- NGHIÊN CỨU
VỀ
- THIỀN
UYỂN TẬP ANH
Tiến sĩ Lê Mạnh
Thát
Nhà
Xuất Bản TP.HC1999
--o0o--
III.
VẤN ÐỀ SOẠN NIÊN VÀ TÊN TÁC GIẢ
Kể
từ ngày Lê Quí Ðôn ghi Thiền uyển tập anh vào bản thư
tịch đầu tiên của nước ta hiện còn trong Ðại Việt thông
sử 3 và nói: "Nó do người đời Trần soạn, chép
chuyện các cao tăng từ cuối đời Ðường qua Ðinh, Lê, Lý,
Trần", vấn đề soạn niên và tác giả của nó vẫn chưa
được giải quyết một cách ổn thỏa. Phan Huy Chú trong
Lịch triều hiến chương loại chí 45 thì chỉ bằng lòng chép
lại những gì Ðôn đã viết. Ðến khi Trần Văn Giáp phát
hiện ra và giới thiệu nghiên cứu nó, ông đã tiến thêm
một bước tới việc đề nghị năm soạn, nhưng với những
lý cứ hết sức yếu kém, dẫn đến tình trạng là đề
nghị ấy dù đúng đắn, đã bị Gaspardone nghi ngờ và bác
bỏ. Thực tế, đề nghị ấy của Trần Văn Giáp gồm hai bước.
Bước thứ nhất, đề nghị Thiền uyển tập anh là một tác
phẩm đời Trần, một điều ai cũng biết từ thời Lê Quí
Ðôn, nhưng chưa được chứng minh. Ở bước này, ông chỉ trưng
được hai chứng cớ duy nhất, đó là: 1, Niên đại các vị
Sư trong Thiền uyển tập anh không sống quá năm 1228, và 2,
Họ của viên sứ nhà Tống, Lý Giác bị đổi thành Nguyễn
trong truyện Khuông Việt.
Bây
giờ chứng cớ thứ nhất, Gaspardone đã dựa vào ghi chú trên
của Lê Quí Ðôn, theo đấy, Thiền uyển tập anh chép truyện
các cao tăng cho đến Lý, Trần, mà ông hiểu là phải bao
gồm cả truyện của những cao tăng đời Trần nữa để
vạch ra rằng, có thể tự nguyên ủy Thiền uyển tập anh có
một quyển về các vị Thiền sư đời Trần, nhưng "hình
như bị Phúc Ðiền loại khỏi Thiền uyển tập anh". Ðương
nhiên, kết luận ấy của Gaspardone là không thể chấp nhận
được, vì Gaspardone đã cứ vào môt suy luận không thực, đấy
là chuyện Phúc Ðiền loại khỏi Thiền uyển tập anh một
quyển các thiền sư đời Trần, trong khi đó chưa bao giờ có
một điểm chỉ nào hết về sự hiện diện thực sự của
một quyển như thế. Câu ghi chú của Lê Quý Ðôn trong Nghệ
văn chí, mà sau này Phan Huy Chú lập lại, không nhất thiết
cho phép ta giả thiết sự hiện diện của một quyển như
vậy, trái lại, nó chỉ ghi lại một sự thực, ấy là một
số Thiền sư trong Thiền uyển tập anh đã sống qua tới
thời Trần không phải chỉ ở năm 1228 chậm nhất, mà còn
ở những năm chậm hơn nữa. Chẳng hạn, Tức Lự học trò
của Thông Thiền và Ứng Thuận, học trò của Tức Lự,
Thiền uyển tập anh dầu không cho ta biết năm mất, ta cũng có
thể đoán phải mất khoảng tối thiểu những năm 1230 cho đến
1250. Do thế, không cần phải giả thiết một cách vô căn
cứ sự có mặt của một quyển viết về các Thiền sư đời
Trần trong Thiền uyển tập anh, như Gaspardone đã làm, ta cũng
có thể vạch ra một cách dễ dàng rằng năm 1228 không phải
là năm chậm nhất trong nó, và ta không thể dùng niên đại năm
1228 đó để xác định năm viết ra nó.
