Theravàda
(Thượng-tọa bộ)
Chú Giải Luật Thiện Kiến
Samantapàsàdikà Nàma
Vinayatthakathà
Hán dịch:
Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra)
Việt dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh (Caràna-citto Bhikkhu)
Phật Lịch
2543 (1999)
---
o0o
---
Quyển
thứ năm
-ooOoo-
Về câu: Từ bỏ khổ
và lạc.
Hỏi: - Từ bỏ khổ và
lạc nghĩa là gì?
Ðáp: - Trong tứ
thiền, không còn tâm khổ và lạc, còn gọi là vứt bỏ
cả tên khổ và lạc.
Hỏi: - Trong tứ
thiền, khi nào không còn tâm khổ và lạc?
Ðáp: - Ngay khi bắt đầu
bước vào tứ thiền là không còn.
Hỏi: - Ở đâu không còn
khổ về thân?
Ðáp: - Như trong kinh nói:
Phật bảo các Tỳ-kheo, ly dục được thanh tịnh rồi, thì
vào sơ thiền, ở đây khổ bị diệt hết.
Hỏi: - Ở đâu diệt
sạch cả tâm khổ và lạc?
Ðáp: - Trong sự tu
tập viên mãn.
Phật bảo các
Tỳ-kheo: Trong tứ thiền, khổ lạc hoàn toàn bị diệt
hết; ngay khi bắt đầu bước vào đệ tứ thiền thì hỷ
hoàn toàn bị diệt không còn gì. Trong sơ thiền, niệm và tư
chưa hết nên có tâm khổ. Khi diệt hết niệm và tư thì
khổ không còn. Cũng vậy, trong nhị thiền, tam thiền, tứ
thiền, tuần tự diệt các chi, bắt đầu là niệm. Hỷ được
diệt tận khi bắt đầu vào tứ thiền. Lạc trong thiền
thứ tư, vì an trú vào xả (thanh tịnh hoàn toàn nhờ xả) nên
lạc không thể phát sinh được nữa. Do đó, trong thiền
thứ tư, khổ bị diệt tận không còn, nên gọi là không
khổ, không lạc. Pháp xả này rất vi tế, không thể dùng
ý mà nắm bắt được. Vì sao? Như có con bò dữ, người chăn
bò không thể bắt giữ được, nên phải làm chuồng và lùa
cả bầy vào trong, rồi cho từng con đi ra, tuần tự đến
con bò dữ này thì bắt giữ được nó. Phật cũng như
vậy, trước tiên giữ lấy lạc để có tất cả các pháp,
sau đó tuần tự loại trừ đi, (và chỉ ra) đây là không
khổ, không lạc, không tâm khổ, không tâm lạc và đây là
cảm thọ không khổ không lạc.
Hỏi: - Không khổ không
lạc này có giữ được không?
Ðáp: - Không thể giữ
được.
Hỏi: - Nhưng theo như câu
ở trên thì tại sao nói giữ được?
Ðáp: - Nhờ tên mà
biết được tướng, cũng như bắt giữ được vậy; tướng
trên ngôn ngữ như vậy, hãy tự biết lấy. Như trong kinh văn
nói có bốn duyên mà vị trưởng lão nhờ đó đạt đến
giải thoát do không khổ không lạc. Ðó là nhờ định (nên
loại bỏ hỷ và ưu ở thiền thứ ba) và hoàn toàn không còn
khổ, lạc thì trú thiền thứ tư. Trưởng lão, đây là
bốn duyên không khổ không lạc được gọi là giải thoát
nhờ vào định. Cũng như, ngay khi ở đạo lộ thứ ba (đưa
đến tam thiền), tà kiến... là các pháp đã diệt từ đầu,
đó là sự khen ngợi về đạo lộ thứ ba; sự việc ở trên
cũng như vậy.
Hỏi: - Các pháp ấy như
thế nào?
Ðáp: - Ðứng đầu là
sân nhuế, ngu si... tuần tự biết theo như vậy. Cũng như
trong tứ thiền, bắt đầu bằng tâm khổ lạc, từ lạc
sinh ra dục; từ khổ sinh ra sân nhuế. Khi sân nhuế sinh ra
thì tiêu diệt tâm lạc. Thiền thứ tư đã quá xa chúng nên
gọi là không khổ không lạc.
Hỏi: - Tướng trạng
của không khổ không lạc như thế nào?
Ðáp: - Là trạng thái
hoàn toàn không còn lạc và khổ.
Hỏi: - Vị của nó như
thế nào?
Ðáp: - Không còn vị
đắng của khổ và vị ngọt của lạc, còn gọi là không có
đáp ứng.
Về câu: Xả niệm
(thức) thanh tịnh.
Hỏi: - Xả niệm thanh
tịnh là gì?
Ðáp: - Xả nghĩa là
khiến cho thức được thanh tịnh. Ðây là trong thiền thứ
tư, niệm hoàn toàn thanh tịnh. Niệm đã thanh tịnh là xả
hết ba niệm đã có, hoàn toàn nhờ vào tác dụng của xả
chứ không phải nhờ vào pháp nào cả. Thế nên, trong luật
này nói về xả niệm thanh tịnh ví như trăng bị mây che nên
ánh sáng không tỏ rạng. Sau khi mây tan hết, ánh trăng
chiếu trong sáng. Ở đây, tư lạc cũng vậy, xả hết tư và
lạc thì niệm liền thanh tịnh.
Hỏi: - Trong ba thiền
ở trước đó (xả niệm thanh tịnh) không?
Ðáp: - Có.
Hỏi: - Vì sao không thoát
khỏi niệm?
Ðáp: - Vì ở trước
bị tư che lấp nên không thoát được. Lại nữa, xả trong
tứ thiền thì niệm như ban đêm, xả như mặt trăng tròn,
khi chúng họp nhau thì mặt trăng sáng tỏ.
Như vậy, sơ thiền có
năm chi, tứ thiền có ba chi là xả, niệm, nhất tâm. Nói
rộng có ba, tóm lại có hai, như trong kinh đã nói.
Hỏi: - Hai chi (xả và
nhất tâm ) phát sinh khi nào?
Ðáp: - Hai chi này phát
sinh trong thiền thứ tư.
Hết phần đệ tứ
thiền.
Trong Tứ thiền này, có
người muốn thực hiện quán địa, có người muốn nhất tâm,
có người muốn thông địa, có người muốn diệt-đế-địa,
có người muốn nhập sinh. Nhập vào ái-tận nghĩa là cầu
nhất tâm.
Vào thiền định như
thế nào để được nhất tâm? (Ai với ý muốn) ta an trú
trong an lạc suốt một ngày, nên tu tập bằng ca-tư-na
(krtsna-kasina-biến xứ - Hán-nhất thiết nhập) thì sẽ phát
sinh tám loại định. Người nào ra khỏi định rồi mà
vẫn nhất tâm với tuệ quán như trước (trong đối tượng
quán của mình), đây gọi là quán địa. Lại có người thành
tựu tám loại định rồi, đi vào sự thông suốt các
thiền địa, sau khi xuất định có thể biến hiện các
thần thông từ một thân hóa ra ngàn vạn thân... được
biết theo thứ tự như vậy; nên gọi là nhờ thiền nên đạt
thông địa. Lại có người sau khi có tám loại định, an trú
vào diệt tận định. Thời gian bảy ngày trong diệt tận định
này, theo thế gian gọi là Niết-bàn. Ta cho rằng giữ sự an
lạc trong bảy ngày này chính là diệt-đế-địa. Có người
đắc tám loại định nhưng không thích thú về thiền định
này, với ý nghĩ rằng ta muốn sinh lên cõi Phạm thiên; đây
gọi là vào sinh địa. Dưới cây Bồ đề, đức Phật
nhập vào định của thiền thứ tư, xuất khỏi định này,
quán địa này của Như Lai cũng được gọi là thông địa,
cũng gọi là nhập vào diệt-đế-địa, thể nhập vào tất
cả pháp thế gian và pháp thánh lợi.
Pháp sư nói: - Lược nói
như vậy, về thứ tự của thiền thứ tư tự biết lấy.
Với pháp này, vào định của thiền thứ tư, bằng định
nhất tâm hoàn toàn nên gọi là tịnh; như trong luật có nói:
Xả niệm thanh tịnh.
Hỏi: - Thế nào là
tịnh?
Ðáp: - Trắng tinh không
còn đen, cũng gọi là quang minh, nhờ vào lạc ly dục, thoát
ly hoàn toàn các phiền não, tâm trở nên thanh tịnh trong sáng
và tùy thuận sự điều phục. Vì sao? Vì đã được huấn
luyện đến mức độ cực kỳ mềm dẻo. Như trong kinh có nói:
Nếu tâm đã mềm dẻo thì tùy thuận theo sự điều phục.
Ví như vàng nguội được tuần tự luyện cho mềm dẻo thì
có thể tùy theo ý muốn mà làm các loại trang sức, đập
không bị rạn nứt. Tâm cũng như vậy, tùy thuận sự điều
phục. Trong kinh nói rằng Phật bảo các Tỳ-kheo, ta không
thấy một pháp nào như tâm, phải huấn luyện nhiều lần
mới mềm dẻo, tùy thuận sự sai khiến đạt đến chỗ
cực tịnh như vậy gọi là bất động, tinh tấn không còn
giải đãi, luôn luôn nhất tâm không còn trạo cử, có trí
tuệ kiên cố không bị vô minh che lấp, thường xuyên chánh
niệm không bị thất niệm làm nhơ bẩn, quang minh sáng
suốt không bị phiền não ngăn che. Ðược pháp này bảo
vệ thì không bị loạn động. Tâm này đi vào tám chi thì
theo sự tiếp thu mà phân biệt rõ các pháp. Nhờ bốn định
của bốn thiền mà được nhất tâm, đưa đến xa lìa các
triền cái, tâm không còn cấu trược. Vượt qua niệm tư, tâm
được thanh tịnh, phát sinh trí tuệ. Do đó, các triền cái
không thể che lấp được tâm. Do không còn niệm nên đạt
đến bất động. Khử sạch phiền não cũng gọi là bất động.
Ðoạn này được nói trong kinh, hãy tự xem lấy.
Túc-mạng-trí được
phát sinh từ thông địa. Túc nghĩa là ấm của đời quá
khứ. Trú nghĩa là ở nhà này nhà kia, chết ở nhà này nhà
kia, rồi lại sinh vào nhà này nhà kia, rời khỏi nhà này
sinh vào nhà kia. Bằng trí tuệ của mình mà biết rõ tất
cả từng giai đoạn đời trước; gọi là tự biết túc
mạng đời quá khứ. Như trong luật văn có nói: Biết (phân
biệt) túc mạng trí nghĩa là nhờ phân biệt mà biết chỗ
ở của các thân mạng trong quá khứ, biết sự thọ sinh
hoặc một đời, hai đời, luân chuyển như vậy, nhờ tâm
biết nên phân biệt. Như Phật đã đến bờ bên kia (pàrami),
không còn phải điều phục tâm mà phân biệt rõ hết. Kẻ
mới học thì làm rồi mới phân biệt được. Tôi sẽ nói
sơ lược, muốn biết rõ xin đọc (Thanh) Tịnh-đạo Tỳ-bà-sa
(Visuddhimagga), ở đây nói theo trong luật.
