ-đề và tuần tự theo đó
phạm Ba-la-di mà nhận sự cúng dường, tôn trọng, khen
ngợi, chắp tay lễ bái của người khác... Ðời này, hạng
Tỳ kheo ác này từ bỏ thầy và bạn đồng tu để kinh
doanh kiếm lợi dưỡng, được lợi dưỡng rồi phóng túng
ăn uống, thân thể béo mạnh, khí lực sung mãn, cùng nhau chơi
giỡn, hoặc nói về sự thơm ngon của thức ăn, hoặc nói
về sự dâm dục, hoặc bàn luận về sự giàu sang vui sướng
của đất nước làng xóm, hoặc nói về các vườn chơi
với thức ăn ngon ngọt, suy nghĩ đủ các thứ, bàn luận
với những lời thô tục, phóng túng tâm ý không biết chế
ngự, đưa đến phá giới. (Có hạng) hưởng thụ y phục,
thức ăn, thuốc thang, chỗ ở, chăn màn bàn ghế của các
thí chủ có lòng tin đem cúng dường bố thí, chúng chẳng
phải Thích tử chân chánh lại tự xưng là Thích tử, không
có phạm hạnh lại tự xưng phạm hạnh. Những kẻ hưởng
thụ của cúng dường như vậy gọi là giặc cướp lớn
thứ nhất.
Chú Giải Luật
Thiện Kiến.
- Quyển Thứ Mười
Một -
--- o0o ---
Mục
Lục |
I | II
| III
|
IV
|
V
|
VI |VII
|
VIII
|
IX
| X
|
XI |
XII |
XIII |
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ Bình Anson
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ luật
này (Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002