Về
chứng cớ thứ hai, việc đổi tên Lý Giác thành Nguyễn Giác
cũng không nhất thiết cho phép ta kết luận Thiền uyển tập
anh là một tác phẩm đời Trần, bởi trong nó đang còn có
một số người mang tên họ Lý, mà rõ ràng nhất là Lý Thái
Tổ ở truyện Ða Bảo tờ 9b10, Lý Thái Tôn ở truyện Thiền
Lão tờ 10b11, Lý Linh Cảm thái hậu ở truyện Viên Chiếu
tờ 11a10, Lý Nhân Tôn cũng ở truyện Viên Chiếu tờ 15b9
v.v…Với những người mang tên họ Lý còn nhiều như vậy,
đương nhiên việc đổi Lý Giác thành Nguyễn Giác tất không
có một giá trị làm chứng lịch sử nào cả.
Với
hai dẫn chứng nhỏ vừa nêu, Trần Văn Giáp dĩ nhiên không
thể nào chứng minh được sự ra đời của Thiền uyển tập
anh vào thời Trần và do đó không thể thuyết phục được
ai chấp nhận một thuyết như thế. Dẫu vậy, ông đã tiến
thêm một bước nữa, để đưa ra một niên đại cho sự ra
đời đó, bằng cách dựa vào một câu viết trong truyện Vô
Ngôn Thông tờ 5a7, theo đấy "lại đến năm Ðinh sửu
Khai hựu thứ 24, Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ Sư
trở đi". Nhưng Gaspardone đã vạch ra, câu ấy chứa đựng
nhiều sai lầm và nghi vấn, song Trần Văn Giáp đã bỏ lơ đi
và không bàn tới. Ví dụ, niên đại Khai Hựu đời Trần
Hiền Tôn chỉ kéo dài 12 năm thôi, chứ không có 24 năm hay 14
năm. Từ đó, nếu không giải quyết những khó khăn bao vây câu
ấy, ta không thể nào đề nghị năm Khai Hựu Ðinh sửu là năm
Thiền uyển tập anh ra đời.
Phê
bình những lý cứ trên của Trần Văn Giáp, chúng tôi tất không
nhằm đến cùng một kết luện kiểu Gaspardone, đấy là than
phiền về tình trạng văn bản Thiền uyển tập anh đã bị
thiếu sót và sửa thêm ở bản in năm 1715 xưa nhất hiện còn.
Dĩ nhiên, người hiệu đính bản in năm đó đã có những
sửa thêm, mà chú7ng cớ rõ ràng nhất là họ các vị vua nhà
Lý đã bị sửa thành Lý, trong khhi đó đùng ra nó phải có
Nguyễn, như trường hợp Lý Giác bị đổi thành Nguyễn Giác,
Lý Thường Kiệt bị đổi thành Nguyễn Thường Kiệt. Dẫu
vậy, một cuộc nghiên cứu tỉ mỉ vẫn cho phép ta kết
luện Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần và nó
ra đời vào chính năm 1337, tức năm Ðinh sửu Khai Hựu.
1.
THIỀN UYỂN TẬP ANH
LÀ MỘT TÁC PHẨM ÐỜI TRẦN
Bộ
sử xưa nhất của nước ta hiện còn là Ðại Việt sử lược.
Nó bị bọn xâm lược Minh vơ vét đem về Trung quốc khoảng
những năm 1407 – 1428, trong khi đang chiếm đóng nước ta, nên
những sử gia từ năm sau 1428 trở đi không một ai biết đến
nó cả. Ở Trung quốc, Ðại Việt sử lược chuyền qua
nhiều tay, để cuối cùng tên tuần phủ tỉnh Sơn đông đã
bắt gặp và dâng nó lên cho vua Càn Long nhà Thanh khoảng năm
1776. Càn Long cho chép ra, mà một bản tàng trữ tại Văn lan các
ở Hàng Châu. Tiền Hy Tộ đã dùng bản chép Văn lan các mà
in nó ra trong Tùng thư Thủ sơn các của mình, từ đó bộ
sử xưa nhất của ta mới trở nên phổ cập. Ðại Việt sử
lược như vậy là một sử liệu đời Trần chưa từng qua
tay người nước ta từ thế kỷ thứ 15 trở đi. Mặc dù ở
Trung quốc, nó không phải không bị những sử gia phong kiến
Trung quốc sửa đổi, như trước đây, có người đã lầm tưởng.
Song sự sửa đổi ấy, chúng tôi nghĩ phần lớn giới hạn vào
những việc và văn từ có xúc phạm tới danh dự và hệ ý
thức của những người lãnh đạo phong kiến Trung quốc mà
thôi, chứ không phải lan tràn đến những việc khác. Do
thế, Ðại Việt sử lược đã giữ lại một phần lớn bộ
mặt lịch sử của mình, lúc mới ra đời dưới thời Trần.