Hỏi: - Thế nào là
một đời?
Ðáp: - Một quá trình
từ khi (hữu tình) vào thai đến khi chết, gọi là một đời.
Tuần tự như vậy cho đến vô số đời.Tam-bạt-kiếp
(samvattakappa), Hán dịch kiếp-hoại-diệt.
Hỏi: - Thế nào là vô
số kiếp-hoại-diệt?
Ðáp: - (Kiếp) tuần
tự bị diệt dần gọi là kiếp-hoại-diệt.
[Tỳ-bạt-di (vivatta)
kiếp, Hán dịch là kiếp thành -- người dịch]
Hỏi: - Thế nào là
Tỳ-bạt-sất-di-kiếp (vivattatthàyi-kiếp trụ).
Ðáp: - Tuần tự sinh
trưởng, gọi là kiếp trụ.
Kiếp hoại được
thuộc vào kiếp không (tam-bạt-xoa-di-kiếp-samvattatthàyi),
lấy từ kiếp không, thì kiếp thành được thuộc vào
kiếp trụ. Với những kiếp này, tâm đều phân biệt rõ.
Như trong kinh văn nói: Phật bảo các Tỳ-kheo rằng có bốn
a-tăng-kỳ kiếp. Ðó là tam-bạt-trá, tam-bạt-xoa-di,
tỳ-bạt-trá, tỳ-bạt-xoa-di [samvatta (hoại), samvattathàyi
(không), vivatta (thành), vivattathàyi (trụ)]. Kiếp hoại là gì?
Có ba kiếp hoại, đó là hỏa hoại, thủy hoại, phong
hoại. Có ba cõi bị hoại là A-ba-sa-la-thiên (Quang âm), Tu-bà-khẩn-na-thiên
(Thiểu tịnh), Ty-hiếp-phá-la-thiên (Quảng quả) (Abhassarà,
Subhakinhà, Vehapphalà).
Khi hỏa kiếp hoại
xuất hiện, từ cõi Quang âm trở xuống bị lửa cháy hết.
Khi thủy kiếp hoại xuất hiện, từ cõi Tiểu tịnh trở
xuống bị chìm mất trong nước lớn. Khi phong kiếp hoại
xuất hiện, từ cõi Tỳ-hiếp-phá-la-thiên trở xuống bị tàn
phá bay sạch. Rộng cho đến một cảnh giới của Phật.
Pháp sư hỏi: - Cảnh
giới của Phật là gì?
Ðáp: - Là cảnh giới
sinh, cảnh giới uy lực, cảnh giới được biết đến (Jàtikkhetta,
Anakkhetta, Visayakheta).
Hỏi: - Cảnh giới
sinh... là gì?
Cảnh giới sinh là
trong mười ngàn thế giới, nếu khi có đức Phật giáng
sinh thì cả mười ngàn thế giới đều chấn động. Cảnh
giới uy lực là uy đức của Phật bao trùm đến trăm ức
thế giới. Trong này, nếu Phật thuyết các kinh bảo hộ như
kinh Tam bảo, Kinh Tụ, kinh Ngọn cờ, kinh Cầu an, kinh Khổng
tước (Ratanaparitta, Khandhaparitta, Dhajaggaparitta, Atànàtiyaparitta,
Moraparitta), (phi nhân nào) nghe mà không phục tùng thì bị gió
dữ thổi bay ra tận ngoài trăm ức thế giới. Cảnh giới
được biết đến là Ngài biết rất rộng không thể đo lường
được. Do đó khi một ba cảnh giới của Phật là cảnh
giới uy lực bị diệt thì cảnh giới sinh cũng bị băng
hoại. Và khi thế giới ấy được hình thành thì cảnh
giới kia cũng được thành lập. Trong thanh tịnh đạo có nói
rõ, hãy tự xem biết.
Như vậy, dưới cây
Bồ đề, Phật chứng Nhất thiết trí, biết rõ không phải
chỉ một kiếp, hai kiếp, mà biết rõ tận đến kiếp
hoại.
Hỏi: - Thuận theo chỗ
sinh là gì?
Ðáp: - Khi kiếp hoại
xảy ra, hữu tình hoặc sinh lên trời hoặc sinh cõi người
bằng hóa sinh, thai sinh hoặc thấp sinh. Theo thứ tự như
vậy, Ngài đều biết rõ đây là họ của Ta, tên cha mẹ
của Ta, tên Ta, thuộc họ Ca-Diếp, họ Bà-la-môn, hoặc Sát-đế-lỵ
với khổ vui như vậy, hình sắc trắng đen như vậy, ăn
uống với các loại ngũ cốc như vậy, các loại trái cây
với vị ngọt hương thơm như vậy, với hành động của thân
miệng ý tạo nghiệp như vậy, tuổi thọ dài ngắn như
vậy, từ cõi người đến thiên giới thứ nhất, lên tận
Phạm thiên. Tuần tự luân chuyển thọ sinh như vậy, cho đến
sinh lên cõi trời Ðâu-suất (Tusitabhavana) với địa vị
nhất sinh bổ xứ, Ta đồng họ với chư Thiên tại cõi Ðâu-suất
thiên, tên là Tư-Ða-Khai-Ða (setaketu - Hán dịch
Bạch-kỳ-thiên - Vị trời tên cờ trắng), thân màu hoàng
kim, ăn uống cam lộ, hưởng thụ khoái lạc chư thiên,
sống lâu đến 57 ức 6 vạn tuổi thế gian. Từ thiên cung,
ta giáng hạ thác sinh vào thai Ma-da trong cung vua
Bạch-tịnh-phạn. Ta biết rõ tất cả nơi sinh ở các đời
sống trong quá khứ với những tên họ, hình dáng xấu đẹp,
sang hèn giàu nghèo.
Pháp sư hỏi: - Chỉ có
Phật hay người khác cũng biết?
Ðáp: - Cả người khác,
Bích-Chi-Phật, Thanh-văn, ngoại đạo, phạm chí, đều có
thể phân biệt được. Ngoại đạo, phạm chí chỉ biết
trong phạm vi bốn mươi kiếp, vì trí tuệ của họ cạn
hẹp nên không thể biết xa hơn, chỉ biết sự thọ sinh mà
thôi, không biết tất cả các việc khác. Vì sao? Vì trí
tuệ yếu kém. Có 80 bậc đại A-la-hán biết được 10 ngàn
kiếp. Có hai thượng thủ A-la-hán biết được một A-tăng-kỳ
kiếp và 10 ngàn kiếp. Bích-Chi-Phật biết một A-tăng-kỳ
kiếp và 10 ngàn kiếp. Những vị này chỉ biết tùy theo năng
lực của mình. Ðức Phật thì biết vô cùng tận. Ngoại đạo
phạm chí chỉ biết theo sự tiếp nối các uẩn, nếu muốn
biết vượt giai đoạn thì không thể được. Ví như người
mù, khi đi phải theo từng bước, không thể có trường
hợp đi vượt bước. Thanh-văn biết được cả hai đầu
(sinh và kết sinh); Ðộc giác cũng vậy. Chư Phật biết theo
ý muốn, biết hết sự lên xuống qua lại trong vô số
kiếp. Này Bà-la-môn! Ðây là sự biết của Ta.
Phật bảo Bà-la-môn: -
Dưới cây Bồ đề, Ta chứng đắc trí tuệ vô thượng,
biết được vô số kiếp trong quá khứ. Nhờ đâu mà Ta
diệt sạch vô minh, được trí tuệ sáng suốt như hiện
nay? Tất cả đều nhờ vào sự tinh tấn không tiếc thân
mạng mà đạt được; như gà con dùng mỏ phá vỏ trứng.
Phật bảo Bà-la-môn:
Trí túc mạng của Ta là mỏ, vô minh che phủ nhiều đời là
vỏ. Ta dùng mỏ trí này phá tan vỏ vô minh mà thoát ra ngoài
nên Ta được gọi là Vô-thượng-trí. Bằng trí túc mạng,
Ta cũng biết đời sống của (hữu tình) khác, bằng trí
tuệ biết sự đọa sinh của chúng sinh, nên gọi là biết
về đọa sinh. Với thiên nhãn, Như Lai vừa quán sát chúng
sinh là biết ngay vì đã viên mãn Balamật. Người khác
muốn biết như vậy, cần phải tu tập. Ðây là nói lược,
muốn biết hãy xem ở Thanh tịnh đạo Tỳ-bà-sa.
Hỏi: - Thánh nghĩa là
gì?
Ðáp: - Vị thấy bằng
mắt thịt nhưng không khác mắt thánh, nhờ thực hành các
thiện pháp mà thiên nhân thành tựu mắt này, không lệ
thuộc mắt thịt, sạch các trần cấu, thấy được rất
xa. Thế nên, trong luật có nói rằng quán sát bằng thánh nhãn.
Tuệ nhãn đạt được do tinh tấn, cũng nhu thánh nhãn không
khác. Vì sao? Vì sau khi chứng thánh mới đạt được nên
gọi tuệ nhãn là thánh nhãn. Vì sao? Vì tự thân sống theo
thánh, được quang minh của bậc thánh. Tâm được sáng
suốt nên quan sát rất xa, xuyên qua đá vách như (nhìn) qua
ánh sáng trong suốt. Thế nên, với tuệ nhãn thanh tịnh
thấy rõ chúng sinh chết đi, thọ sinh. Ngoại đạo, phạm chí
vì thấy chết mà không thấy sinh nên sinh ra đoạn kiến.
Lại có ngoại đạo thấy sinh mà không thấy chết nên sinh
ra thường kiến (yo hi cutimattam eva passati na upapàtam so
ucchdaditthin ganhàti) với chín cõi chứng sinh cư trú, đức
Phật thấy rõ cả thường kiến lẫn đoạn kiến nên trong
luật có nói rằng dùng tuệ nhãn thấy chúng sinh chết và
sinh.
Cực tịnh nghĩa là Như
Lai không còn 11 phiền não nên gọi là cực tịnh. Như trong
kinh có nói: Phật dạy A-Nậu-Lâu-Ðà (Anuruddha) rằng nghi
ngờ là tâm phiền não dùng trí tuệ mà khử đi. Tâm không
được hộ trì là phiền não. Tâm thùy và tâm miên là
phiền não, tâm mừng sợ, tâm kiêu căng, tâm quá tinh tấn,
tâm quá mềm yếu, tâm nhiều lời, tâm không biết phân
biệt, tâm cực quán sắc... Với các tâm phiền não như
vậy, này A-Nậu-Lâu-Ðà, đây là 11 phiền não. Với hết
sức tinh tấn, Như Lai đã viễn ly các phiền não này. Nếu
Ta chỉ thấy sắc thì không thấy sáng, thấy sáng thì không
thấy sắc. Với bước đầu như vậy, Như Lai đã vượt qua
11 phiền não, nên vượt qua mắt người. Thế nên, trong
luật có nói: Bằng mắt thánh thanh tịnh siêu việt mắt
thịt thế gian để quán sát chúng sinh cũng như thấy bằng
mắt thịt, thấy rõ sự chết và sinh của chúng sinh.
Pháp sư nói: - Phật
thấy rõ từ khi mới sinh đến khi chết của chúng sinh không?
Ðáp: - Thấy từ khi
sinh đến khi chết, không thấy có trung gian [(giữa hai đời)
không có trung ấm -- người dịch]. Trong luật cũng
thuyết minh như vậy.
Hỏi: - Hạ tiện là gì?
Ðáp: - Vì ngu si hành
động theo pháp ác; lại nữa sống bần cùng cũng là tiện
và bị người khinh ghét.
Hỏi: - Quý trọng là gì?
Ðáp: - Thọ sinh bằng
tâm tuệ, nên gọi là quý trọng.
Tướng mạo xinh đẹp
do không sân hận, tướng xấu xí do sân hận mà có.
Thiện đạo (sugata) là
sinh vào cảnh giới thiện; nơi nhiều vàng bạc châu báu cũng
gọi là đường thiện.
Ác đạo (duggata): do
tham lam keo kiệt mà sinh vào cảnh giới bần cùng hạ tiện,
còn gọi là đường ác.
Hạ tiện (Hina) là
hằng ngày sự ăn uống bị thiếu thốn, không được cung
cấp.
Như Lai biết rõ các
hoạt động của chúng sinh tùy theo nghiệp của chúng. Quán
sát chúng sinh chịu các khổ sở trong địa ngục, Như Lai
suy nghĩ: Các chúng sinh này trồng cái gốc tội gì mà chịu
khổ suốt ngày đêm ở địa ngục như vậy. Ngài biết
rằng chúng sinh này vì gây ác nghiệp nên chịu quả khổ
ấy.
Quán sát lên cõi
trời, thấy chư thiên du ngoạn vui chơi trong vườn Ly-đà
(Nandavana), My-sa (Myssakavana), Ba-lưu-sa-ka (Phàrusakavana), Như
Lai suy nghĩ: Những chúng sinh này làm những phước nghiệp gì
mà sinh đến cõi ấy hưởng thụ phước lạc cõi thiên. Ngài
biết chúng do tạo các thiện nghiệp nên được phước báo
này.
Ðây là sự biết rõ
nghiệp trong hiện tại và biết rõ quả báo tương ứng
trong tương lai. Ðắc đại thần thông, Như Lai biết rõ
với thánh nhãn.
Về câu: Gây nghiệp ác
về thân (Kàyaduccarita).
Hỏi: - Gây ác nghiệp
về thân là gì?
Ðáp: - Ác là tạp uế
bất tịnh, với thân là nghiệp ác như vậy, Như Lai đều
biết rõ.
Miệng, ý gây ác
nghiệp cũng như vậy.
Về câu: Hủy báng người
thiện.
Hỏi: - Người thiện là
gì?
Ðáp: - Phật, Bích-Chi-Phật,
Thanh-văn cho đến kẻ thế tục áo trắng (gihi) chứng quả
Tu-đà-hoàn đều gọi là người thiện.
Hỏi: - Hủy báng là gì?
Ðáp: - Mắng chửi
hủy diệt các thiện pháp, gọi là lời hủy báng. Lại
nữa, nếu nói rằng Phật, Bích-Chi-Phật, Thanh-văn đều là
pháp ác trái với chánh pháp, không có thiền định, không có
pháp Niết-bàn, không có đạo và quả của pháp. Với lời
nói hủy báng như vậy, kẻ biết hay không biết mà nói, đều
là kẻ hủy báng người thiện. Những kẻ tạo nghiệp
nặng này, thì cửa trời đóng lại và cửa địa ngục mở
đón họ.
Pháp sư nói: - Tôi sẽ
chứng minh việc này. Trú xứ nọ có hai Tỳ-kheo; một lớn
tuổi (thera), một nhỏ tuổi (Daharabhikkhu). Cùng đi vào làng,
đến nhà kia, vị lớn được một phần cháo nóng lỏng
(ulunkamatta unhàyagu) nên suy nghĩ: Bụng ta bị trúng phong, cháo
nàycon nóng, nếu ăn vào ngay thì hết bệnh ấy.
Bấy giờ, vị Tỳ-kheo
lớn tuổi ngồi húp cháo nóng trên khúc gỗ làm ngạch cửa
(ummàra) của ai đó vứt bên đường. Thấy vị kia ngồi trên
khúc gỗ, húp cạn cháo, vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi mắng: - Ông
già ngu độn (mahallaka) làm tôi xấu hổ quá.
Sau khi dùng cháo, trở
về chùa, vị lớn tuổi hỏi vị nhỏ: - Trưỡng lão! Trong
Phật pháp này, thầy có đạt được gì không?
Ðáp: - Có, con chứng
Tu-đà-hoàn đạo.
Lão Tỳ-kheo nói: -
Nếu vậy, đừng mong cầu đạo quả gì khác được. Vì
sao? Vì thầy phỉ báng vị Tỳ-kheo ái-tận (lậu tận).
Nghe nói như vậy, vị
Tỳ-kheo nhỏ sám hối: - Thưa đại đức! Con đã có hành động
bất thiện đối với đại đức, xin cho con sám hối.
Ðược vị kia cho sám
hối, nên vị này hoan hỷ từ giã.
Pháp sư nói: - Người
nào mắng chửi bậc thánh, nếu là đại Tỳ-kheo thì sám
hối như sau: - Trưởng lão, tôi xin sám hối với trưởng lão,
xin trưởng lão chấp nhận cho. Nếu là vị nhỏ hơn thì
lạy sát đất, chắp tay thưa: - Ðại đức! Ðây là lỗi
của con, xin sám hối với đại đức, mong đại đức chấp
thuận cho. Nếu vị kia không chấp nhận, thì vị này phải
đi ngay đến gặp các Tỳ-kheo ở chỗ khác hay chùa khác,
nếu gặp vị lớn tuổi, thì đảnh lễ sát chân, chắp tay
thưa: - Ðại đức, con có lỗi như vậy, xin đại đức ghi
nhận cho; nếu gặp vị nhỏ tuổi, thì nói: - Trưởng lão,
tôi có lỗi như vậy, tôi xin sám hối, xin trưởng lão
chấp thuận cho. Nếu vị kia đã nhập Niết-bàn, thì đến
sám hối nơi vị ấy nhập Niết-bàn (Parinibbutamanacatthàna).
Sau khi sám hối như vậy thì cửa đường trời và cửa
niết-bàn vẫn rộng mở như khi chưa phạm lỗi.
Về câu: Tà kiến
(Micchàditthika)
Hỏi: - Tà kiến là gì?
Ðáp: - Kiến thức điên
đảo là tà kiến, sau khi chấp nhận hành động tà kiến,
lại còn truyền dạy người khác, bằng lời nói ác phỉ báng
bậc thánh và ác nghiệp về ý cũng thuộc về tà kiến.
Ðã chấp thuận tà kiến thì tất cả hành động ác đều
theo hướng tà kiến và hành động đại ác này đưa đến
tội cực nặng. Như trong kinh văn có nói: - Phật bảo Xá-Lỵ-Phất:
Tỳ-kheo giữ giới trọn vẹn, có định tuệ đầy đủ, thì
tự mình đạt được chánh kiến, và dạy bảo người khác
cũng được như vậy. Này Xá-Lỵ-Phất, tà kiến cũng vậy,
không rời thân miệng ý thì như người cầm viên đất ném
đi cũng không thoát khỏi đất được, gây tà kiến ác
nghiệp không thoát khỏi địanguc. Tại sao? Vì tà kiến gây
tội rất nặng. Trong kinh văn cũng có nói: Phật bảo các
Tỳ-kheo: Ta thấy các nghiệp ác không gì hơn tà kiến vì nó
tạo ra tội lỗi đưa đến quả báo cực nặng.
Về câu: Ðưa đến thân
chết (Kàyassa Bheda).
Hỏi: - Thân chết là gì?
Ðáp: - Chết là cùng
với tội bị đọa địa ngục không có lúc thoát ra, cũng
gọi là bốn đại tan rã, cũng gọi là sẽ tái sinh.
Pháp sư nói: - Nếu
chọn lấy địa ngục thì đóng chặt con đường đến cõi
trời và cửa giải thoát. Lại nữa, nếu gọi là ác đạo
thì bao gồm cả ngạ quỉ, súc sinh, A-tu-la. Nói đến địa
ngục (apàya) thì bắt đầu là A-tỳ (avìci), trắng hay đen
thế nào hãy tự biết lấy. Nói đến thiện đạo thì loài
người cũng là thiện đạo.
Hỏi: - Trời có nghĩa
gì?
Ðáp: - Sắc, thanh, hương,
vị hơn cõi người nên gọi là trời.
Biết rõ (Vijjà-minh) là
biết bằng mắt, những phần khác hãy tự biết lấy.
Ðã nói lược xong về
phẩm Thánh-nhãn.
Biết rõ vô minh che đậy
túc mạng ở quá khứ, dùng mỏ túc mạng trí mổ vỡ tan
vỏ vô minh che đậy, đồng thời biết rõ sự đọa lạc
trong hiện tại.
Lậu tận trí là trí
đạt được nhờ diệt sạch các lậu bởi A-la-hán đạo.
Quá-hạ-trí tâm (samàhita
citta-tâm đẳng dẫn, thắng định) là tâm quán sát. Tâm quán
này biết rõ khổ, ngay tại đây diệt tận và không còn
tiếp tục, vì biết rõ hoàn toàn về tướng mạo và bản
chất của khổ-đế. Lại nữa, quán khổ-đế từ tập-đế
phát sinh, đây là tập-đế. Lại nữa, quán khổ diệt, đây
là diệt-đế. Quán sát con đường đưa đến khổ-diệt là
quán đạo-đế. Như vậy là biết rõ hoàn toàn về tướng
mạo của bốn Thánh đế một cách như thật. Do đó, đức
Phật nói: Ta biết bốn đế bằng thấy như thật, biết như
thật.
Về dục lậu:
Từ dục lậu thoát ra,
đây chỉ cho quả, căn cứ vào kết quả mà tuyên bố ta đã
giải thoát rồi. Từ lâu, dục lậu che đậy tâm hiểu
biết, này nhờ quán sát nên biết rõ ta không còn tái sinh
nữa. Thế nên trong luật có nói: Phật bảo Bà-la-môn
rằng: - Ta không còn sinh nữa.
Pháp sư hỏi: - Ðó là
quá khứ không sinh, hiện tại không sinh hay tương lai không
sinh? Nếu nói quá khứ sinh, thì sự sinh trong quá khứ đã
diệt; nếu nói hiện tại sinh thì sự sinh trong hiện tại dã
sinh; nếu nói tương lai sinh thì sự sinh trong tương lai chưa
đến, vậy có gì là sinh?
Ðáp: - Ðoạn trừ cái
nhân nên gọi là không sinh.
Trú (Vusita) là trú
trong phạm hạnh. Phạm hạnh (Brahmacariya) là người thiện cùng
cộng trú trong bảy chi học giới. Ðây là Phật chỉ cho người
xuất gia.
Việc đã xong (kata
karanìya) nghĩa là đối với Bốn đế, bốn-đạo đã hoàn
tất. Thế nên, Phật bảo Bà-la-môn rằng: - Việc làm của
Ta đã hoàn tất không còn phải làm trở lại nữa.
Hỏi: - Thế nào là không
trở lại nữa?
Ðáp: - Các phiền não
lậu hoặc không còn phát sinh đến với Ta nữa. Vì không còn
phát sinh nữa nên chẳng còn tinh cần (để diệt). Như Lai
đã biết rõ như vậy nên gọi là lậu-tận-trí. Vì sao? Vì
Như Lai muốn khai thị cho Bà-la-môn. Ðức Phật đã đắc ba
đạt-trí, trí về quá khứ, hiện tại, vị lai.