Vì thế, để chứng minh Thiền uyển tập anh là một tác
phẩm đời Trần ta thử truy cứu xem nó có chứa đựng
những sử kiện nào trùng hợp với Ðại Việt sử lược, mà
không thấy các sử liệu khác của ta ghi lại hay ghi khác đi.
Thực hiện một cuộc truy cứu như vậy, đã cung hiến cho ta
những kết quả sau:
(a).
Truyện Khuông Việt tờ 8b9-10 nói: "Năm Thiên Phúc thứ
nhất, quân Tống vào đánh cướp". Truyện Vạn Hạnh tờ
52a1 – 2 viết: "Năm Thiên Phúc thứ nhất, Hầu Nhân Bảo
của nhà Tống đến đánh cứơp, đóng quân ở Cương giáp, Lãng
sơn". Việc Hầu Nhân Bảo đem quân đến đánh nước ta,
theo Thiền uyển tập anh như vậy xảy ra vào năm Thiên phúc
thứ nhất. Năm đấy, theo Ðại Việt sử lược 1 tờ 19a8 cũng
là năm Hầu Nhân Bảo đánh vào nước ta và đóng quân ở Lãng
sơn. Nó viết: "Năm Thiên Phúc thứ nhất, mùa xuân tháng
ba quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây
Kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng giang". Trong khi đó, Toàn
Thư B1 tờ 14a41 lại ghi việc ấy xảy ra và năm Thiên Phúc
thứ hai và tại Lạng sơn. Nó viết: "Năm Thiên Phúc thứ
hai mùa xuân tháng ba Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến
Lạng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến
Bạh đằng giang".
(b).
Truyện Viên Chiếu tờ 11a9 – 10 nói Viên Chiếu "họ Mai,
tên Trực, là con người anh bà Thái Hậu Linh Cảm nhà Lý".
Trước đây, Hoàng Xuân Hãn đã tưởng lầm thái hậu Linh
Cảm là thái hậu Linh Nhân nên đã hai lần viết "Sư Viên
Chiếu cháu thái hậu Linh Nhân" hay "Sư Viên Chiếu là
con anh thái hậu Ỷ Lan" {Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường
Kiệt, Saigon: Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, 1966, tr.422-432}.
Thế thì, thái hậu Linh Cảm là ai? Củ soát lại những tư
liệu lịch sử nước ta thì không thấy một tài liệu nào
ghi tên thái hậu Linh Cảm cả. Nhưng Ðại Việt sử lược 2
tờ 11a1 nói Lý Thánh Tôn lúc đã lên ngôi, "tôn mẹ là
Mai thị làm thái hậu Linh Cảm" vào năm Long Thụy Thái Bình
thứ nhất (1054). Như vậy thái hậu Linh Cảm họ Mai tức là
mẹ của Lý Thánh Tôn, chứ không phải là thái hậu Linh Nhân
vợ của Lý Thánh Tôn và mẹ của Nhân Tôn. Trong khi đó, Toàn
Thư B2 tờ 39b1 lại ghi mẹ của Lý Thánh Tôn là thái hậu Kim
Thiên". Nó viết: "tôn mẹ Mai Thị làm hoàng thái
hậu Kim Thiên". Ta thật không biết Toàn thư đã lấy tên
Kim Thiên đấy ra từ đâu.
(c).
Truyện Ðại Xá tờ 29a 10-11 chép: "Kiến Ninh Vương và công
chúa Thiên Cực tôn kính". Một lần nữa, Kiến Ninh Vương,
và công chúa Thiên Cực không thấy các sử ta nói tới, trừ
Ðại Việt sử lược. Về Kiến Ninh Vương, Ðại Việt sử lược
3 tờ 11: 6-8 viết: "Năm Trinh Phù thứ 10 (1185) mùa xuân,
Kiến Ninh Vương Long Ích đem quân hơn 12 ngàn người đi đánh
Lào núi ở Linh sách để trả thù trận La sách…". Kiến
Ninh Vương như vậy theo Ðại Việt sử lược là phong tước
của Long Ích, con của Lý Anh Tôn. Bây giờ theo Toàn thư B4
tờ 21a8 thì Long Ích, có tước là Kiến Khương Vương. Nó
viết "Năm Trinh Phù thứ 10 mùa thu tháng 7, vua sai Kiến Khương
Vương Long Ích đem quân đi đánh các bọn mọi ở Viêm sách,
bình định được".