Pháp sư nói: - Có
phải là chẳng nên tự xưng với lời như vậy, vì như
vậy là Như Lai tự khen mình phải không?
Ðáp: - Phật vì thương
mến thế gian và Bà-la-môn ... nên nói rằng Ta là thánh nhân.
Ta là tối-thắng Vô-thượng-tôn, biết hết tất cả; Ta không
lạy người khác.
Nghe những lời Phật
giảng dạy như vậy, Bà-la-môn hoan hỷ, sám hối ngay trước
Phật rằng: - Sa-môn Cù-Ðàm có những thánh lợi mỹ mãn như
vậy. Con thật không biết đúng về sa-môn Cù-Ðàm là bậc
đã có đầy đủ công đức.
Sau khi tự khiển trách
mình và được nghe giáo pháp, Bà-la-môn khen ngợi: Lành
thay! Lành thay! Con được sa-môn Cù-Ðàm chỉ dạy cho pháp
vị.
Pháp sư hỏi: - Vì sao
khen hai lần lành thay?
Kệ nói:
Diệt được sân,
vội khen,
Ân cần mừng và sợ,
Vừa tin, vừa hối hận,
Nên nói lại hai lần.
Tại sao ở đây khen
ngợi? - Nghe Phật thuyết pháp, Bà-la-môn hoan hỷ, không
biết lấy gì cảm tạ nên khen ngợi.
Pháp sư nói: - Bà-la-môn
đang có ý nghĩ: Pháp được Phật thuyết minh có ý nghĩa sâu
xa, lời lẽ hay đẹp, khéo vào thẳng lòng người và sinh đại
từ bi, rất thích thú.
Do đó, Bà-la-môn thưa
với Phật: - Con như bát bị úp, nay nghe được giáo pháp
của Phật dạy, cho bát ngữa ra tiếp nhận cam lộ. Như châu
báu bị người lấy cỏ cây che phủ, có người chỉ cho nên
biết chỗ. Như kẻ lạc đường, được người nắm tay
chỉ cho đường đúng. Như trong chỗ tối tăm, có người
cho đèn đuốc sáng nên thấy rõ đường đi. Con cũng như
vậy.
Pháp sư nói: - Tôi sẽ
giải thích vì sao Bà-la-môn nói như vậy. Tâm Bà-la-môn như
bát bị úp nên không tiếp nhận được cam lộ, nay được
Phật chỉ dạy làm cho nhận được. Vì sao? Như bị cây
cỏ che đậy, thời gian sau Phật Ca-Diếp, tà kiến như là cây
cỏ che đậy chánh pháp mà không có người chỉ bày. Ngày
nay, nhờ đức Phật chỉ rõ nên mới biết được.
Người lạc đường mê.
Bị ngoại đạo tà kiến dẫn đường, nên trong diệu đạo
mà mê hoặc mà không thấy được thiện đạo. Ðức Phật
dùng giáo pháp là bàn tay chỉ dẫn làm cho thoát ra. Như kẻ
ngu si bị tối tăm không thấy rõ ba cõi. Ðức Phật ban bố
giáo pháp là đèn đuốc làm cho sáng rõ. Sau khi khen ngợi,
với tâm thanh tịnh, Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã thưa với Thế Tôn:
- Từ nay, con xin quy y sa-môn Cù-đàm.
Quy y nghĩa là tùy theo,
y chỉ; biết được Phật thì diệt phiền não.
Thứ đến quy y Pháp, quy y Tăng.
Qui y Pháp nghĩa là Pháp
mà Như Lai đã từng thực hành không bị đọa địa ngục,
nên người nào tùy thuận thọ trì pháp này thì không bị
đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Pháp nghĩa là tiếp
nhận sự thật, có nghĩa là thánh-đạo Niết-bàn. Ðạo nghĩa
là pháp, như trong kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Pháp vô
lậu (Dhammàsankhata) có tám chi đạo lộ ở trên các pháp.
Pháp sư nói: - Tôi xin
nói lược; có Bà-la-môn tên Xa-Ða-Ma-Na-Bà (Chattamànavaka-vimàna)
ca vịnh khen Phật với bài kệ:
Pháp trừ dục, ly
dục,
Bất động không sầu ưu
Thơm ngon, vượt thế gian,
Rất tốt, phân biệt rõ
Tối thượng trên các pháp,
Nên quy y pháp này.
Bố thí bậc Bốn hướng,
Nếu phân biệt có tám,
Tối thượng trong hàng Tăng,
Chứng đắc quả báo lớn,
Ai qui y nơi này,
Ðáng gọi Ưu-bà-tắc.
(ràgaviràgam anejam
asokam dhamman asankhatam appatikùlam madhuram imam pagunam suvibhattam
dhammam imam saranattham upehi, yattha ca dinnamahapphalam àhu catusu
sucisu purisayugesu, attha ca puggaladhammadasè te, sangham imam
saranatham upehi).
Bà-la-môn thưa: - Xin
Phật biết cho, con đã thọ trì ba quy y.
Pháp sư nói: - Nếu
giải thích ba quy y ở đâu thì càng phiền phức thêm ra,
vị nào muốn biết rõ hãy tra cứu ở A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa
(papancasudani, majjhimatthakathà, Bhayabheravasuttavannanà,
sumangalavilàsini, Dìghatthakathà).
Bà-la-môn thưa: - Xin
sa-môn Cù-đàm biết con đã làm vị ưu-bà-tắc (upàsaka);
xin ngài gọi con là Ưu-bà-tắc.
Hỏi: - Ưu-bà-tắc là
gì? Ai là ưu-bà-tắc? Ai không phải là ưu-bà-tắc? Có
giới nào là ưu-bà-tắc Có tâm nào là ưu-bà-tắc? Vì sao
được gọi là ưu-bà-tắc? Vì sao không được gọi là ưu-bà-tắc?
Pháp sư nói: - Ý nghĩa
này rất nhiều, không thể nói hết ở đây, hãy xem ở Tu-đà-ny
Tỳ-bà-sa (papancasudani, majjhimatthakathà).
- Từ nay về sau cho đến
trọn đời, con không theo vị đạo sư khác, xin Phật biết
rõ cho. Nếu có người dùng dao chém đầu con để sai khiến
con nói nghịch lại Phật Pháp Tăng thì con cũng không bao
giờ nói như vậy dù phải bị rơi đầu xuống đất.
Ðem cả thân mạng tùy
thuận Như Lai, muốn cúng dường nên Bà-la-môn thưa: - Xin đức
Như Lai nhận lời mời của con, tiền an cư ba tháng mùa hạ
cùng chúng Tỳ-kheo tại vùng Tỳ-lan-nhã. Con đã là vị ưu-bà-tắc,
xin Như Lai thương tưởng con, nhận lời con mời an cư tại
Tỳ-lan-nhã.
Như Lai im lặng nhận
lời.
Pháp sư hỏi:- Vì sao
Phật không đáp lời mời của Bà-la-môn.
Ðáp: - Ứng với cách
trả lời bằng thân hay miệng của thế gian, Thế Tôn đáp
bằng tâm chấp nhận vì lân mẫn Bà-la-môn.
Câu: Biết rõ Phật
nhận lời.
Hỏi: - Thế nào là
nhận lời?
Ðáp: - Nếu không
nhận lời thì sẽ đáp lại bằng thân hay lời nói. Thế Tôn
im lặng với nhan sắc vui vẻ nên biết rõ Ngài nhận lời.
Bà-la-môn rời chỗ
ngồi đứng dậy, nhiễu quanh ba vòng, làm lễ Phật khắp
bốn hướng rồi từ giã. Chắp hai tay để trên đầu, đi lùi
đến khi không còn thấy Như Lai, ông ta lại làm lễ lần
nữa rồi mới đi hướng về phía trước.
Khi ấy, tại vùng
Tỳ-lan-nhã bị đói kém nặng đúng vào thời gian đức
Phật nhận lời tiền an cư ba tháng của Bà-la-môn
Tỳ-lan-nhã.
Ðói kém nghĩa là
thức ăn uống bị khan hiếm. Nếu người không có tín tâm
rất thanh tịnh thì dù có thức ăn uống họ cũng không cho,
cũng gọi là khan hiếm. Vùng Tỳ-lan-nhã không phải như
vậy, vì hoa màu ngũ cốc không kết hạt.
Hỏi: - Hai nghi nghĩa là
gì?
Ðáp: - Hai nghi là hai
loại tâm nghi.
Hỏi: - Hai loại tâm
nghi là gì?
Ðáp: - Tâm nghi nghĩa là
về sự khất thực trong ba tháng hạ này, nghi ngờ chẳng
biết được hay không, hoặc nghi có thể sống được hay không.
Ðây là hai loại tâm nghi ngờ.
Xương trắng
(setatthika) nghĩa là người bần cùng hạ tiện không xin ăn
được bị chết đói nên bỏ thây ngổn ngang khắp nơi. Có
nơi còn nói ngũ cốc không trổ hoa kết hạt thì bạc
trắng như xương, nên gọi là xương trắng. Như cây thẻ.
Khi lúa vừa trổ đòng đòng bị hạn hán thân gốc thẳng
đơ như cây thẻ, nên gọi là thẻ. Có thuyết nói khác, khi
đói kém dùng thẻ để mua thức ăn uống nên gọi là thẻ.
Vì sao? Khi đến chợ, kẻ mạnh vào được, người yếu không
chen được thì kêu la bên ngoài. Thấy những người yếu như
vậy nên người bán gạo sinh tâm bình đẳng, mở cửa cho vào
và để ngồi theo thứ tự, nhận chi phí (để mua của họ)
trước, sau đó đưa gạo. Họ đếm bằng thẻ tùy theo số
lượng người nhiều ít. Các Tỳ-kheo suy nghĩ: Trong lúc đói
kém này phải tính toán bằng thẻ.
Các Tỳ-kheo đi qua
bảy tám tụ lạc nhưng chỉ được cho chút ít hay không
được chút lương thực nào cả.
Khi ấy, có đoàn buôn
từ phương Bắc, đem theo 500 con ngựa, định đem về Nam bán
vì sẽ có lãi đến hai ba lần. Ði qua các nước, tuần tự
họ đến vùng Tỳ-lan-nhã và ở lại bốn tháng mùa hạ.
Hỏi: Vì sao đoàn buôn
ngựa không đi tiếp mà ở lại bốn tháng?
Ðáp: - Vì trời mưa
nhiều, đường ngựa đi không thông nên lập trại ngựa và
làm nhà với hàng rào vây quanh ở ngoại thành.
Khi các Tỳ-kheo đến
chỗ đoàn buôn để khất thực, mỗi người được năm thăng
lúc ngựa.
Hỏi: - Họ cho các
Tỳ-kheo lúa vì có lòng tin hay không?
Ðáp: - Vì lòng tin. Hàng
ngày vào tụ lạc, người buôn ngựa thấy các Tỳ-kheo đi
khất thực trở về với bát không. Thấy vậy, người buôn
trở về kể lại sự việc này cho đồng bạn nghe. Họ suy
nghĩ: Các Tỳ-kheo khất thực thật cực khổ nhưng không
được gì cả, hãy cùng nhau tính toán xem, nếu đoàn buôn
chúng ta cung cấp các vị ấy (bằng khẩu phần) hằng ngày
e rằng phần ăn sáng của chúng ta bị thiếu hụt vậy nên
giảm phần ăn của ngựa, mỗi con năm thăng để cho các
Tỳ-kheo. Ðược phần lúa ngựa này, họ không còn mệt
nhọc nữa mà ngựa của chúng ta cũng không hại gì.
Sau khi tính toán như
vậy, đến gặp các Tỳ-kheo, sau khi làm lễ, các thương khách
thưa: - Các đại đức! Xin nhận phần lúa ngựa của chúng
con. Hàng ngày mỗi người được năm thăng và thực phẩm
tạp khác, tùy ý các ngài làm thức ăn.
Do đó, trong luật có nói:
- Hàng ngày, vào buổi sáng các Tỳ-kheo mặc y mang bát đi
khất thực lúa.
Hỏi: - Buổi sáng là gì?
Ðáp: - Từ sáng sớm
đến giữa trưa là buổi sáng.
Mặc y phục nghĩa là dùng
ca-sa che thân. Ði khất thực (pindapàta) nghĩa là khất thực
ở vùng Tỳ-lan-nhã không được, phải đi qua các tụ lạc
nhưng không có ai đón tiếp.
Mang lúa trở về chùa
(patthapatthapulakam àràmamharitvà) nghĩa là sau khi đi khất
thực khắp nơi, được lúa đem về, họ phải tự bỏ vào
cối giã ra để dùng. Tỳ-kheo già không có tịnh nhân, lại
không có người khác làm hộ, phải đích thân giả nát ra làm
cơm. Có khi tám đến mười vị cùng làm, rồi chia nhau dùng.
Nhận lấy phần của Như Lai, hiền giả A-Nan chà vỏ bằng
tay. Với trí tuệ của mình, A-Nan làm thức ăn rất thơm
ngon, có cả chất cam lộ của chư thiên cho vào.
Sau khi dùng thức ăn này,
đức Phật nhập chánh định và sau đó không phải khất
thực nữa.
Hỏi: - Khi ấy, đại đức A-Nan có hầu Phật
không?
Ðáp: - Có.
Sau khi rời khỏi gốc
cây Bồ đề, trong hai mươi năm, thị giả của Phật không
phải một vị. Khi thì đại đức Na-Già (Nàgasamàla), hoặc
đại đức Na-Kỳ-Ða (Nàgita), hoặc đại đức Di-Kỳ-Da
(Meghiya), hoặc đại đức Ưu-Bà-Già (Upavàna), hoặc đại
đức Sa-Già-Ða (Sàgata), hoặc đại đức Tu-Na-Ma-Ða
(Sunakkhatta Licchaviputta). Các vị đại đức này tùy ý làm
thị giả, vui thì đến, không vui thì đi, có khi đi luôn.
Ðại đức A-Nan đến
hầu, hỏi: - Trong nước bị đói kém, tại sao không có người
nào làm công đức bằng cách chia bớt một phần thức ăn
nhỏ để cúng dường chúng tăng; lại có Bà-la-môn thỉnh
Thế Tôn tiền an cư ba tháng mùa hạ nhưng lại không cúng dường.
Tại sao? Vì bị thiên
ma (mara) Ba-tuần che khuất trong một do-tuần, làm cho nhân dân
không có chí tâm cúng dường. Sau khi che khuất, ma bỏ đi.
Hỏi: - Như Lai không
biết hay sao?
Ðáp: - Lành thay! Vì
Phật muốn chế giới thuyết pháp.
Phật bảo A-Nan: - Người
lành các ông đã làm việc thù thắng rồi, các Tỳ-kheo
trong tương lai sẽ tìm gạo trong lúa.
Pháp sư nói: - Tôi chưa
hiểu được ý nghĩa này. Vậy là Như Lai nói như thế này:
- Này A-Nan! Người lành các ông trong lúc đói kém, khất
thực khó khăn mà biết tri túc để hộ trì chánh pháp;
thế nên gọi là thắng. Trong lúc đói kém mà chế ngự được
tâm tham nên gọi là thắng. Trong những tụ lạc khác ngũ
cốc đầy đủ, hoa quả thơm ngon rất nhiều mà họ không
đi đến. Trong chúng cũng không có người nào suy nghĩ sân
hận hay nói ra lời thán oán: Tại sao phải ở đây, tại
sao Thế Tôn không đi đến những nơi kia để dễ có thức
ăn uống? Hoàn toàn họ không có nói lên lời này và cũng
không oán hận. Vì sao Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã thỉnh chúng ta
an cư ở đây mà không cúng dường? Họ lại không có tâm
xấu suy nghĩ mong cầu lợi dưỡng ở nơi khác, cùng không
khen ngợi nhau rằng người này đắc đạo để mọi người
biết với hy vọng cúng dường bằng những lời như vậy.
Họ đều im lặng bớt ăn, nhất tâm sống y chỉ theo Phật,
nên gọi là thắng.
Hỏi: - Họ có biết ma ngăn che không?
Ðáp: - Biết.
Hỏi: - Vì sao Như Lai
không đến an cư ở thành Vương xá hay các nước khác mà
đến nơi này?
Ðáp: - Nói gì đến thành
Vương xá, dù đi đến vùng Uất-đơn-việt (Uttarakuru), hay cõi
trời Ðao-lỵ (Tidasapura), ma vương cũng sẽ đến ngăn che,
không thể tránh né. Vì sao? Trong năm này ma ương rất tức
giận, Như Lai đã quán sát khắp, chỉ có thể nhờ vào người
buôn ngựa ở Tỳ-lan-nhã để an cư.
Hỏi: - Ðã ngăn che người
khác được, vì sao ma vương không ngăn che người buôn
ngựa để làm cho Phật và chúng tăng không có lương thực?
Ðáp: - Cũng có thể ngăn
được, nhưng sau khi ma vương đi rồi, đoàn buôn ngựa mới
đến, thế nên không bị ngăn.
Hỏi: - Tại sao ma vương
lại không ngăn đoàn buôn ngựa?
Ðáp: - Không thể ngăn
khắp hết được.
Pháp sư nói: - Có bốn
trường hợp, ma không thể ngăn chận. Một, cúng dường vào
buổi sáng; Hai là thuốc thang không thiếu; Ba là tuổi thọ
của Như Lai; Bốn là ánh áng của Như Lai. Ánh sáng của
nhật nguyệt và phạm thiên chiếu đến chổ Như Lai thì
mất tác dụng. Thế nên, ma vương dùng các phương tiện nhưng
không thể ngăn che được.
Lúc nọ, Phật nghe
tiếng giả cối vì sau khi được lúa đem về, các Tỳ-kheo
giả trong cối nên có tiếng. Biết rõ nhưng Phật cố hỏi.
Biết mà không hỏi hay
biết mà cố hỏi nghĩa là khi biết có nhân duyên lợi cho
chúng sinh nên Phật cố hỏi; bằng không lợi ích thì biết
mà cố ý không hỏi.
Hỏi đúng lúc nghĩa là
nếu cần hỏi phải hỏi đúng lúc. Không hỏi nghĩa là Như
Lai biết phi thời nên không hỏi. Có nghĩa thì hỏi, không có
nghĩa thì không hỏi. Hỏi có hai trường hợp: Một là vì
muốn thuyết pháp; Hai là vì việc chế giới khinh hay trọng
cho các đệ tử Thanh-văn.
Phật hỏi: - Này A-Nan!
Tiếng động gì vậy?
Ðáp: - Ðấy là tiếng
các Tỳ-kheo giả gạo.
Phật dạy: - Lành thay!
Lành thay! Này A-Nan ...
Vì sao Phật khen ngợi?
Vì trong tương lai các Tỳ-kheo ở trong các chùa, việc ăn
uống dễ có, sinh kiêu mạn nói rằng thức ăn thô dỡ
hoặc chín quá, cứng quá, nát quá, chua mặn quá. Những
lời nói như vậy là muốn tìm sự ngon dỡ trong thức ăn.
Phật bảo A-Nan: - Người
thiện các ông nên làm nhân duyên thiện pháp cho Tỳ-kheo
trong tương lai. Nhờ vào những pháp của các ông, các
Tỳ-kheo trong tương lai khi được thức ăn uống dù ngon hay
dỡ cũng không có ý ham hay bỏ. Ngày xưa, khi đức Pháp vương
ở đời, các bậc đại A-la-hán còn ăn lúa ngựa, huống
chi nay được ăn uống thế này mà chúng ta chê bai khinh
bạc.
-ooOoo-
Phẩm Ðại
Mục-Kiền-Liên
Khi ấy, Ðại
Mục-Kiền-Liên (Mahàmoggallàna). Ðại có nghĩa là thần thông
trí tuệ rất lớn trong hàng Thanh-văn. Mục-Kiền-Liên là
họ (gotta). Bạch Phật nghĩa là thưa với Thế Tôn.
Hỏi: - Vì sao thưa
với Thế Tôn?
Ðáp: - Sau khi xuất gia
được bảy ngày, Ðại Mục-Kiền-Liên liền chứng đắc
Ba-la-mật của Thanh-văn (Sàvakapàramì) lại được Thế Tôn
khen ngợi là vị có thần thông đệ nhất. Vì có năng lực
thần thông nên Mục-Kiền-Liên suy nghĩ: Vùng Tỳ-lan-nhã quá
đói kém, các Tỳ-kheo khất thực không được nên rất
cực khổ. Ta nên lật ngược đất lên lấy chất bổ trong
đất cúng dường Tỳ-kheo tăng.
Tôn giả lại suy nghĩ:
Nếu ta làm như vậy mà không thưa với Thế Tôn thì chính là
muốn cùng sánh thần lực với Như Lai, thật trái với pháp
của ta.
Sau khi suy nghĩ như
vậy, tôn giả bạch Phật:
- Thưa Thế Tôn! Khi
mặt đất mới hình thành có chất béo bổ như bơ như
mật. Lành thay Thế Tôn! Con muốn lật ngược đất lên
lấy chất bổ này cúng dường chúng tăng.
Lật lại nghĩa là
lấy phần dưới để lên trên. Vì sao? Vì chúng tăng vậy.
Không muốn cho phép, để làm cho Mục-Kiền-Liên rống lên
tiếng rống sư tử (Sìhanàda) nên Phật hỏi: - Này
Mục-Kiền-Liên! Tất cả chúng sinh và thành phố làng xóm
đều ở trên đất, mà đất thì không thể treo lơ lửng trên
hư không, vậy làm sao ông làm được?
Mục-Kiền-Liên đáp: -
Thế Tôn! Con dùng một tay hóa ra mặt đất đỡ lấy thành
phố làng xóm cùng tất cả chúng sinh, còn một tay đỡ
lấy chúng sinh dựa vào mặt đất.
Phật đáp:- Thôi đi
Mục-Kiền-Liên (alam moggallàna).
Hỏi: - Vì sao Thế Tôn
không cho Mục-Kiền-Liên lật ngược mặt đất?
Ðáp: - Vì thương xót
chúng sinh phải bị sống ngược. Vì hoặc có người được,
hoặc nói không, như nói rằng trú xứ, thành phố của chúng
ta cùng nhau thay đổi kỳ lạ, đây không phải là thành
phố, làng xóm, ruộng vườn, ao hồ của chúng ta.