Về
công chúa Thiên Cực thì Toàn thư không màng ghi lại ngay cả
tên cô. Nhưng Ðại Việt sử lược 3 lại ghi chép rất rõ
cuộc đời đầy đào hoa và sinh sát của cô công chúa này.
Tờ 7a2-3 ghi việc cô lấy Hoài Trung Hầu, Châu mục Lạng sơn
làm chồng vào năm 1176. Tờ 19b4-7 ghi chuyện cô thông dâm
với Phạm Du, dẫn tới cái chết của Du vào năm 1209. Rồi
tờ 22a7-8 chép việc cô thông dâm với Tô Trung Tự, làm cho
Tự bị chồng cô là Vương Thượng giết chết vào năm 1211.
Cuối cùng tờ 24a1-2 ghi chuyện Ðinh Cối đánh Lạng châu
rồi lấy của cải ở nhà cô vào năm 1212.
(d).
Truyện Tịnh Giới tờ 34a5-6 nói: "Năm Trinh phù thứ tư
chùa Chân giáo núi Vạn bảo làm thành, vua sai các bậc kỳ đức
đến hội khánh thành". Việc này Toàn thư và các sử sách
khác không thấy ghi, trừ Ðại Việt sử lược 3 tờ 9b9-10. Nó
viết: "Năm Trinh Phù thứ tư (1179) tháng năm, sửa thêm chùa
Chân giáo, vua xuống chiếu lấy chùa đó làm nơi hành hương
vào ngày kỵ của Anh Tôn".
(đ).
Truyện Hiện Quang tờ 41b5 nói Quang "vì nhận sự cúng dường
của công chúa Hoa Dương, mà sự chê bai thời bấy giờ nổi
lên như ong". Công chúa Hoa Dương này, Toàn thư và các sách
sử không thá6y nói tới trừ Ðại Việt sử lược 3 tờ
10a11. Nó viết: "Năm Trinh Phù thứ 5 (1180) mùa đông cho
thủ lãnh châu Vị Long Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương".
(e).
Truyện Ðạo Hạnh tờ 55a6-56a3 kể chuyện Giác Hoàng bị phù
phép của Ðạo Hạnh làm chết và chuyện Hạnh bị vua bắt và
Sùng Hiền giải cứu. Chuyện này Ðại Việt sử lược 2 tờ
21a4-b5 chép hoàn toàn giống hệt, hầu như không sai một
chữ. Nhưng Toàn thư và các sách sử khác không thấy nói đến,
trừ truyện Ðạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ
29, mà chúng tôi cho là một trích dẫn trực tiếp và hoàn toàn
từ Thiền uyển tập anh chứ không gì khác. Có người dựa vào
cách viết chữ trích trong Lĩnh nam trích quái truyện để nói
rằng tất cả những truyện trong tác phẩm ấy là do chính tác
giả chúng viết. Song thực sự là, tối thiểu bốn truyện
trong chúng đã hoàn toàn đồng nhất với bốn truyện trong
Thiền uyển tập anh. Mà Thiền uyển tập anh lại viết vào
khoảng năm 1337, như sẽ thấy, và Lĩnh nam trích quái thì không
thể viết trước năm 1346, vì đấy là năm xảy ra truyện Hà
Ô Lôi do nó chép lại. Từ đó, ta phải kết luận rằng Lĩnh
nam trích quái quả đã trích bốn truyện vừa nêu từ chính
Thiền uyển tập anh. Sự đồng nhất không những về cốt
truyện mà còn về văn tự và ngữ cú không cho phép ta giả
thiết nó đã trích dẫn bốn truyện ấy từ một nơi nào khác
được, ngay cả từ những nguồn sử liệu của Thiền uyển
tập anh.
(g).
Truyện Thiền Nham tờ 59a8 viết: "Trong khoảng Ðại
Thuận, có hạn, vua xuống chiếu mời sư đến kinh cầu mưa".
Truyện Giới Không tờ 62b8 cũng ghi một nạn dịch lớn xảy
ra vào năm Ðại Thuận thứ 8. Chữ thứ 8, chúng tôi nghi là
một viết sai của chữ thứ hai, tức chữ bát là một viết
sai của chữ nhị, một điều tương đối dễ xảy ra, nhưng
vì cả Ðại Việt sử lược lẫn Toàn thư, không thấy sách
nào ghi một vụ dịch xảy ra vào khoảng Ðại Thuận cả nên
chúng tôi đề nghị giả thiết vừa nêu. Truyện Viên Thông
tờ 69a5 viết: "Năm Ðại Thuận thứ 3 (1130) Lý Thần Tôn
mời Thông vào điện Sùng Khai.