Pháp sư nói: - Chỉ có
thần lực mới làm được, chẳng phải người không thần
lực, mà sự đói kém không phải chỉ (xảy ra) một lần,
nếu gặp đói kém nữa thì có được ai như Mục-Kiền-Liên.
Trong tương lai, đệ tử Thanh-văn ít có thần lực. Khi các
vị này vào làng xóm khất thực, mọi người trông thấy nói:
Khi Phật còn tại thế, đệ tử Thanh-văn trì giới đầy đủ
nên có thần lực, gặp khi đói kém thì lật ngược mặt đất
lấy chất bổ dưỡng để dâng cho chúng tăng. Ngày nay, chúng
tăng trì giới không đầy đủ vì nếu giữ đầy đủ thì
(có thần lực như trước) không khác. Do đó, họ không cho
chút nào cả. Có kẻ còn sinh tà kiến điên đảo, khinh
mạn bậc thánh. Do khinh mạn như vậy nên sau khi chết họ
bị đọa địa ngục. Thế nên, Thế Tôn bảo với
Mục-Kiền-Liên không nên lật ngược đất.
Sau khi đến xin Phật
lật ngược đất nhưng không được, Mục-Kiền-Liên lại
xin việc khác: Lành thay ...
Thế Tôn dạy: Thôi đi.
Pháp sư nói: - Tiếp
theo lời lành thay như trước đã nói, hãy tự biết lấy.
Nhưng có điểm nhỏ khác nhau. Ðó là Mục-Kiền-Liên muốn
đưa vùng đất Uất-đan-việt vào vùng đất Diêm-phù-lỵ.
Hỏi: - Còn biển thì
sao?
Ðáp: - Biển như vũng
nước chân trâu, chỉ một bước là vượt qua, để các
Tỳ-kheo được ăn uống như ở các tụ lạc (phong phú) khác.
(Nitthità mahàmoggallànassa sìhanàdakathà).
Phẩm Xá-Lỵ-Phất.
Ưu-Ba-Ly (Upàli) muốn
chứng minh căn bản của luật tạng. Khi ấy, trong sự yên
tịnh, Xá-Lỵ-Phất suy nghĩ ...
Hỏi: - Thế nào là yên
tịnh?
Ðáp: - Yên tịnh không
tiếng động, cũng gọi là nhất tâm tịch tịnh.
(tiếp trên)... vì sao
Phật pháp được tồn tại lâu dài... từ Phật Tỳ-Bà-Thi
đến chỗ đáp... ý nghia các phần khác hãy tự tìm hiểu.
Hỏi: - Tại sao Xá-Lỵ-Phất
không dùng thần lực của mình quán sát để biết mà lại
đi bạch Phật?
Ðáp: - Không được,
nếu Xá-Lỵ-Phất dùng thần lực của mình để quán sát thì
biết rõ sự tồn tại dài hay ngắn của chư Phật nhưng
nếu phân biệt các nhân duyên của chư Phật thì không thể
thông suốt được. Ðại đức Ðại Liên Hoa nói có thể
được. Vì sao? Vì có 16 loại trí của bậc thương đại
A-la-hán. Nhưng theo lý này cũng không khó vì muốn y chỉ đức
Như Lai, muốn biểu hiện Thế Tôn là bậc trên nên đến thưa
hỏi Phật.
Phật đáp: - Này Xá-Lỵ-Phất
... (các phần sau đọc theo văn luật thì rõ).
Nhân duyên là gì? - Nghĩa
này dễ hiểu.
Câu nói: Phật bảo Xá-Lỵ-Phất
rằng Phật Tỳ-Bà-Thi... là lời nói đầu. Chư Phật không
có biếng nhác, đối với một người, hai, ba người cho đến
chúng sinh khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới mà có
những tâm niệm khác nhau, như là với chúng sinh này ít nên
nói lược, chúng sinh này lớn nhiều nên nói rộng, cũng không
thuyết pháp một cách cao thấp mà chỉ thuyết pháp một cách
bình đẳng cho tất cả. Như sư tử vương bảy ngày đi
kiếm ăn một lần, sắp bắt chúng sinh thì bất kỳ lớn
nhỏ, đều rống lên trước khi bắt. Vì sao? Nếu trước
khi bắt chúng sinh mà sư tử không rống lớn thì tâm khinh
suất có thể sẩy con mồi. Do đó, sư tử phải rống để
chúng sinh sợ hãi rồi mới bắt. Ðức Phật cũng vậy, đối
với tất cả chúng sinh không kể lớn nhỏ đều được ân
cần thuyết pháp. Nếu nói lược, có khi chúng sinh không
chuyên tâm tu tập. Vì sao? Vì Như Lai tôn trọng pháp vậy.
Hiện nay, pháp của đức Thế Tôn của ta giảng thuyết, như
nước trong biển lớn chỉ có một vị; (pháp) chư Phật
trong quá khứ cũng như vậy. Nhưng tâm chúng sinh khi ấy dễ
dạy bảo nên chỉ thuyết một kệ để hiểu bốn đế. Vì
vậy, chư Phật quá khứ cũng không thuyết nhiều về kệ pháp
tu chứng phải không? [ (tasmà na vitthàrena dhammam desesum)
(dhamma=sutta geyya?)].
Pháp sư nói: - Câu trước
đã trình bày rồi, không nói lại nữa.
Về câu: - Không chế giới cho Thanh-văn.
Hỏi: - Tại sao chư Phật quá khứ không chế
giới cho đệ tử Thanh-văn?
Ðáp: - Vì các đệ
tử Thanh-văn không phạm lỗi nên (chư Phật) không chế quy
định cụ thể về Ba-la-đề-mộc-xoa (ànàpàtimokkha), cũng
không thuyết giới mỗi nữa tháng, cho đến sáu năm. Sau sáu
năm, mới có thuyết những lời khuyên dạy về Ba-la-đề-mộc-xoa
(ovàdapàtimokkha). Những lời này được Như Lai thuyết ra
chứ không để cho Thanh-văn thuyết.
Khi ấy tại vườn
Kiều-Ma Lộc-Dã, thành Bàn-đầu-ma-đề Vương-xá (Bandhumati
ràjadhàni khemo Migadàyo), thuộc đất Diêm-phù-lỵ là trú
xứ của đức Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassi), các Tỳ-kheo tập
họp lại hết, đức Phật bố tát (Uposatha) với chúng tăng;
ba người, hai người, một người cũng bố tát. Ngày xưa,
đất Diêm-phù-lỵ có tám vạn bốn ngàn chùa, mỗi chùa có
đến mười vạn hai mươi vạn Tỳ-kheo nhưng sống yên
tịnh không ồn ào. Khi ấy, muốn nghe Phật thuyết pháp, thiên
nhân phải tính toán số năm, cứ sáu năm tập họp tăng chúng
một lần và họ đến gặp Phật để nghe Ngài thuyết
giới. Bấy giờ, các Tỳ-kheo nào có thần lực thì tự đến,
vị nào không có thần lực thì được chư thiên đến thưa
rằng: Ðã đến lúc bố tát và họ chuẩn bị y bát. Nương
theo thần lực chư thiên, đến giảng đường bố tát, các
Tỳ-kheo làm lễ sát chân đức Phật.
Biết chúng tăng đã
tập hợp, đức Phật Tỳ-Bà-Thi giảng thuyết kệ khuyên
dạy về Ba-la-đề-mộc-xoa.
Nhẫn nhục đạo đệ
nhất,
Niết-bàn giác tối thượng,
Xuất gia não hại người,
Không xứng danh sa-môn.
Không làm các điều ác,
Thực hành các pháp lành,
Tự thanh tịnh tâm ý,
Là lời chư Phật dạy.
Không gây phiền, nói lỗi,
Không phá hoại việc người,
Làm đúng giới được dạy,
Ăn uống biết vừa đủ,
Ít muốn với tất cả
Thường ưa nơi yên tịnh.
Là lời chư Phật dạy.
Bằng phương pháp này,
tất cả chư Phật quá khứ dùng kệ này để khuyên dạy
về Ba-la-đề-mộc-xoa. Tuổi thọ của chư Phật có dài
ngắn nên sự giảng dạy này cũng có dài ngắn. Chư Phật
từ dưới cây Bồ đề chế giới cho đệ tử Thanh-văn.
Về những qui định cụ thể về Ba-la-đề-mộc-xoa này, (thường
kỳ) không phải Như Lai thuyết giới mà do các đệ tử
Thanh-văn thuyết giới. Thế nên, đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni
của chúng ta, từ khi (thành đạo) dưới cây Bồ đề đến
20 năm sau đều chỉ giảng thuyết khuyên dạy về Ba-la-đề-mộc-xoa.
Vào một lúc nọ, tại
giảng đường mẹ Mi-Già-La (Migàramàtu) ở Tăng-già-lam Phú-bà
(Pubbàràma), sau khi các Tỳ-kheo an tọa, Phật bảo các
Tỳ-kheo: - Từ nay về sau Ta không tác pháp bố tát, Ta không
thuyết giáo giới Ba-la-đề-mộc-xoa nữa, các ông hãy tự
thuyết. Vì sao? Như Lai không bố tát thuyết giới Ba-la-đề-mộc-xoa
giữa chúng không thanh tịnh.
Từ đó đến nay,
Thanh-văn đệ tử thuyết những qui định về Ba-la-đề-mộc-xoa.
Do đó trong luật nói: Phật bảo Xá-Lỵ-Phất: - Chư Phật
quá khứ không thuyết những qui định cụ thể về Ba-la-đề-mộc-xoa
mà chỉ thuyết giáo giới về Ba-la-đề-mộc-xoa. Ba Phật
Tỳ-Bà-Thi... không thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa nên sau khi các
vị ấy nhập Niết-bàn, các đệ tử Thanh-văn cũng nhập
Niết-bàn, các đệ tử Thanh-văn vào thời gian cuối cùng thì
khác nhau về dòng họ, về tên, hoặc họ Cù-đàm (Gotama),
hoặc họ Mục-Kiền-Liên, hoặc tên Phật Vô-Ðức, hoặc tên
Ðàm Vô-Ðức. Từ đẳng cấp khác nhau (jacca), hoặc Bà-la-môn
(Bràhmana), hoặc cư sĩ, hoặc sát lỵ (Khattiya), lại khác
nhau về gia đình hoặc giàu, hoặc nghèo, hoặc hạ tiện. Do
xuất gia từ những gia đình khác nhau, đẳng cấp khác nhau
mà tu phạm hạnh, do vào chánh pháp với tên họ giòng tộc
khác nhau nên họ vẫn giữ theo ý riêng của mình, không tùy
thuận hoàn toàn theo Phật pháp. Do đó, Phật pháp không
tồn tại lâu dài.
Hỏi: - Các Tỳ-kheo không
tinh cần tu tập, nên làm cho chánh pháp mau suy tàn phải không?
Ðáp: - Các đại đức
trước đây làm (như vậy) cũng đã không hay rồi, huống
chi chúng ta không chịu giữ gìn pháp tạng, chính là khiến
cho chánh pháp của Phật mau hoại diệt.
(Hoa) không được xỏ
lại bằng tơ, có gió thổi, bị bay tứ tản. Xỏ nghĩa là
kết lại. Cũng như các loại hoa nếu không được kết
lại, có gió thổi thì bị bay tứ tản; Phật pháp cũng như
vậy.
Về câu: Không chế
giới vì trước phải dùng tâm quán sát sau mới giáo giới
các Thanh-văn.
Hỏi: - Việc này nghĩa
là gì?
Ðáp: - Chư Phật quá
khứ, quán sát tâm Thanh-văn trước, sau đó mới giáo giới.
Ðối với các Thanh-văn dễ hiểu được nghĩa lý thì Phật
cũng không nói rộng.
Rừng khủng bố
(bhimsanaka vanasanda) nghĩa là ai vào rừng này thì phát sinh
sợ hãi.
Về câu: - Như vậy các
ông hãy tư duy. Có ba tư duy mà thứ nhất là xuất gia. Câu:
Các ông phải chuyên tâm tư duy thế này, đừng nên tư duy
thế này nghĩa là có ba ác pháp, thứ nhất là tư duy về
dục. Các ông cẩn thận chớ tư duy về pháp trên, mà phải
luôn ghi nhớ trong tâm, quán sát vô thường, khổ, không, vô
ngã. Tâm luôn ghi nhớ không tư duy như thế này: tư duy vô
thường là thường, bất tịnh là tịnh. Các ông không nên
tư duy như vậy, đây là điều các ông phải từ bỏ. Các
ông phải từ bỏ các pháp ác, phải tu tập các thiện pháp,
đã có thì làm cho tăng trưởng, từ đó phiền não không phát
sinh và tâm được giải thoát. Do tâm không chấp thủ
phiền não nên giải thoát, cũng gọi là do diệt nên không
sinh (phiền não), nhờ diệt nên không còn (phiền não). Thế
nên trong luật có nói: Do không (còn) sinh phiền não nên tâm
được giải thoát.
Tất cả đều chứng A-la-hán. Cung như hoa sen,
đồng loạt nở rộ khi mặt trời mọc.
Về câu: Này Xá-Lỵ-Phất,
ngày xưa tại rừng khủng bố, người nào chưa ly dục mà vào
rừng này thì dựng tóc gáy vì hiện tượng dữ tợn trong
rừng.
Về câu: Xá-Lỵ-Phất
do nhân duyên này.
Pháp sư nói: - Ý nghĩa
câu này dễ, hãy tự biết lấy.
Không tồn tại lâu dài,
Phật Tỳ-Bà-Thi sống tám vạn tuổi, chúng Thanh-văn cũng như
vậy. Từ khi đức Phật ra đời, cho đến vị Thanh-văn
cuối cùng, Phật pháp trú ở đời một trăm ngàn sáu vạn
năm. Ðức Phật Thi-Khí (Sikhi) sống bảy vạn năm, chúng
Thanh-văn cũng sống như vậy. Ðức Phật Duy-Vệ (Vessabhu)
sống sáu vạn năm, chúng Thanh-văn cũng sống như vậy.
Tuổi thọ hai vị Phật sau đến vị Thanh-văn cuối cùng,
Phật pháp trú ở đời một trăm ngàn bốn mươi hai mười
vạn năm. Do tuần tự giảm dần nên Phật pháp không tồn
tại lâu dài.
Nghe Phật pháp của ba
vị Phật không tồn tại lâu dài, ý muốn hỏi giáo pháp
vị Phật nào tồn tại lâu dài nên Xá-Lỵ-Phất thưa: -
Bạch Thế Tôn! Vì sao Phật pháp tồn tại lâu dài so với
tuổi thọ chư Phật?
Ðáp: - Phật Câu-Na-Vệ
(Kakusandha) sống bốn vạn năm, Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni (Konàgamana)
sống ba vạn năm, Phật Ca-Diếp sống hai vạn năm, Phật Thích-Ca
Mâu-Ny sống một trăm năm; tuổi thọ của đệ tử Thanh-văn
cũng như vậy. Thế nên Phật pháp tồi tại lâu dài, như Ta
bậc Thế Tôn ngày này nếu lấy một nửa tuổi thọ Phật
Ca-Diếp (Kassapa) là một vạn năm, thì có thể xuất thế,
nhưng khi ấy quán sát chúng sinh các căn chưa thuần thục;
cho đến tuổi thọ năm ngàn năm thì xuất thế..., cho đến
tuổi thọ 500 năm thì xuất thế nhưng vẫn chưa có chúng
sinh mà căn thuần thục, cho đến một trăm năm mới có chúng
sinh có thể độ được. Thế nên Phật ra đời vào lúc
tuổi thọ ngắn ngủi, chúng Thanh-văn đệ tử cũng như
vậy nhưng Phật pháp tồn tại lâu dài. Pháp ba vị Phật trước
đều diệt theo tuổi thọ (của Phật), nên gọi là không
tồn tại lâu dài. Ba vị Phật sau, Phật tuy diệt độ nhưng
Phật pháp vẫn còn ở thế gian, nên gọi là tồn tại lâu
dài.
Khi nghe Phật dạy như
vậy, muốn cho Phật pháp tồn tại lâu dài nên Xá-Lỵ-Phất
bạch Phật: Cầu xin đức Thế Tôn chế giới cho các đệ
tử Thanh-văn.
Như trong luật nói: Sau khi xuất định, Xá-Lỵ-Phất
... những câu sau tuần tự hiểu lấy.
Phật bảo Xá-Lỵ-Phất: - Thôi, thôi, chưa đến
lúc.
Xá-Lỵ-Phất lại
bạch Phật: - Thế Tôn! Cầu xin Ngài chế giới cho các đệ
tử Thanh-văn.
Phật bảo Xá-Lỵ-Phất:
- Thôi, thôi, pháp này không phải cảnh giới mà Thanh-văn,
Duyên giác có thể biết được, chỉ có Phật với Phật
mới có thể biết được, vì cấu nhiễm chưa phát sinh.
Hỏi: - Cấu nhiễm làm
gì?
Ðáp: - Chỗ cấu làm
cho phát sinh lỗi lầm từ hiện tại đến đời sau nên
gọi là cấu nhiễm.
Về câu: Chưa chế giới cho Thanh-văn.
Hỏi: - Vì sao chưa
chế giới cho Thanh-văn?
Ðáp: - Nếu chưa có
hữu lậu mà Như Lai chế giới thì chúng sinh sinh ý tưởng
phỉ báng rằng sa-môn Cù-đàm cũng như các đệ tử Thanh-văn
đều là giòng họ quí tộc, hoặc là vương vị, mà từ
bỏ tài sản, cung điện, vợ con, quyến thuộc của họ, không
tiếc thân mạng, đều sống tri túc, không còn mong cầu điều
gì ở thế gian, vậy sao Cù-Ðàm lại dùng giới luật Ba-la-đề-mộc-xoa
để trói buộc họ. Vì ý nghĩ Cù-đàm thật chưa khéo phân
biệt người thế gian nên họ nói như vậy. Nếu Ta chế
giới, người thế gian cũng không có tâm kính trọng. Như
thấy người mới sinh mụt nhọt, tuy có ung nhọt nhưng chưa
to lớn làm mủ, thầy thuốc chưa trị bệnh giỏi đã vội
phá ra. Sau khi phá, máu chảy ra lênh láng nên bệnh nhân
rất đau đớn, phải dùng thuốc đắp vào vết thương mới
bình phục. Thầy thuốc nói: - Ta đã trị bệnh cho ông, hãy
trả công.
Bệnh nhân đáp: - Này
thầy thuốc ngu si, nếu đúng ta có bệnh thì ông trị cho,
nhưng ta không có bệnh lại cố phá thịt, làm cho chảy máu,
khiến rất đau khổ, lại còn đòi trả công, chẳng phải là
điên cuồng hay sao!
Ðối với đệ tử
Thanh-văn cũng như vậy, nếu bị chế giới trước thì sinh
hủy báng: Tôi không có tội sao lại bị chế giới. Thế nên
Như Lai không chế giới trước.
Về câu: Nếu hữu
lậu phát sinh.
Hỏi: - Thế nào là
lậu phát sinh?
Ðáp: - Nếu trong chúng,
có lậu phát sinh, khi ấy Như Lai sẽ chế giới cho các đệ
tử, qui định về Ba-la-đề-mộc-xoa. Cũng như thầy thuốc
giỏi, tùy bệnh cho thuốc để mau hết bệnh thì được ban
thưởng nhiều và khen ngợi: Ðây là bậc y vương giỏi, khéo
trị hết bệnh cho tôi. Như Lai cũng như vậy, tùy theo sự
vi phạm mà chế giới nên họ hoan hỷ thọ trì, không có oán
trách. Do đó, trong luật có nói rằng: Thôi thôi, này Xá-Lỵ-Phất!
Nếu có pháp hữu lậu phát sinh, sau đó Như Lai mới chế
giới.
Pháp sư nói: - Các câu
khác, hãy tự biết lấy.
Trong Phật pháp, ai (vi
phạm về) cho người xuất gia đầu tiên, là Ưu-Ba-Tư-Ca
(upasena) con trai của Băng-Kiện-Ða (Vangantaputta). Sự chế
giới này nhân vì Ưu-Ba-Tư-Ca chưa đủ mười tuổi hạ mà
đã độ đệ tử và truyền cho giới cụ túc. Ưu-Ba-Tư-Na
hai tuổi hạ và đệ tử một tuổi hạ. Do sự việc diễn
tiến như vậy nên Phật chế giới: - Này các Tỳ-kheo, từ
nay về sau, ai chưa đủ mười tuổi hạ mà được truyền
giới cụ túc cho đệ tử, thì phạm tội Ðột-cát-la
(dukkata).
Sau khi Phật chế giới
này, có Tỳ-kheo đủ mười hạ (Vasa) hay hơn mười hạ, nhưng
ngu si không trí tuệ mà lại truyền giới cụ túc cho đệ
tử. Nhân đó, Phật lại chế giới, Phật bảo các Tỳ-kheo
rằng người nào không có trí tuệ mà truyền giới cụ túc
cho người khác, bị tội đột-cát-la.
Phật cho phép người có
trí tuệ, đủ hoặc hơn mười tuổi hạ, biết cách dạy
bảo thì được phép truyền giới cụ túc cho đệ tử.
Chưa có nhiều nghĩa là
trong tăng chúng số lượng các vị già trẻ chưa nhiều, phóng
xá cũng chưa lớn. Khi tăng chúng đông sẽ có người phạm
pháp hữu lậu. Nhân đó, Như Lai mới chế giới:
- Tỳ-kheo nào cùng người
chưa thọ giới cụ túc ngủ chung, quá hai đến ba đêm,
Tỳ-kheo ấy phạm tội Ba-dật-đề (Pàcittiya).
- Tỳ-kheo nào mà năm
nào cũng độ đệ tử thì phạm tội Ba-dật-đề.
- Tỳ-kheo ny nào mà năm
nào cũng độ đệ tử thì phạm tội Ba-dật-đề.
Ðã nói rõ như vậy,
ông hãy tự biết.
Ðại lợi dưỡng,
nếu khi tăng chúng được lợi dưỡng nhiều thì phát sinh
pháp hữu lậu, bấy giờ Như Lai sẽ chế giới:
- Tỳ kheo nào tự tay
cho thức ăn uống... đến nam hay nữ ngoại đạo lõa hình
(Acelaka) thì phạm tội Ba-dật-đề.