Niên
hiệu Ðại Thuận đây của Lý Thần Tôn chỉ xuất hiện
trong Ðại Việt sử lược 3 tờ 1a7-b11 mà thôi, kéo dài từ
năm Mậu thân (1128) đến năm Nhâm tý (1132). Còn Toàn thư B3
tờ 28b2-37a4 thì có niên hiệu Thiên Thuận, các sách sử khác
của ta đều chép theo Toàn thư.
(h).
Truyện Bản Tịch tờ 60b9 nói: "Tịch mất vào ngày 14 tháng
6 mùa hè năm Kỷ Mùi Thiệu Minh thứ 3" (1139). Theo Toàn thư
B4 tờ 1a7 và các sử sách khác thì năm Kỷ mùi phải là năm
Thiệu Minh thứ 2, còn năm Thiệu Minh thứ 3 phải là năm Canh
Thân. Nhưng Ðại Việt sử lược 3 tờ 3a2 ghi năm Kỷ mùi đúng
là năm Thiệu Minh thứ 3 đời Lý Anh Tôn.
(i).
Truyện Viên Thông tờ 68b10 nói: "Năm Long Phù Nguyên Hóa
thứ 8, thăng Thông làm Thiên hạ hoằng tài, điền vào chân
thiếu người trong giai tăng đạo", dù trước đó chuyện
Thuần Chân tờ 57a10 nói Chân mất vào "ngày 7 tháng hai năm
Ất dậu Long Phù thứ nhất". Long Phù Nguyên Hóa là một
niên hiệu của Lý Nhân Tôn kéo dài từ năm Tân tỵ (1101) đến
năm Kỷ sửu (1109) gồm cả thảy 9 năm. Ðại Việt sử lược
2 tờ 19a1 – 20b6 đã ghi niên hiệu ấy đúng tên như vậy,
trong khi Toàn thư B3 tờ 13b6 – 15b5 và các sử sách khác của
ta đều chỉ ghi tên Long Phù mà thôi. Trước truyện Viên Thông,
truyện của Thuần Chân ở tờ 57a10 nói Chân mất vào năm
"Long Phù nguyên niên Ất dậu". Nhưng khảo Toàn thư
B3 tờ 13b6 thì Long Phù nguyên niên không phải là năm Ất
dậu mà là năm Tân tỵ. Trái lại, năm Ất dậu phải là năm
Long Phù ngũ niên. Do thế, chúng tôi nghĩ rằng chữ niên trong
Long Phù nguyên niên là một hiệu đính sai hay khắc sai của
chữ Hóa. Từ đó, đúng ra ta phải đọc Long Phù Nguyên Hoá
Ất dậu, chứ không phải Long Phù nguyên niên Ất dậu.
Như
vậy có cả thảy chín sự kiện trùng hợp giữa Thiền uyển
tập anh và Ðại Việt sử lược. Và như đã nói, cuốn Ðại
Việt sử lược cho đến thế kỷ 20 này các sử gia ta mới
biết tới và sử dụng, chứ trước đó trở lên tối thiểu
tới lúc Ngô Sĩ Liên hoàn thành bộ Ðại Việt sử ký toàn
thư của ông vào năm 1479, nó hoàn toàn không bao giờ được
nhắc đến. Do thế, bằng chín sự trùng hợp đó, chúng ta
bắt buộc phải kết luận, trừ phi tác giả Thiền uyển
tập anh sống cùng thời với tác giả Ðại Việt sử lược
mới có thể ghi lại chín sử kiện có sự trùng hợp ở trên.
Nói cách khác, Thiền uyển tập anh đã có cơ hội sử dụng
cùng những thứ tài liệu mà tác giả Ðại Việt sử lược
đã dùng, liên quan tới những sự việc lịch sử khác, mà ngày
nay ta hiện chưa có thể truy ra nơi xuất xứ, nhưng chắc
chắn là những việc có thật. Ví dụ truyện Tịnh Không tờ
28a3 ghi lại tên công chúa Nam Khương đi xuất gia, song ta
hiện chưa biết công chúa Nam Khương đó là ai. Hay truyện
Bản Tịch tờ 60b3 nói Tịch là hậu duệ của Nội cung
phụng đô úy Nguyễn Kha triều Tiền Lê v.v…Thêm vào đó, tác
giả Thiền uyển tập anh ở những truyện Tịnh Giới tờ
34b7, Vạn Hạnh tờ 53a8, Khánh Hỷ tờ 62a11 đều nói tới
chuyện so với Quốc sử hay Sử ký. Nhưng ngày nay phần
nhiều những chi tiết chép trong các chuyện đó ta không thể
so sánh hay tra cứu lại đầy đủ trong các bộ sử của nước
ta hiện còn, tức Ðại Việt sử lược và Toàn thư. Bằng chính
chín chứng cớ trùng hợp trên, Thiền uyển tập anh chắc
chắn phải là một tác phẩm đời Trần không thể nào chối
cãi khác được.
Ðấy
là chưa kể nnhững kỵ huý của các vua đầu đời Trần đã
thấy xuất hiện trong Thiền uyển tập anh một cách nhất
loạt, nhưng không được đồng đều và dứt khoát cho lắm,
mà Trần Văn Giáp và Hoàng Xuân Hãn đã có dịp vạch ra.
Chủ yếu và rõ rệt nhất là những miếu huý sau. Thứ nhất
là chữ Lý. Vì nguyên tổ của nhà Trần tên Lý, "nên
dời triều Lý ra triều Nguyễn để tuyệt lòng mong họ Lý
của dân", như Toàn thư B5 tờ 7b6-7 ghi lại cái lệnh ban
quốc húy vào năm Kiến Trung thứ 8 (1232). Trong Thiền uyển
tập anh, tên của Lý Giác ở truyện Khuông Việt tờ 9a1,
của Lý Thường Kiệt ở truyện Chân Không tờ 65a10 bị đổi
thành Nguyễn Giác và Nguyễn Thường Kiệt, dẫu rằng tên các
vị vua họ Lý hoàn toàn đã bị một bản in trước bản in năm
1715 hay chính bản in đấy đổi thành họ Lý như cũ, như chúng
tôi đã vạch ở trên. Sự không đồng đều và dứt khoát
của bằng chứng húy kỵ nằm chính tại những trường hợp
hàm hồ như vậy. Tiếp đến là chữ Càn. Toàn thư B6 tờ
30a2-3, trong khi ghi chuyện Trần Anh Tôn đi đánh Chiêm Thành,
đóng quân lại ở cửa Cần vào năm 1312, có chua "Cửa
Cần nó trước gọi là Cần, vì tránh huý nên đổi làm Càn".
Chữ Càn như thế là một miếu huý của nhà Trần, dẫu ta không
biết thuộc tên ai. Trong Thiền uyển tập anh, vì tránh miếu
húy ấy, nên tên Phụng Càn Vương ở truyện Huệ Sinh tờ
58b2 và truyện Diệu Nhân tờ 66b9 bị đổi thành Phụng Yết
Vương, núi Càn ni ở truyện Pháp Dung tờ 63a7 bị đổi thành
núi Ma ni. Ngay cả cái tên Pháp Dung, nếu cứ theo bia chùa Hương
Nghiêm viết vào năm 1124 thì phải gọi là Ðạo Dung, nhưng,
như Hoàng Xuân Hãn đã vạch ra một cách hợp lý chữ Ðạo
bị đổi thành chữ Pháp, vì huý kỵ của Trần Hưng Ðạo.
Ngoài ba chữ miếu huý vừa nêu, có thể còn một số miếu húy
khác nữa đã làm những tên người và tên đất trong Thiền
uyển tập anh thay đổi. Chẳng hạn, chữ Diệu trong tên của
Diệu Nhân trong truyện Chân Không tờ 66a6 ghi thành Mậu, để
tránh tên riêng của mẹ Trần Thái Tôn là Lê thị Diệu, như
Toàn thư B6 tờ 1a9 đã chép.
Dẫu
thế, với những kỵ huý ấy, dù tự bản chát chúng là có
giá trị không đồng đều và dứt khoát, nên những ai dựa vào
chúng để lập luận về niên đại của Thiền uyển tập anh
tất không thể không phạm những sai lầm nghiêm trọng, ta
vẫn có thể nói rằng chúng đã giúp soi sáng chín bằng cớ
nêu trước, cũng như chín bằng cớ đó giúp chúng bây giờ
hết có tính chất không đồng đều và không dứt khoát.
Vấn đề Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời Trần,
đến đây, như vậy không còn cần phải bàn cãi nữa. Thiền
uyển tập anh dứt khoát là một tác phẩm đời Trần. Nếu
thế, ta có thể biết nó viết vào năm nào không?