Chưa đa văn (chú
trọng về văn tự) là khi trong tăng chưa có đa văn; nếu
trong tăng, có Tỳ-kheo đa văn thì sinh lậu pháp. Ai dọc
tụng thông suốt từ một A-hàm đến năm A-hàm (panca àgamà,
samp.panca nikàya) nhưng với tâm không chân chính nên nói ra
ý nghĩa điên đảo, trái với luật nói là luật, trái với
pháp nói là pháp. Do đó Phật chế giới: - Tỳ-kheo nào nói
thế này: Tôi đã biết rõ về pháp... (mà trái pháp luật
như trên) của Phật dạy. Tỳ-kheo nào nói lời như vậy thì
phạm tội Ba-dật-đề. Ðối với sa di có lời nói ấy, cũng
xử như vậy. Vì sao Ta chế giới cho các đệ tử, đó là
Như Lai căn cứ vào pháp hữu lậu.
Hỏi: - Thế nào là
lậu?
Ðáp: - Là giặc cướp.
Hỏi: - Giặc cướp là
gì?
Ðáp: - Kẻ phạm giới
trong Phật pháp chính là giặc cướp.
Hỏi: - Sao gọi họ là
giặc cướp?
Ðáp: - Kẻ phi sa-môn
tự xưng ta là sa-môn, cướp vật dụng của bốn chúng.
Thế nên trong luật nói:
- Chưa có pháp hữu lậu thì chưa có kẻ cướp này, cũng nói
chưa có người phạm giới thì không có tội.
Nói không phiền não cũng
gọi là không hoạn nạn. Người không phạm giới thì không
bị nhiễm pháp đen (Niràdinava, apagatakàlaka). Pháp đen cũng
gọi là phá giới. Nói chúng tăng không phá (giới) là cực
kỳ thanh tịnh. Sống rất quang minh là sống trên đất chân
thật (sàre patitthita). Ai có giới, định, tuệ, giải thoát
là sống trên đất chân thật.
Pháp sư nói: - Tôi sẽ
tuần tự trình bày, khi tiền an cư ba tháng hạ ở vùng
Tỳ-lan-nhã, với năm trăm Tỳ-kheo mà vị chứng quả nhỏ
nhất là Tu-đà-hoàn đạo (sotàpanna).
Hỏi: - Tu đà hoàn đạo
là gì?
Ðáp: - Tu đà hoàn có
nghĩa là dòng nước (lưu).
Hỏi: - Dòng nước là
nghĩa gì?
Ðáp: - Ðạo lộ, ai đã
đi vào dòng nước đạo lộ này gọi là Tu-đà-hoàn đạo.
Như kinh văn nói: Phật hỏi Xá-Lỵ-Phất, Tu đà hoàn, sao
gọi là Tu đà hoàn?
Xá-Lỵ-Phất đáp: - Thưa
Thế Tôn! Ðó là quán thông tám đường: chánh kiến, chánh
tư, chánh khẩu, chánh hạnh, chánh sinh, chánh cần, chánh
thức, chánh tam muội.
Lại hỏi: - Thế nào là
vị Tu đà hoàn?
Ðáp: - Người nào
nhờ quán thông tám đường này nên đi đến thiện đạo,
gọi là vị Tu đà hoàn, như tên như vậy, họ như vậy (nên
gọi như vậy), nhân đạo lộ này mà gọi quả như vậy nên
gọi là Tu đà hoàn, hãy tự biết lấy.
Pháp không đọa lạc
(avinipàtadhamma). Không thể nói rằng vị Tu đà hoàn mà còn
đọa lạc địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Vì sao? Vì đã đoạn
trừ phiền não.
Nhờ đạo lộ này nên
đi đến Bồ đề (Sambodhi paràyana) nghĩa là cả ba đạo
lộ trước đều quyết định đạt đến giác ngộ, vì có
đạo lộ.
Như vậy, đại trí Xá-Lỵ-Phất
trả lời Như Lai xong.
Sau khi an cư ba tháng
tại Tỳ-lan-nhã và tự tứ xong, Phật bảo A-Nan rằng...
- Bảo là nói bằng
lời.
...nên biết là từ lâu
Phật pháp đã có pháp này, tức là chư Như Lai trong quá
khứ đã bảo như vậy. Vị nào đã nhận biệt-thỉnh của
người khác xong thì được phép ra đi. Các Thanh-văn đệ
tử khác được thỉnh hay không đều được ra đi.
Phật vì thương tưởng
chúng sinh nên muốn đi đến các nước khác.
Câu: Phật đi đến các
nước khác. Phật tùy ý tự tại đi lại trong ba cảnh
giới (mandala) là đại, trung và tiểu.
Hỏi: - Thế nào là đại
cảnh giới?
Ðáp: - Là phạm vi
rộng 900 do-tuần.
Hỏi: - Thế nào là
trung cảnh giới?
Ðáp: - Là phạm vi 600
do-tuần.
Hỏi: - Thế nào là
tiểu cảnh giới?
Ðáp: - Là phạm vi 100
do-tuần.
Khi Phật muốn đi lại
trong đại cảnh giới, thì sau khi an cư xong, vào một ngày
thuộc tháng chín, cùng các Tỳ-kheo vây quanh lên đường,
tuần tự đi đến từng tụ lạc để giáo hóa thuyết pháp,
thọ nhận các thức ăn uống, hóa độ những người đáng
được hóa độ, làm cho những người chưa được hóa độ
được phúc lợi. Sau chín tháng du hành, đến ba tháng an cư
mùa hạ, nếu nhiều Tỳ-kheo chưa hành pháp thiền định
xong, Như Lai không đại tự tứ mà đợi tiểu tự tứ, đến
ngày 15 tháng 9 Ngài lại ra đi.
Ði lại trong trung
cảnh giới là du hành trong tám tháng.
Ði lại trong hạ cảnh
giới là trước hết Phật quán sát có chúng sinh căn thuần
thục thì ở lại, căn chưa thành thục thì ra đi, đến
một ngày trong tháng 11 cùng các Tỳ-kheo vây quanh lên đường
và du hành trong bảy tháng. Ngài đi khắp nơi trong ba cảnh
giới này vì muốn giáo hóa để chúng sinh thoát ly phiền não,
đắc bốn đạo quả. Như người hái hoa đi khắp trong núi,
thấy các loại hoa nở tươi tốt thì hái mang đi, Như Lai cũng
vậy. Ngài lại có Phật sự khác như sáng sớm nhập định,
rồi hoan hỷ xuất thiền, dùng đại từ bi quán sát mười
phương thế giới. Ai đáng được độ thì được Như Lai
đến độ. Ngài lại có những Phật sự khác như có những
người từ nước khác mới đến, được Như Lai thăm hỏi
và thuyết pháp.
Với nhân duyên hiện
nay là sắp có sự chế giới. Ðây là đạo pháp vô thượng
của chư Phật.
Hỏi: - Thế nào là pháp
của Thanh-văn?
Khi Phật còn tại
thế, có hai trường hợp tập chúng trễ; đó là sau ngày đầu
tiên nhập hạ (tập chúng) để nhận đề mục thiền định;
hai là sau ngày mãn hạ an cư, (tập họp chúng) để trình
sự chứng đắc. Ðây là pháp của Thanh-văn. Nhu trong luật
nói: Phật bảo A-Nan, hãy cùng nhau đi đến. Ðến là chỉ
cho đến Bà-la-môn biệt thỉnh. Riêng là nói với họ rằng
đã an cư xong, chúng tôi đang muốn du hành đến nước khác.
Khi ấy, vào sáng sớm,
Phật mặc ca-sa, chỉnh trang y phục lên đường, với A-Nan
theo hầu, cùng đi đến cửa thành. Sau khi vào thành, Ngài phóng
ánh sáng lớn chiếu khắp đường sá, ngỏ hẻm, nhà cửa
trong thành làm cho cảnh vật trở thành như khối vàng. Với
hào quang năm màu vàng rực như điện, đức Phật đi đến
nhà Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã và đứng ngay trước cửa.
Thấy hào quang rực
rỡ của Phật chiếu đến, mọi người vội vào báo với Bà-la-môn:
- Sa-môn Cù-đàm đã đến trước cửa.
Nghe tin Phật đến, Bà-la-môn
bừng tỉnh ngộ ra, vội vàng bố trí chỗ ngồi bằng nệm
và đích thân ra nghênh đón, bạch Thế Tôn: Xin mời Ngài đi
vào bằng lối này.
Sau đó, Phật vào nhà
và an tọa. Ý muốn ngồi gần Phật nhưng không có cách nào,
Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã đành đứng vòng tay hầu bên Phật.
Pháp sư nói: - Những câu
sau hãy tự hiểu lấy.
Bà-la-môn bạch Phật:
- Thưa Thế Tôn! Con chưa làm những điều đáng phải làm.
Pháp sư nói: - Ðây là
Bà-la-môn muốn nêu lên sự việc đã hứa cúng dường Như
Lai trước đây.
Bà-la-môn thưa: - Trước
đây, con có thỉnh Như Lai ba tháng an cư, đúng ra hàng ngày
con phải đem cơm cháo, thức ăn, trái ngọt, nước uống đến
cúng dường Thế Tôn. Nhưng vì ngu si quên mất nên chưa cúng
dường một chút nào chứ chẳng phải con không cúng. Con chưa
được dâng cúng vì là kẻ thế tục áo trắng bận bịu
nhiều công việc, lại bị sân hận ngu si chèn ép đến mê
loạn làm cho con quên mất nên chưa dâng cúng.
Pháp sư nói: - Tại sao
Bà-la-môn nói như vậy? Vì không biết bị ma vương làm cho
mê hoặc nên ông ta tự trách mình do bận công việc của
thế tục nên quên Thế Tôn. Do đó, ông ta lại suy nghĩ
rằng ta thỉnh an cư Phật ba tháng để cúng dường, nhung chưa
dâng gì cả, vậy ta nên dùng hết phẩm vật dự định
trong ba tháng đem cúng dường trong một ngày (và thưa
rằng): Cầu mong Thế Tôn thương tưởng mà nhận sự cúng dường
vào ngày mai. Bà-la-môn thỉnh Như Lai xin được cúng dường
trọn vẹn vào ngày mai.
Quán sát tâm ý rất
hoan hỷ của Bà-la-môn, đức Phật thương tưởng suy nghĩ:
Nếu Ta không nhận lời thì Bà-la-môn này sẽ sinh tâm xấu
với suy nghĩ rằng: Sa-môn Cù-Ðàm vì không được cúng dường
suốt trong ba tháng được thỉnh nên nay oán hận không
nhận lời thỉnh của ta nữa. Do đó ông ta sẽ nói rằng
Sa-môn Cù-đàm không phải là bậc Nhất thiết trí, không
biết nhẫn nại; hoặc sẽ nói những lời tương tự như
vậy để khinh khi Như Lai thì phải chịu quả báo của tội
nặng. Do đó, ta nên nhận lời mời của ông ta.
Luật Thiện Kiến
Tỳ-Bà-Sa
-Quyển thứ năm-
--- o0o ---
Mục
Lục |
I | II
| III
|
IV
|
V
|
VI |VII
|
VIII
|
IX
| X
|
XI |
XII |
XIII |
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ Bình Anson
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ luật
này (Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002